CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN – A

16-10-2020 1,352 lượt xem

Is 45:1, 4-6. 1Tx 1:1-5b. Mt 22:15-21

Mục Lục

MỖI NGƯỜI ĐỀU MẮC NỢ VỀ SỰ HIỆN HỮU CỦA MÌNHĐTC. Phanxicô

THIÊN CHÚA VÀ XÊ-DA - + ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên

HÃY TRẢ LẠI CHO CAESAR - Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD

THUỘC VỀ THIÊN CHÚA - Lm. Giuse Mai Văn Thịnh, DCCT

ĐỜI – ĐẠO RẠCH RÒI - Trầm Thiên Thu

TÔI LÀ CÔNG DÂN NƯỚC NÀO? - Giuse Vinhsơn Ngọc Biển, SSP

HÃY RA ĐI RAO GIẢNG TIN MỪNG - Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

TRUYỀN GIÁO LÀ RA ĐI - Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

THỔN THỨC CỦA CHÚA VÀ VINH QUANG HỘI THÁNHLm. JB. Nguyễn Minh Hùng

Thơ: SỞ HỮU - Viễn Dzu Tử

Thơ: TRẢ VỀ THIÊN CHÚA - (Thế Kiên Dominic)

MỖI NGƯỜI ĐỀU MẮC NỢ VỀ SỰ HIỆN HỮU CỦA MÌNH

ĐTC. Phanxicô

Anh chị em thân mến, chào anh chị em!

Bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay (x. Mt 22, 15-21) cho chúng ta thấy Chúa Giêsu phải đối diện với thói đạo đức giả của những kẻ thù nghịch với Người. Lúc đầu thì dành cho Ngài nhiều lời khen nhưng sau đó họ lại hỏi một câu gài bẫy, gây khó khăn cho Ngài và làm cho Ngài mất uy tín trước dân chúng. Họ hỏi Chúa Giêsu: “Có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không?” (câu 17). Vào thời đó, đế quốc Roma thống trị vùng Palestine. Đối với dân chúng, việc sùng bái hoàng đế, cũng được thể hiện qua hình ảnh của hoàng đế trên đồng tiền, là một sự xúc phạm đối với Thiên Chúa của Israel.

Những người chất vấn Chúa Giê-su tin chắc rằng không có một cách trả lời nào khác cho câu hỏi của họ ngoài “có” hoặc “không”. Họ chờ đợi, bởi vì với câu hỏi này, họ chắc chắn đã dồn Chúa Giê-su vào chân tường và khiến Ngài rơi vào bẫy. Nhưng Ngài biết được ác ý của họ và đã thoát khỏi cạm bẫy. Ngài yêu cầu họ cho Ngài xem đồng tiền, đồng tiền nộp thuế. Ngài cầm đồng tiền trên tay và hỏi ai là hình ảnh được in trên đồng tiền. Người ta trả lời, đó là của Xê-da, tức là, hoàng đế. Rồi Chúa Giê-su đáp: “Thế thì của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.” (câu 21).

Với câu trả lời này, Chúa Giê-su vượt lên trên cuộc tranh luận. Một mặt, Ngài công nhận rằng phải nộp thuế cho Xê-da – cũng như đối với tất cả chúng ta, thuế thì phải nộp - vì hình ảnh trên đồng tiền là của hoàng đế; nhưng trên tất cả, hãy nhớ rằng mỗi người mang trong mình một hình ảnh khác, mà chúng ta mang trong trái tim, trong linh hồn, đó là hình ảnh của Thiên Chúa, và do đó nó thuộc về Ngài, và chỉ thuộc về Ngài, như thế mỗi người đều mắc nợ về sự hiện hữu của mình, về sự sống của chính mình.

Trong câu trả lời của Chúa Giê-su, chúng ta không chỉ tìm thấy tiêu chuẩn phân biệt giữa lãnh vực chính trị và tôn giáo, mà còn có những hướng dẫn rõ ràng cho sứ mạng của các tín hữu trong mọi thời đại, ngay cả đối với chúng ta ngày nay. Nộp thuế là nghĩa vụ của công dân, cũng như tuân thủ luật pháp của nhà nước. Đồng thời, cần khẳng định quyền tối thượng của Thiên Chúa trong đời sống con người và trong lịch sử, tôn trọng quyền của Thiên Chúa đối với những gì thuộc về Ngài.

Do đó, sứ mạng của Giáo Hội và của các Kitô hữu là nói về Thiên Chúa và làm chứng về Ngài cho những người nam nữ trong thời đại của mình. Mỗi người chúng ta, nhờ Bí tích Rửa tội, được mời gọi trở thành một sự hiện diện sống động trong xã hội, làm cho nó sống động bằng Tin Mừng và bằng nhựa sống của Chúa Thánh Thần. Đó là việc dấn thân với lòng khiêm nhường và với lòng can đảm, góp phần xây dựng nền văn minh tình yêu, nơi công lý và tình huynh đệ ngự trị.

Xin Đức Maria rất thánh giúp tất cả chúng ta thoát khỏi mọi thói đạo đức giả và trở thành những công dân chân thực và xây dựng. Và xin Mẹ nâng đỡ chúng ta là những môn đệ của Chúa Kitô trong sứ mạng làm chứng rằng Thiên Chúa là trung tâm và ý nghĩa của cuộc sống. mục lục

THIÊN CHÚA VÀ XÊ-DA

+ ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên

Đọc lịch sử Giáo Hội, chúng ta thấy có những giai đoạn, thần quyền và thế quyền hợp làm một. Điều này có nghĩa, Giáo Hội vừa có uy quyền đối với các tín hữu, vừa có quyền hành mang tính quyết định trong xã hội. Tình trạng này đem lại lợi ích không nhỏ cho Giáo Hội, nhưng cũng làm cho Giáo Hội mất đi tinh thần của Chúa Giêsu, Đấng Sáng lập Giáo Hội. Mặt khác, đã là quyền hành chính trị thì bao giờ cũng có thủ đoạn âm mưu, bao giờ cũng có kẻ ủng hộ, người chống đối. Chính vì vậy, nếu Giáo Hội của Chúa Giêsu tham gia vào quyền lực chính trị, thì sẽ có nhiều kẻ thù. Lịch sử đã chứng minh điều ấy. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu phân biệt dứt khoát: Của Xê-da thì trả cho Xê-da, và của Thiên Chúa thì trả cho Thiên Chúa. Cần phân biệt rõ ràng thần quyền với thế quyền, để Giáo Hội mang gương mặt của Chúa Giêsu, Đấng là Thiên Chúa cao sang đã trở nên khó nghèo vì chúng ta, đồng thời giúp Giáo Hội thực thi sứ mạng của mình, là tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu để loan báo Tin Mừng cứu độ.

Thiên Chúa là Chủ của lịch sử. Ngài vừa sáng tạo vũ trụ thiên nhiên và con người, vừa nâng đỡ điều khiển để vũ trụ tồn tại và xoay vần trong trật tự. Vua Ki-rô được coi như vị cứu tinh Chúa gửi đến để giải phóng người Do Thái khỏi ách lưu đày bên Babilon. Ngôn sứ Isaia (Bài đọc I), đã diễn tả việc Chúa chọn vua Ki-rô rất chi tiết: Ngài cầm lấy tay ông, cho ông một tước hiệu và ban cho ông sức mạnh với quyền năng. Với việc tuyển chọn vua Ki-rô, Thiên Chúa tỏ ra Ngài là Cha của gia đình nhân loại. Mọi quyền hành đều từ Ngài mà đến và phải phục vụ lợi ích của con người. Những ai nắm quyền hành trong tay mà đi ngược lại với ý muốn của Thượng Đế và đàn áp bóc lột dân nghèo, thì quyền lực của họ không vững bền. Họ sẽ phải diệt vong. Sau này, Đức Giêsu tuyên bố với Philatô: Ông chẳng có quyền gì trên tôi nếu không từ ơn trên ban cho.

Xê-da vừa là tượng trưng cho quyền bính thế gian, vừa diễn tả ảnh hưởng của vật chất trần thế. Cũng như những quyền lực trần gian có những lúc huy hoàng hùng mạnh, nhưng rồi cũng đến lúc phải suy thoái tiêu tan, vật chất trên đời có thể giúp con người làm được mọi sự, nhưng cũng có thể là chiếc bẫy làm cho con người gục ngã. Sống ở đời, cần phải biết phân biệt Xê-da với Thiên Chúa, để có một mối tương quan quân bình trong cách sử dụng và tích luỹ của cải.

Người tin Chúa không bị bứng khỏi thế gian, nhưng sống giữa thế gian. Họ sống ở đời này nhưng hướng về đời sau. Họ được mời gọi chung tay xây dựng cuộc sống xã hội nhân ái yêu thương, nhưng quê hương vĩnh cửu của họ lại ở trên trời. Chính vì vậy, người tín hữu phải biết phân biệt điều gì thuộc về Thiên Chúa và điều gì thuộc về thế gian. Họ không được phép để cho thế gian lôi kéo và nhấn chìm trong những ràng buộc đam mê đến nỗi họ đánh mất hạnh phúc Nước Trời. Trong giáo huấn của mình, Chúa Giêsu luôn đòi buộc những ai muốn theo Chúa phải chọn lựa dứt khoát, để xứng đáng trở thành môn đệ của Người. Hình ảnh người cầm cày còn ngoái lại đàng sau diễn tả những người bắt cá hai tay hay đức tin nửa mùa. Cũng vậy, những ai đã tin vào Chúa còn cậy dựa và những thế lực thần thiêng khác, thì không phải là môn đệ đích thực. Ngỏ lời với giáo dân cộng đoàn Thê-sa-nô-li-ca, Thánh Phaolô khen ngợi lòng bác ái của họ. Một cộng đoàn được thúc đẩy bởi Đức tin, Đức cậy và Đức mến, dồi dào sức sống và nhiệt thành truyền giáo. Tình yêu thương và liên đới giữa cộng đoàn tín hữu đã làm toả lan sự thánh thiện và diễn tả hình ảnh sống động về Đức Giêsu, Đấng cứu độ trần gian. Tình liên đới và quảng đại của cộng đoàn Thê-sa-nô-li-ca, là mẫu mực cho các cộng đoàn đức tin của chúng ta hôm nay.

Hôm nay là Chúa nhật thứ ba của tháng Mười, là ngày Truyền giáo. Truyền giáo là bản chất của Giáo Hội. Mỗi người tín hữu, nhờ Bí tích Rửa tội, đều có bổn phận truyền giáo, tuỳ theo khả năng, trình độ và địa vị của mình. Lệnh truyền của Chúa Giêsu phục sinh cho các môn đệ hai ngàn năm qua vẫn mang tính thời sự cấp bách. Cùng với lời cầu nguyện, mỗi chúng ta hãy làm toả lan sự thánh thiện qua đời sống hằng ngày của mình, để trình bày hình ảnh của Giáo Hội và hình ảnh của Đấng Cứu thế nơi trần gian. Noi gương Chúa Giêsu không mệt mỏi đi đến với mọi người, đem cho họ sự chữa lành và an ủi phần xác cũng như phần hồn, mỗi tín hữu cần ra khỏi chính mình để đến với tha nhân, khởi đầu từ những người thân thuộc lân cận, rồi đến với những người không cùng niềm tin hay bất đồng quan điểm đang sống xung quanh chúng ta. mục lục

HÃY TRẢ LẠI CHO CAESAR...

Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD

Bài Phúc Âm hôm nay (Mt 22:15-21) là câu chuyện đã được thánh Mátthêu kể tiếp liền sau câu chuyện ngụ ngôn tiêc cưới con vua. Lại một lần nữa mấy người Pharisiêu cố tình gài bẫy Chúa Giêsu. Họ đã nhận ra rằng Chúa ám chỉ họ là những người đã từ chối không đến dự tiệc cưới và giết sứ giả của vua, nghĩa là không chịu cải đổi tâm hồn để trở nên thánh thiện qua câu chuyện ngụ ngôn tiệc cưới Chúa Nhật tuần trước (Mt 22:1-14). Do đó họ bắt đầu âm mưu chống Chúa bằng cách gài bẫy để có cớ tấn công Ngài. Thoạt tiên họ ve vãn, nịnh bợ Chúa -theo mưu kế chúng đã tính- để Ngài lơ ý mà nói lỡ lời. Một tên Pharisiêu giả vờ ca ngợi Chúa, nào là Chúa lương thiện, nhân lành, chỉ biết giảng dạy sự thật, ngay thẳng theo đường lối của Thiên Chúa, không coi trọng ý kiến cũng như xét đoán con người chỉ dựa vào bề ngoài. (c. 16).

Câu chúng hỏi Chúa “Theo luật thì có phải đóng thuế cho Caesar hay không?”, thì chúng biết Chúa thừa khả năng để cắt nghĩa luật Torah của Do Thái. Còn Chúa, chắc chắn cũng thừa biết hậu ý xấu của chúng khi đặt câu hỏi này, cũng như những thách thức và cạm bẫy chúng giăng ra để giật sập Ngài. Những tên Pharisiêu này buộc Ngài phải đứng vào tư thế hoặc là chống lại đa số dân chúng hoặc là đối ngịch với chính quyền La Mã lúc đó. Cả hai đều nguy hiểm cho Chúa. Và chúng sẽ dựa vào đó để hãm hại Ngài. Nhưng Chúa Giêsu khôn ngoan vô cùng.

Ý NGHĨA VIỆC ĐÓNG THUẾ

Loại thuế đặc biệt nói trong Tin Mừng hôm nay là thuế thân, nghĩa là thuế đánh trên đầu người, bất kể nam, nữ hay nô lệ tuổi từ 12 đến 65 đều phải chịu. Tiền thuế đóng là 01 Denarius (đồng tiền bạc cổ La Mã), tương đương một ngày lương. Loại thuế này được thiết lập năm thứ 6 AD khi mà xứ Judea trở thành một tỉnh lỵ của La Mã. Dân Do Thái Israel rất ghét loại thuế này nên ngọn lửa quốc gia cực đoan đã bùng lên, rồi từ đó mới phát sinh ra phong trào Zealot, một phong trào quá khích chống lại đế quốc La Mã xâm lược đã gây ra cuộc chiến tàn khốc vào những năm 66-70 cho người Do Thái. Trong khi những người Pharisiêu chống lại việc đóng thuế thì phe theo Hêrôđê lại ủng hộ La Mã và chấp nhận đóng thuế. 

Nếu Chúa Giêsu ủng hộ việc đóng thuế cho Caesar thì Ngài sẽ bị dân Do Thái phản đối, không nhận là tiên tri của họ. Ngược lại nếu Ngài dùng lý, chống lại thuế thì họ sẽ báo cáo với La Mã Chúa là tay cách mạng, phản động nguy hiểm. Chúa đã nhìn rõ cái bẫy chúng giăng ra, nên Chúa biểu chúng đưa cho Chúa coi đồng tiền đóng thuế. Họ đã đưa cho Chúa đồng tiền La Mã (c.19). Sự thật đã hiện trên mặt đồng tiền là khi đã nhận đồng tiền đó làm kinh tế, phương cách buôn bán, trao đổi thương mại, tức chấp nhận sự cai trị của người La Mã trên đất Palestine rồi.

Chúa Giêsu hỏi chúng về cái hình người và danh hiệu trên đồng tiền. Đa số dân Do Thái coi đồng tiền đó là phạm thượng bởi vì đó là hình người, và như vậy, theo luật Do Thái trong cựu ước là phạm giới răn cấm không được tạc hình người hay súc vật, tức là phạm tội thờ ngẫu tượng. Còn tước hiệu thì ghi: “Tiberius Caesar, con thần linh Augustus, thầy cả thượng phẩm” thì rõ ràng là tuyên bố đối đầu với Thiên Chúa là Đấng đang thống trị trên dân Israel. Do đó, dân Do Thái không coi đồng tiền đó là gì cả.

HÃY TRẢ LẠI CHO CAESAR….

Câu trả lời của Chúa: “Hãy trả cho Caesar cái gì thuộc về Caesar, và trả cho Thiên Chúa cái gì thuộc về Thiên Chúa” ám chỉ rằng cả dân Pharisiêu lẫn dân theo Hêrôde chẳng tên nào làm chuyện này cả. Đây là một cáo buộc nghiêm trọng. Những ai đồng ý dùng đồng tiền này của Caesar thì phải trả thuế lại cho Caesar đúng như vậy. Câu trả lời của Chúa Giêsu tránh không nói về khía cạnh pháp luật là phải đóng thuế.

Chúa hoàn toàn biết chúng là những kẻ giả hình nhân đức, và Chúa còn biết rõ chúng hơn nữa về những chuyện khác, nhưng Ngài chỉ nói lên một sự thật vắn gọn như vậy thôi. Thực ra Chúa đã nêu lên một cuộc tranh luận ở một tầng mức mới mà không làm sai lạc hoặc mất đi trạng thái tinh tuyền và tính lương thiện của Ngài. Còn những kẻ giả hình nhân đức mà hỏi Ngài về chuyện thuế má có liên quan đến luật Chúa thì đúng ra họ phải nghĩ đến việc trả ơn lại cho Chúa vì những phúc lành Chúa đã ban cho họ.

PHỤNG SỰ CHÚA VÀ PHỤNG SỰ CAESAR

Trước mặt mọi người, trên đồng tiền, có hai hình ảnh: Hình ảnh Caesar và hình ảnh Thiên Chúa. Về hình Caesar, Chúa hỏi một câu đơn giản:

- Hình của ai đây?

Họ trả lời gọn lỏn:

- Caesar. 

Do đó, câu trả lời “Hãy trả cho Caesar cái gì thuộc về Caesar”, có nghĩa là một phần gia sản của các ngươi thuộc về ông ta. Nhưng Chúa Giêsu cũng có một câu hỏi thứ hai rất thâm thúy như xoáy vào tim óc họ:

- Hình ảnh và ân phúc của ai đang ở trong mỗi một người các ông?

Câu trả lời cũng đơn giản:

- Thiên Chúa.

Do đó, Chúa nói: “Hãy trả lại cho Thiên Chúa cái gì thuộc về Thiên Chúa”, có nghĩa là tất cả con người các ngươi, từ thể xác đến linh hồn và trí khôn, hoàn toàn và trọn vẹn, không chia cắt, phân biệt.

Do ai mà chúng ta có được ơn phúc trong cuộc sống hằng ngày, và chúng ta phải biết ơn, trung thành và tùng phục ai? Có phải Thiên Chúa không? Phụng sự Thiên Chúa và phụng sự Caesar có tương hợp nhau không? Hay có sự phân bì, cạnh tranh, khiến lòng trung thành của chúng ta bị phân tán, làm cho ý niệm ơn phúc trở nên khác biệt? Chúa Giêsu đòi hỏi không những chỉ trả lại cho Thiên Chúa cái gì thuộc về Thiên Chúa, nghĩa là tất cả mọi sự…, mà còn yêu cầu trả lại cho Caesar cái gì thuộc về Caesar, có nghĩa là phải sống trọn vẹn những đòi hỏi về công lý, công bằng, tự do và an bình trong mối liên đới xã hội hầu thực thi công ích.

THẾ QUYỀN KHÔNG THỂ VƯỢT QUYỀN THIÊN CHÚA

Là công dân một nước, dĩ nhiên ta phải thuần phục nhà cầm quyền, nhưng bên trên thế quyền còn có Thiên Chúa. Quyền của Thiên Chúa bao gồm cả quyền của con người, liên quan đến mọi dân tộc và mọi thời đại. Đối tượng trực tiếp là thần quyền Thiên Chúa đòi hỏi người ta phải thờ phượng và phục tùng Thiên Chúa, đồng thời bảo đảm cho người dân những mối lợi trường cửu. Quyền lợi của người dân là do Thiên Chúa mà có, nhưng trực tiếp do người cầm quyền nắm giữ để phục vụ cho lợi ích chung ở trần thế này. Nghĩa vụ của người dân đối với Thiên Chúa và với chính quyền không phải là không dung hòa được với nhau, nếu hiểu cho đúng nghĩ.

Nói cách khác, khi người ta phục vụ quyền lợi chính đáng của nhà nước, của dân tộc v..v… thì đó là phục vụ chính Thiên Chúa. Nhưng không ai được vi phạm quyền lợi của Thiên Chúa để gọi là phục vu quyền lợi của “người ta”, dù người này là chính quyền hay là ai đi nữa. Vì lúc đó quyền lợi của “người ta” là không chính đáng. Chính quyền thay Trời trị dân để mưu cầu cơm no áo ấm, hạnh phúc cho dân. Nếu chính quyền không thực hiện được như vậy, làm mất lòng dân thì dân có quyền lật đổ vua, vì vua đã cãi lệnh Trời, đi ngược lại quyền lợi của dân do Thiên Chúa ban cho họ như Tự Do, Dân chủ, Nhân Quyền, Tự Do Tôn Giáo…

Ta không thể phục tùng, ủng hộ loại chính quyền có dã tâm tước đoạt những quyền căn bản ấy của người dân, vì như vậy là đồng lõa với chính quyền chống lại chủ đích và quyền lợi của Thiên Chúa. Khi đó, sự trung thành, biết ơn, phục vụ Thiên Chúa của ta đã bị phân tán; ý niệm ơn phúc Chúa ban cho ta đã trở nên khác lạ; phục vụ Thiên Chúa của ta không vượt lên trên việc phục vụ thế quyền như bổn phận của ta đã được Chúa qui định là phải trả lại Thiên Chúa tất cả những gì ta có. Những vị cầm đầu Giáo Hội trung ương cũng như địa phương lại có bổn phận lớn lao và quan trọng hơn nữa.

CYRUS LÀ KHÍ CỤ TRONG BÀN TAY THIÊN CHÚA

Trong bài đọc 1 sách Isaiah hôm nay (Is 45: 1, 4-6), chúng ta bắt gặp Cyrus là vua xứ Ba Tư, Isaiah cho biết là ông ta đã được «xức dầu thánh», một dấu chỉ nói về dân Israel, nhưng ở đây lại ám chỉ Cyrus, bởi vì ông là đại diện của Chúa (45:1). Khi vua Cyrus cho phép dân Israel trở về đất tổ để xây lại đền thờ Jerusalem đã bị phá hủy là lúc mà dân Israel chấm dứt thời kỳ bị nô lệ. Cyrus tượng trưng cho đấng thiên sai mà dân Israel đang mong đợi. Ông là hình ảnh của đấng cứu chuộc đã được hứa và thiết lập để giải phóng dân Chúa khỏi nô lệ tội lỗi và đem họ vào vương quốc tự do đích thực. Mặc dù ông được nuôi dưỡng là dân ngoại, nhưng ông được xức dầu thánh Chúa để thi hành sứ mạng giải phóng dân Chúa. Mặc dù ông không biết đến Thiên Chúa, nhưng cuối cùng ông cũng hiểu rằng ông được Thiên Chúa chọn. Chúa đã đặt mọi sự trong tay ông để ông hoàn thành chủ đích của Chúa. Thiên Chúa nuôi dưỡng ông với mục đích đặc biệt là giải phóng dân Do Thái ra khỏi Babylon.

VUI MỪNG VÀ HY VỌNG 

Làm sao để phục vụ Thiên Chúa trong xã hội loài người?      

Nhờ ánh sáng của bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thử coi lại một trong những tài liệu rất quan trọng của Giáo Hội nói về sứ mạng và sự dấn thân của Giáo Hội vào thế giới văn minh ngày nay. Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội trong Thế Giới Hiện Đại «VUI MỪNG VÀ HY VỌNG» của Công Đồng Vatican II đã đưa ra một kế hoạch mới nhấn mạnh đến vấn đề không phải là thoái lui hay khải hoàn, cũng không phải là hòa mình đến độ đồng hóa, nhưng là nhiệm vụ cấp thiết phải đối thoại, nghĩa là lắng nghe và lên tiếng, đồng thời cộng tác có nguyên tắc với những cơ chế xã hội khác và những cộng đồng dân tộc. Sứ mạng của Giáo Hội phải được biểu hiện thành những quan điểm xã hội và phải coi những thực tại trần thế và chủ nghĩa đa nguyên là quan trọng. 

Cũng cần nhớ lại những điểm chính yếu của hiến chế «Vui Mừng và Hy Vọng».

Hiến chế Mục Vụ của Giáo Hội về Giáo Hội trong Thế Giới Hiện Đại khuyến khích thái độ cởi mở với thực tế về sự hiện diện của một loại tôn giáo dưới hình thức thế quyền, thường được hiểu một cách đơn thuần là tình trạng thế tục, mất hết đặc tính tôn giáo.

Hiến chế «Vui Mừng và Hy Vọng» phát triển chủ nghĩa nhân bản Kitô giáo theo giáo huấn xã hội của Đức Phaolô VI và Đức Gioan Phaolô II, và chắc chắn là có tâm óc và công trình của Đức Bênêđíctô XVI. Tài liệu giúp ta hiểu biết về con người nhân bản, chú trọng đến những ưu tư đương đại về tự do, bình đẳng và tình liên đới. Nó giúp tái xác định sứ mạng của Giáo Hội như là dấu chỉ và bảo đảm an toàn cho nhân cách con người. Vậy là Hiến Chế Mục Vụ đã đưa ra một căn bản thần học về sứ mạng xã hội của Giáo Hội.

Cuối cùng, nó đã gợi ý và đề nghị một kế hoạch giúp Giáo Hội làm sao có thể tham gia vào thế giới trần thế với một thái độ nể trọng và tôn kính đối với sinh hoạt của Chúa Thánh Thần đang tác động qua nhiều biến cố, cơ sở và cộng đồng trong thế giới của chúng ta. Công trình của hiến chế «Vui Mừng và Hy Vọng» hẳn phải còn lâu mới hoàn thành và kết thúc. Chúng ta cần phải có phân tích, nghiên cứu thêm, và phối hợp với sứ mạng xã hội để đi xâu vào trung tâm điểm của đời sống Công Giáo. 

Cũng cần phải nhấn mạnh rằng sứ vụ truyền giáo là công việc chung của toàn thể Giáo Hội, không phải là nhiệm vụ của một ít người hay một nhóm chuyên viên kỳ tài nào đó mà thôi.

ĐÁNH GIÁ SAU CÙNG CỦA CÔNG ĐỒNG VATICAN II

Đánh giá sau cùng của Công đồng Vatican II -«Vui Mừng và Hy Vọng»- về tất cả những cố gắng về thần học cũng như mục vụ của chúng ta nằm ở điểm chính yếu này: Nếu chúng ta thực sự tin rằng Chúa Giêsu Kitô là Chúa lịch sử và thế giới cũng như thời đại của chúng ta thuộc về Ngài, thì phải chăng chúng ta phải phán xét những cố gắng của chúng ta theo như tâm tư, ý nghĩ của Chúa Giêsu Kitô? Phải chăng chúng ta phải đánh giá tất cả mọi sự chúng ta có và những việc chúng ta làm dựa vào cách thức chúng ta tự mở mắt chúng ta và mắt tha nhân để nhìn ngắm hào quang và vẻ đẹp cứu độ của Chúa Kitô? Phải chăng chúng ta phải tự hỏi xem những cố gắng của chúng ta có đi sâu vào những lời hứa và lòng tin tưởng của chúng ta nơi tình vua, sự hiện diện và quyền uy của Chúa Giêsu Kitô trong lich sử loài người?

ĐÔI LỜI KẾT

Nếu hình ảnh của Caesar được in trên đồng tiền La Mã mà nó phải được trả lại cho ông ta, thì trái tim loài người phải mang dấu ấn của Tạo Hóa, là Chúa duy nhất của đời chúng ta. Ngài đã đánh dấu chúng ta với mục đích riêng của Ngài, rồi sai chúng ta đi thi hành sứ mệnh trên khắp thế giới. Những kế hoạch của loài người chúng ta có giúp chúng ta trở thành những tiên tri, những đầy tớ và sứ giả tốt lành hơn của vương quốc của chúa Giêsu không? Chúng ta đừng bao giờ xấu hổ vì phải công khai làm việc vì vương quốc của Chúa Giêsu, và tuyên xưng cho mọi người biết về Ngài. Chỉ có một mình Ngài bảo đảm cho chúng ta có được sự vui mừng đích thực và niềm hy vọng thâm sâu, một «Vui Mừng và Hy Vọng» thực sự cho muôn dân trong «thời đại chúng ta». Vương quốc của Ngài thì vĩnh cửu.

Chúng ta hãy cầu nguyện để có được lòng can đảm và trí khôn ngoan hầu có thể trả lời một cách trung thực và đơn giản khi chúng ta cảm thấy mình đi lạc đường, ở trong tình trạng phân vân, hồ nghi. Chúng ta đã được in dấu và chúc phúc với hình ảnh của Thiên Chúa. Đừng bao giờ quên chúng ta thực sự thuộc về ai, và tại sao chúng ta phải thực sự làm những điều chúng ta cần phải làm. Chúa gọi chúng ta không phải vì chúng ta, nhưng Chúa vời chúng ta đến để sai chúng ta đi vào thế giới để tuyên xưng danh Ngài và công trình cứu độ của Ngài. Đó là sứ mạng khó khăn và nguy hiểm. Nhưng đó cũng là lý do để cho mọi người chúng ta vui mừng.

Đừng bao giờ coi việc phục vụ thế quyền  trên quyền lợi và mục đích của Thiên Chúa. mục lục

THUỘC VỀ THIÊN CHÚA.

Lm. Giuse Mai Văn Thịnh, DCCT

Có một thực tế mà chúng ta dường như nên chấp nhận, đó là việc tham gia vào các công cuộc đổi mới ‘môi trường’ theo đúng tinh thần của Phúc Âm vẫn còn xa lạ với cuộc sống đạo của nhiều tín hữu. Chúng ta vẫn thờ ơ và tỏ ra thiếu quan tâm với những gì đang xẩy ra trong xã hội. Chúng ta có khuynh hướng chấp nhận việc tách rời tôn giáo ra khỏi cuộc sống của người công dân. Nói cách khác, cuộc sống của chúng ta có thể chia thành nhiều mảng. Việc thờ phượng và yêu mến Chúa dừng lại trong các nghi lễ và bị cầm tù tại các khuôn viên của nhà thờ. Khi tham dự nghi lễ xong, vừa bước chân ra khỏi nhà thờ thì chúng ta đã trở về với cuộc sống khác, một con người thuộc về trần thế. Với lối sống như thế, chúng ta dần dần sẽ thiếu nhậy cảm với những điều tạo ra các bất công, không nhìn thấy các nguyên nhân tạo ra cuộc sống giai cấp và thiếu công bình trong đời sống.

Như anh chị em đã biết: công việc xây dựng và mở mang Nuớc Chúa không chỉ lệ thuộc và giới hạn bởi các việc làm trong các nghi thức phụng tự, như đọc kinh, tham dự những cuộc hành huơng, Thánh lễ hay các công việc đạo đức mà thôi. Nhưng đó cần bao gồm cả đời sống. Chúng ta không thể phân chia đời sống của chúng ta thành nhiều mảnh: như theo đạo rồi quên đời, theo Chúa rồi bỏ thế gian. Không phải vì yêu thuơng thế gian mà Thiên Chúa đã sai người Con duy nhất của Ngài đến thế gian đó sao! Và nhờ vậy, mà thế gian đã được cứu độ. Vì thế, cả hai mặt ‘đạo và đời’ cần được gắn bó với nhau. Và đó là điểm mà chúng ta cần lưu tâm trong lúc suy niệm bài Tin Mừng hôm nay.

Trước tiên, chúng ta cần ghi nhận một điều là con người thường có khuynh hướng bắt tay với nhau để chống lại kẻ thù chung, đúng như câu mà chúng ta thường được nghe nói rằng “kẻ thù của kẻ thù ta là bạn ta!” Và hôm nay, trong bài Tin Mừng, Đức Giê-su đã gặp phải tình huống đó. Những người thuộc nhóm Hê-rô-đê, là những người có địa vị trong guồng máy của đế quốc La-Mã và nhóm Pha-ri-siêu, họ nghiêm chỉnh trong việc tuân giữ luật lệ Do Thái. Tuy hai nhóm người này là đối thủ của nhau, nhưng hôm nay họ liên kết với nhau để cố gắng làm mất uy tín của Đức Giê-su hầu tiêu diệt Người.

Trước khi đặt câu hỏi, họ tán dương và ca tụng Đức Giê-su là Người tôn trọng sự thật, là Đấng chỉ bảo đường lành, là Thầy dậy đường công chính. Những lời ca tụng của họ không phát sinh từ ý ngay lành cho bằng bộc lộ ác ý để gài bẫy Người. Họ dương dương tự đắc và nghĩ rằng Đức Giê-su sẽ bị bí với câu hỏi mà họ nghĩ rằng rất phức tạp, đó là “có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không?”

Nếu câu trả lời của Đức Giê-su là “không” thì nhóm người thuộc nhóm Hê-rô-đê sẽ bắt Chúa vì tội xúi giục dân chúng làm loạn qua việc không nộp thuế cho đế quốc La-Mã. Còn nếu Đức Giê-su trả lời "có" thì những người phe Pha-ri-siêu sẽ thừa dịp này mà tố cáo Chúa là người thân với chính quyền bảo hộ, hà hiếp và bóc lột dân chúng. Người không xứng đáng là người lãnh đạo tôn giáo (vì không làm theo ý của họ!)

Theo như cách suy nghĩ và lối suy luận của họ thì Đức Giê-su chắc chắn bị rơi vào bẫy. Người sẽ không còn đường thoái thác. Đức Giê-su không còn chọn lựa câu trả lời nào khác, ngoại trừ có hay không. Một là phải nộp thuế hai là không nộp thuế. Đường nào cũng dẫn Đức giê-su vào ngõ cụt. Nhưng câu trả lời của Đức Giêsu làm cho cả hai nhóm không bắt bẻ được Người, đồng thời Đức Giêsu còn nhắc cho họ biết sự thật đã được mạc khải từ khi tạo dựng đó là con người thuộc về Thiên Chúa thì hãy trả lại cho Ngài những gì mà Thiên Chúa đã dựng nên. Còn những gì mà họ đang nhìn thấy trước mắt thì hãy trả cho Xê-da.

Anh chị em rất thân yêu,

Chúng ta hãy ngồi xuống mà suy nghĩ rồi nghiêm túc nghiệm lại xem có một vật gì hay một thứ gì hiện diện trong trời đất này mà không thuộc về Thiên Chúa hay Thượng Đế hay chăng? Thiên Chúa đã tạo dựng nên mọi sự từ hư không, và đỉnh cao của chương trình tạo dựng của Thiên Chúa là con người, con người là “hình ảnh Ngài.” Sự sống đang luân chuyển trong ta đã được diễn tả qua việc thổi hơi, ban sự sống, trao sinh khí cho con người. Vì thế không có gì chúng ta có được mà không phát sinh và ban tặng từ Ngài.

Vậy, nếu không trả về cho Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài, không hướng về Thiên Chúa những gì trong vũ trụ hay tất cả những gì ta đang hưởng dùng thì đó là thái độ bất trung. Một khi, chúng ta chiếm mất vị trí của Thiên Chúa, tự mình làm chủ, lấy mình làm tiêu chuẩn cho mọi phán đoán, bộc lộ tính kiêu ngạo và hất Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống mình và tha nhân thì chúng ta sẽ chuốc lấy tranh chấp, hận thù, bạo lực và hủy diệt mà thôi

Vì thế, bao lâu con người không nhìn nhận Thiên Chúa là Cha yêu thương, là Chủ tể của mình, không qui hướng tất cả những gì con người có được về Ngài, không để cho Thiên Chúa chiếm chỗ nhất trong cuộc sống của mình, không cảm nhận lòng thương xót và tính quảng đại của Thiên Chúa đang hoạt động trong ta thì bấy lâu con người không thể xây dựng một xã hội nhân bản, không thể nào xây dựng một xã hội hiệp nhất và an bình, trong đó mọi người yêu thương, kính trọng và mến mộ nhau như anh chị em trong gia đình có Thiên Chúa là Cha, đó là ý của câu trả lời của Đức Giê-su: trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa.

Hơn thế nữa, khi nói điều này, Đức Giê-su không có ý đưa ra một nguyện tắc chia quyền ‘Chúa một nửa, vua một nửa’, hay là phần thiêng liêng thì thuộc về Chúa, còn phần đời thuộc về vua. Người cũng không tranh dành uy quyền với các vị vua trần gian; bởi vì uy quyền tối thuợng và vững bền qua muôn thế hệ thuộc về Thiên Chúa; còn các vị vua, ông chúa, bà hoàng hay các vị thủ lĩnh trên thế gian đều là những người thừa hành; họ nối tiếp nhau cai trị thiên hạ; nhưng có ông vua hay bà chúa nào trường tồn quá một trăm năm đâu! Chỉ có uy quyền của Thiên Chúa mới tồn tại qua muôn thế hệ.

Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể bán cái và trả lại trách nhiệm trông coi và xây dựng vũ trụ này cho Thiên Chúa.

Trong khi thi hành sứ vụ mà chúng ta gọi là truyền giáo, giới thiệu và mở mang Nước Chúa, Đức Giêsu đã tỏ bầy cho chúng ta nhận biết về một Thiên Chúa không chỉ ở trên cao, nhưng Ngài đang đồng hành với cảnh ngộ và cuộc sống của từng người. Người nhập thể và chia sẻ mọi tình huống của con người: ai đau ốm Người chữa cho lành; ai gặp hoạn nạn, Người thuơng cứu giúp; ai đói khát, Người nuôi ăn; ai tội lỗi, Người ban ơn tha thứ; thậm chí Người hồi sinh cả kẻ đã chết… Người chu toàn mọi sự trong mọi người. Nhưng, có một điều thật rõ ràng là Đức Giêsu không làm thay chúng ta. Người trao và mời gọi chúng ta tiếp tay. Người không thể cứu giúp và làm cho mọi bịnh nhân thuộc mọi thời đại khác nhau được chữa khỏi; Người cũng chẳng làm cho mọi người đói, thuộc về các thời đại khác nhau được no nê. Đó là phần vụ của con người ở các thời đại khác nhau.

Do đó, khi chúng ta tiếp cận người nghèo, đến với những người bị bỏ rơi, tiếp đón những người bị khước từ là lúc chúng ta đang cố gắng hết sức để cho Thiên Chúa họat động trong toàn bộ, cũng như trong mọi lãnh vực của cuộc sống chúng ta.

Vì thế, sứ điệp của bài Tin Mừng hôm nay, không chỉ được thu gọn trong việc đóng thuế xây dựng quốc gia nơi chúng ta đang sống hay là việc mở mang Nuớc Chúa. Nhưng, qua cuộc sống, chúng ta thực hiện để cho Thiên Chúa trở nên mọi sự trong chúng ta. Và, chúng ta, cũng như mọi sự của chúng ta, đều thuộc về Ngài. Hơn thế nữa, chúng ta hãy sống mà trả lại cho Ngài, không chỉ quan tiền của Xê-da, mà còn là mọi sự của chúng ta nữa. Amen! mục lục

ĐỜI – ĐẠO RẠCH RÒI

Trầm Thiên Thu

Rạch ròi là rõ ràng, rành mạch, không gây lầm lẫn cái này với cái kia. Đó là cách phân định cần thiết để tránh phiền toái trong mọi lĩnh vực, cả đời thường và tinh thần. Không chỉ cần rạch ròi với người khác mà còn phải rạch ròi với chính mình, vì con người luôn bị giằng co giữa trái và phải. Người can đảm mới có thể rạch ròi.

Một trong những thứ rất cần rạch ròi hiện nay là đại dịch corona. Tạ ơn Chúa cho Việt Nam được an toàn, mau qua 2 đợt dịch, nhưng chớ khinh suất, vì Việt Nam vừa phát hiện 2 trường hợp nhiễm covid tại Saigon và Bạc Liêu. Chúng ta cũng đừng quên nhiều nơi trên thế giới vẫn còn trong tình trạng phức tạp với loại virus “chết người” này.

Trong xã hội Việt Nam ngày nay, người ta không muốn rạch ròi, thích giấu giếm, lén lút, chấm mút, mưu mô mờ mịt,... thích đi đêm hơn đi ngày. Kẻ ưa bóng tối là kẻ “không hành động theo sự thật.” (1 Ga 1:6) Mắt “yếu” thì sợ ánh sáng. Ai cũng có thể suy ra rằng chỉ có kẻ xấu mới không thích ánh sáng, minh bạch.

Được làm người, dù đã lớn hay còn nhỏ, chắc chắn không ai lại không có gì sở hữu, hiểu đơn giản là quyền làm chủ – quyền cơ bản nhất của mỗi con người. Lĩnh vực nào cũng có quyền sở hữu đặc trưng, chẳng hạn về tài chính, người ta có loại quyền gọi là “sở hữu chéo” (ngân hàng này sở hữu ngân hàng khác, doanh nghiệp này sở hữu doanh nghiệp khác,... mối quan hệ vừa trực tiếp vừa gián tiếp – khái niệm này xuất hiện từ thập niên 1980). Kể ra cũng lạ thật.

Con người cũng được Thiên Chúa ban cho những loại quyền riêng. Ngài ban cho chúng ta quyền quản lý thời gian và quyền tự do, chúng ta được quyền sở hữu nhưng không được làm chủ. Chúa Giêsu xác định: “Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban.” (Ga 3:27) Thật vậy, khi nói về một tài năng nào đó, người ta dùng chữ “thiên phú” – tức là “trời cho.” Tác giả sách Giảng Viên cảm nhận: “Tôi nhận ra rằng mọi sự Thiên Chúa làm sẽ tồn tại mãi mãi. Không có gì để thêm, chẳng có gì để bớt. Thiên Chúa đã hành động như thế để phàm nhân biết kính sợ Người.” (Gv 3:12-14) Vấn đề quan trọng là ai đó có tài năng mà còn “biết kính sợ Chúa” hay không, biết khiêm nhường hay không. Nếu cứ ảo tưởng thì “chết chắc” thôi. Quả thật, rất cần phải rạch ròi.

Ngày xưa, Đức Chúa phán với kẻ Ngài đã xức dầu là vua Kyrô: “Ta đã cầm lấy tay phải nó, để bắt các dân tộc suy phục nó, Ta tước khí giới của các vua, mở toang các cửa thành trước mặt nó, khiến các cổng không còn đóng kín nữa.” (Is 45:1) Ngài giải thoát ai thì người đó thuộc quyền sở hữu của Ngài. Chúng ta cũng được Thiên Chúa cứu độ bằng Giá Máu của Đức Giêsu Kitô, Con Một Yêu Dấu của Ngài, do đó chúng ta cũng thuộc về Thiên Chúa, thuộc về Đức Kitô, thuộc dòng dõi Ápraham và được thừa kế. (Gl 3:29) Bất cứ ai thuộc về Thiên Chúa thì phải vâng lời Ngài. (Ga 8:47) Đó là vấn đề quan trọng, cần nhận thức rạch ròi.

Cái gì cũng có nguyên nhân. Thiên Chúa giải thích: “Vì lợi ích của tôi tớ Ta là Giacóp, và của người Ta đã chọn là Israel, Ta đã gọi ngươi đích danh, đã ban cho ngươi một tước hiệu, dù ngươi không biết Ta. Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác; chẳng có ai là Thiên Chúa, ngoại trừ Ta. Dù ngươi không biết Ta, Ta đã trang bị cho ngươi đầy đủ, để từ Đông sang Tây, thiên hạ biết rằng chẳng có thần nào khác, ngoại trừ Ta. Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác.” (Is 45:4-6) Thiên Chúa nhấn mạnh tính cao cả duy nhất của Ngài bằng cách lặp đi lặp lại: “Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác.” Điều đó chứng tỏ rằng chúng ta chỉ được phép tôn thờ một mình Ngài mà thôi. Và thật diễm phúc, chúng ta đã nhận ra điều này, để rồi chúng ta đang tôn thờ Ngài và không ngừng nỗ lực học bài học yêu của Ngài. Cũng như dân Israel, chúng ta được trở nên dân riêng của Ngài.

Chính Thiên Chúa cũng đã động viên và xác nhận với dân Israel trước đó: “Đừng sợ, vì Ta đã chuộc ngươi về, đã gọi ngươi bằng chính tên ngươi: ngươi là của riêng Ta!” (Is 43:1) Và Ngài cũng đang nói với mỗi chúng ta như vậy. Dân Israel là “vật sở hữu” của Thiên Chúa, và có cả mỗi chúng ta nữa. Ngày nay cũng có những thứ thuộc về Thiên Chúa, tương tự như Dân Riêng vậy, thuộc quyền sở hữu của Ngài. Ai dám “đụng chạm” đến những gì của Chúa thì sẽ “có vấn đề” ngay thôi. Không hẳn là Ngài trừng phạt, mà Ngài muốn làm cho chúng ta tỉnh ngộ. Kinh Thánh nói: “Kính sợ Đức Chúa là bước đầu của tri thức. Kẻ ngu si khinh thường khôn ngoan và lời nghiêm huấn.” (Cn 1:7)

Thời gian là cõi phù vân, mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời ở dưới bầu trời này. Ngay cả chuyện ăn uống và hưởng những thành quả do công lao khó nhọc mình làm ra, tức là tận hưởng những gì mình sở hữu, đó cũng là tặng phẩm Chúa ban rồi. (x. Gv 3:1-12) Vâng, tất cả chỉ là phù vân, chúng ta “chẳng khác chi con vật một ngày kia phải chết,” (Tv 49:13) chẳng có gì bền vững, chỉ có Thiên Chúa là Đấng vạn đại trường tồn. (Tv 102:25) Phải biết Chúa vô hạn và biết mình hữu hạn, biết rạch ròi như vậy để mà hết lòng tôn thờ, tuyên xưng và tán tụng Ngài. Thánh Vịnh gia mời gọi mọi người và mọi dân tộc: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu!” (Tv 96:1)

Đó không chỉ là trách nhiệm và bổn phận mà còn là quyền lợi của chúng ta, bởi vì việc chúng ta ca tụng Chúa cũng chẳng thêm gì cho Ngài, nhưng đem lại ơn cứu độ cho chính chúng ta. Rõ ràng Thiên Chúa quá đại lượng. Ca tụng Thiên Chúa cũng chính là niềm hạnh phúc của mỗi chúng ta: “Hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh! Ngày qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ, kể cho muôn dân biết Người thật là vinh hiển, cho mọi nước hay những kỳ công của Người. Chúa thật cao cả, xứng muôn lời ca tụng, khả tôn khả uý hơn chư thần, vì chư thần các nước thảy đều hư ảo, còn Đức Chúa, Người sáng tạo trời cao.” (Tv 96:3-5) Ca tụng Chúa khi thuyền đời chúng ta xuôi chèo mát mái thì đã đành, tất nhiên thôi, nhưng ca tụng Chúa ngay cả khi thuyền đời chúng ta không chao nghiêng vì sóng to, gió lớn, đó mới là điều khó thực hiện, thế nhưng lại có giá trị cao. Nhiều vị thánh đã chứng minh điều đó, cụ thể là CP thiếu niên Carlo Acutis mà Giáo Hội vừa tôn phong ngày 10-10-2020.

Con người được Thiên Chúa chăm sóc và ban cho mọi thứ, cả vật chất và tinh thần, nhưng người ta lại cứ tưởng là “điều dĩ nhiên” nên không tạ ơn Ngài, rồi lại còn “so đo” vì cho rằng mình không may mắn như người khác. Thật ra đó là ý mình chứ không phải Ý Chúa. Quả thật, Thiên Chúa luôn xứng đáng để chúng ta xưng tụng mọi nơi và mọi lúc: “Hỡi các dân các nước, hãy dâng Chúa quyền lực và vinh quang, hãy dâng Chúa vinh quang xứng danh Người. Hãy bưng lễ vật, bước vào tiền đình Chúa, và thờ lạy Chúa uy nghiêm thánh thiện, toàn thể địa cầu, hãy run sợ trước Thánh Nhan. Hãy nói với chư dân: Chúa là Vua hiển trị, Chúa thiết lập địa cầu, địa cầu chẳng chuyển lay, Người xét xử muôn nước theo đường ngay thẳng.” (Tv 96:7-10) Thiên Chúa nhân từ, nhưng nghiêm minh, rất rạch ròi.

Thiên Chúa tạo tác muôn loài, nghĩa là Ngài sở hữu tất cả, còn chúng ta trắng tay. Chúa Giêsu xác định: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được.” (Ga 15:5) Thế nên chúng ta không thể không tôn vinh Ngài và không tạ ơn Ngài. Chúng ta không có quyền đòi hỏi, có ai đau khổ bằng ông Gióp chưa? Thế mà trong lúc đau khổ cùng cực, mất hết mọi thứ, từ của cải tới con cái, nhưng ông Gióp vẫn “không hề phạm tội cũng không buông lời trách móc phạm đến Thiên Chúa.” (G 1:22) Thiên Chúa nói với Satan về ông Gióp: “Chẳng có ai trên cõi đất này giống như nó: một con người VẸN TOÀN và NGAY THẲNG, kính sợ Thiên Chúa và lánh xa điều ác.” (G 1:8) Đó là tấm gương lớn sáng ngời mà mỗi tín nhân cần phải soi hằng ngày. Chưa đến nỗi nào mà chúng ta đã than trách đủ thứ, vậy thì làm sao có thể “xách dép” theo Thánh Gióp? Làm việc gì cũng mệt mỏi, vác thập giá không thể thoải mái, chắc chắn như vậy. Cái Khó nào cũng Khổ, nhưng nhờ Khổ mới nên Khôn. Nhóm 3K kỳ lạ: Khó – Khổ – Khôn. Thảo nào người ta nói: “Cái khó ló cái khôn.”

Tạ ơn và cầu nguyện là bổn phận của chúng ta, không chỉ cho mình mà còn cho tha nhân, đồng thời cũng cần biết cảm ơn nhau nữa. Thánh Phaolô nói: “Chúng tôi hằng tạ ơn Thiên Chúa về tất cả anh em. Chúng tôi nhắc đến anh em trong lời cầu nguyện, và trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta, chúng tôi không ngừng nhớ đến những việc anh em làm vì lòng tin, những nỗi khó nhọc anh em gánh vác vì lòng mến, và những gì anh em kiên nhẫn chịu đựng vì trông đợi Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô.” (1 Tx 1:2-3) Tình liên đới Kitô giáo thật tuyệt vời, không chỉ với người còn sống mà cả với người đã qua đời – các thánh và các linh hồn.

Vừa giải thích vừa xác định, Thánh Phaolô phân tích: “Anh em là những người được Thiên Chúa thương mến, chúng tôi biết rằng Thiên Chúa đã chọn anh em, vì khi chúng tôi loan báo Tin Mừng cho anh em, không phải chỉ có lời chúng tôi nói, mà còn có quyền năng, có Thánh Thần, và một niềm xác tín sâu xa. Anh em biết, khi ở với anh em, chúng tôi đã sống thế nào để mưu ích cho anh em.” (1 Tx 1:4-5) Lời thánh nhân nói với giáo đoàn Thêxalônica cũng là nói với chính chúng ta – mỗi người, mỗi gia đình, mỗi hội đoàn, mỗi giáo xứ, mỗi giáo phận, mỗi chủng viện, mỗi tu viện,...

Người ta nói: “Nhà có gia phong, nước có quốc pháp.” Gia đình nào cũng có nề nếp riêng, quốc gia nào cũng có hiến pháp – nhưng hiến pháp phải hợp lòng dân, không thể tự ý ra luật “tùy hứng” rồi bắt người khác thực hiện. Luật có sau con người. Luật vị nhân sinh, luật vì con người. Luật giúp con người sống tốt hơn và giúp duy trì trật tự. Nên giữ luật nhưng đừng câu nệ luật, giữ luật “chữ đỏ” theo kiểu Biệt Phái. Cổ nhân có câu: “Tam nhân đồng hành tất hữu ngã sư yên.” Nghĩa là trong ba người cùng đi cũng có một người là thầy, có khả năng hướng dẫn hai người kia, tức là có thể “làm luật” để duy trì trật tự, vì lợi ích chung.

Trình thuật Mt 22:15-21 (≈ Mc 12:13-17; Lc 20:20-26) cho biết: Một hôm, nhóm Pharisêu bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giêsu phải lỡ lời mà mắc bẫy. Không chỉ vậy, họ còn cấu kết với phe Hêrôđê, gã cáo già nham hiểm mà hèn nhát. Họ sai các môn đệ của họ cùng đi với những người phe Hêrôđê đến nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta. Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: có được phép nộp thuế cho Xêda hay không?” Đó là những kẻ mặt người dạ thú. Thật đáng kinh tởm!

Vải thưa không thể che mắt thánh. Tiền nhân ví von chí lý như vậy. Chúa Giêsu thấu suốt lòng con người, Ngài biết họ có ác ý nên Ngài nói thẳng: “Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ giả hình? Cho tôi xem đồng tiền nộp thuế!” Họ thường xuyên bị Chúa Giêsu trách mắng thẳng thừng, thậm chí là nguyền rủa, thế mà họ vẫn chai mặt, lì lợm. Và rồi họ thản nhiên đưa cho Ngài một quan tiền. Ngài vừa chỉ đồng tiền vừa hỏi họ: “Hình và danh hiệu này là của ai đây?” Họ đáp tỉnh queo: “Của Xêda.” Thật là trơ trẽn, hết nước nói. Bấy giờ, Ngài bảo họ: “Thế thì của Xêda, trả về Xêda; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.” Câu trả lời của Chúa độc đáo quá! Nghe vậy, họ ngạc nhiên lắm, nhưng đành lẳng lặng bỏ đi. Cái gì của ai thì trả cho người đó, không phải của mình thì đừng tham lam, không chỉ KHÔNG NÊN mà là CẤM tuyệt đối.

Dù vật chất hay tinh thần, bất cứ thứ gì của người khác thì không thuộc quyền sở hữu của mình, chớ có “ước muốn” hoặc rờ tới. Thiên Chúa đã nghiêm cấm trong Thập Giới: Chớ lấy của người và chớ tham của người. (Giới Răn 7 và 10) Rất rạch ròi. Thế nhưng có một số người lại quan niệm lệch lạc thế này: “Cho không lấy, thấy không xin, kín thì rình, hở thì rinh.” Nguy hiểm vô cùng! Cuộc sống có nhiều dạng sở hữu, nhưng phải phân biệt rạch ròi giữa Đời và Đạo: Cái gì thuộc về trần tục và cái gì thuộc về tâm linh. Đừng lầm lẫn mà lấy râu ông nọ đem cắm cằm bà kia. Vâng lời quyền bính thế gian cũng là vâng lời Thiên Chúa – nếu khoản luật đó phù hợp với công bình và bác ái. Chính Thiên Chúa đã minh định: “Trên hết, hãy yêu chuộng Chân Lý và Bình An.” (Dcr 8:19)

Thật vậy, Thánh Phaolô đã đề cập nhà chức trách: “Làm điều thiện thì không phải sợ nhà chức trách, có làm điều ác mới phải sợ. Bạn muốn khỏi phải sợ chính quyền ư? Hãy làm điều thiện, và bạn sẽ được họ khen ngợi, vì chính quyền là người thừa hành của Thiên Chúa để giúp bạn làm điều thiện. Nhưng nếu bạn làm điều ác thì hãy sợ, vì họ mang gươm không phải không có lý do. Thật vậy, họ là người thừa hành của Thiên Chúa để giáng cơn thịnh nộ của Người xuống kẻ làm điều ác. Vì lẽ đó, cần thiết phải phục tùng, không những vì sợ bị phạt, mà còn vì lương tâm.” (Rm 13:3-5) Ở đây là “lương tâm ngay lành, chân chính.” Cũng nên lưu ý loại “lương tâm chai cứng” vì bị lệch lạc, không đủ mức phân biệt phải – trái. Loại lương tâm này rất nguy hiểm, bởi vì đã mất cảm thức tội lỗi. Những người thuộc tổ chức IS (Islamic State – Nhà nước Hồi giáo) giết người dã man vì họ cho đó là “điều chính nghĩa.” (sic!) Thậm chí họ còn hành hạ cả các trẻ em vô tội. Đã có đợt họ hành hạ dã man khoảng 70.000 trẻ em vô tội. Niềm tin tôn giáo của họ lệch lạc nên họ bất nhân, loại đó không phải là tín ngưỡng đúng nghĩa.

Qua một tâm thư, Thánh Phaolô đã dặn dò đệ tử Titô: “Anh hãy nhắc nhở cho ai nấy phải phục tùng và tuân lệnh các nhà chức trách, các người cầm quyền, phải sẵn sàng làm mọi việc tốt, và đừng chửi bới ai, đừng hiếu chiến, nhưng phải hiền hoà, luôn luôn tỏ lòng nhân từ với mọi người.” (Tt 3:1-2) Những mệnh lệnh cách rất mạnh mẽ, cả thể xác định hoặc và phủ định – Phải và Đừng.

Thế gian là tạm bợ. Tất cả là phù vân. Mọi thứ sẽ qua đi. Ngay cả những gì chúng ta đang sở hữu cũng không thuộc về chúng ta mãi mãi, kể cả sự sống: “Chúa lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi.” (Tv 104:29) Những gì chúng ta sở hữu và thuộc về chúng ta vĩnh viễn là nhân đức. Loại “vật sở hữu” này rất quan trọng, gọi là công trạng, vì đó sẽ là chứng cớ hùng hồn bênh vực cho chính chúng ta, chỉ nhờ đó mà chúng ta được trở thành Công Dân Nước Trời – dĩ nhiên trước tiên phải nhờ công cuộc cứu độ của Đức Giêsu Kitô. Có Chúa là có tất cả, Thánh LM TS Tôma Aquinô rất khôn ngoan khi xác định: “Con chỉ muốn Chúa mà thôi!” Đó là điều duy nhất mà mỗi chúng ta phải nỗ lực để khả dĩ “sở hữu” mãi mãi, và là trạng sư cho chúng ta khi chúng ta trình diện Thiên Chúa.

Chúa Nhật áp chót của tháng 10 là ngày Khánh nhật Truyền giáo – ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và dâng hiến, nói đơn giản là “đi tu” – tất nhiên không phải là “đi tù.” Ngày Thế giới Truyền Giáo được Đức Piô XI khai sinh từ năm 1926. Sứ điệp Khánh nhật Truyền giáo năm 2020: “Dạ, con đây, xin sai con đi.” (Is 6:8)

Lạy Thiên Chúa duy nhất, xin dạy chúng con nhận biết Ngài và nhận biết chính chúng con để một niềm tin yêu đến hơi thở cuối cùng. Tất cả là của Ngài và thuộc về Ngài, chúng con chỉ là cát bụi, xin triệt tiêu “cái tôi” tồi tệ của chúng con và xin liên kết mọi người “nên một” (Ga 17:20-23) theo Thánh Ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen. mục lục

TÔI LÀ CÔNG DÂN NƯỚC NÀO?

Giuse Vinhsơn Ngọc Biển, SSP

Trong thế chiến thứ hai, người ta kể một câu chuyện như sau:

Franz JaŠggerstatter sinh ra tại nước Áo và anh được giáo dục theo tinh thần Kitô giáo. Trong cuộc sống, anh không có gì nổi trội, trình độ học vấn nơi anh chỉ là sơ cấp. Cuộc sống của anh trôi đi cách bình thường, nhưng thanh thản với nghề làm thuê theo hợp đồng. Sau đó anh lấy vợ và có với nhau 3 mặt con.

Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây chính là sự trưởng thành trong cuộc sống thường nhật cũng như đời sống đức tin nơi anh.

Đang sống trong cảnh thanh bình thì thế chiến thứ hai ập đến. Anh cũng như nhiều thanh niên khác buộc phải đi lính cho đội quân Hitler. Tuy nhiên, Franz đã từ chối và trả lời những người thắc mắc rằng: “Cuộc chiến này không phải là cuộc chiến vì chính nghĩa. Nên, thật là sai lầm nếu tôi gia nhập quân đội. Điều này trái với Lương Tâm tôi!"; anh nói tiếp: "Tôi yêu dân tộc, và tôi yêu quê hương tôi. Nhưng có một luật lệ cao cả hơn, đó là Luật của Thiên Chúa. Và Luật của Thiên Chúa nói trong Lương Tâm tôi: cuộc chiến này phi nghĩa!".

Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy cả cuộc đời của Franz là một cuộc chọn lựa giữa chính nghĩa và bất nhân. Giữa cái tạm bợ và vĩnh viễn. Giữa hạnh phúc và đau khổ... Franz đã đi theo đúng đường lối của Thiên Chúa, là: "Cái gì của César thì hãy trả cho César, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa".

1. Ý đồ của nhóm Pharisiêu và Hêrôđê với Đức Giêsu

Hôm nay, bài Tin Mừng trình thuật việc Đức Giêsu bị hai nhóm Hêrôđê và Pharisiêu chất vấn Ngài về việc nộp thuế.

Kỳ thực thì hai nhóm này vốn từ lâu đã không đội trời chung, bởi vì nhóm Hêrôđê thì phò cho chính quyền Rôma, còn phe Pharisiêu thì trung thành với dân tộc và chống lại việc đô hộ trên đất nước họ. Tuy nhiên, ngàn năm một thủa, hôm nay cả hai nhóm, họ đều có chung một mục đích là trả thù Đức Giêsu.

Tại sao thế? Chuyện rất đơn giản: Đức Giêsu được dân chúng mến phục vì nhiều việc tốt lành, những bài giảng hấp dẫn, nhất là Ngài đã đứng lên tố cáo sự giả hình của nhóm Pharisiêu để bênh vực cho người nghèo, người thấp cổ bé họng không có tiếng nói... Vì thế, nhóm Pharisêu sợ mất uy tín với dân chúng. Họ không ngần ngại tận dụng mọi cơ hội để thực hiện cho kỳ được mục tiêu của họ là loại bỏ Đức Giêsu ra khỏi xã hội bằng cái chết. Còn nhóm Hêrôđê thì sợ tầm ảnh hưởng của Đức Giêsu trên dân, và vì thế, có nguy cơ bị lật đổ chế độ đô hộ của đế quốc Rôma.

Để thực hiện được hành vi này, họ đã cấu kết với nhau để chung tay gài bẫy Đức Giêsu.

Điều mà họ đưa ra để nhờ Đức Giêsu giải quyết, chính là: “Có được phép nộp thuế cho vua César chăng?”. Đây là một câu hỏi hóc búa, một tình huống đầy cam go. Họ đã dùng chiêu thức: “Nhất tiễn diệt song điêu”. Đây là cái bẫy thâm độc. Nếu Chúa trả lời “có” thì nhóm Pharisiêu kết án Ngài phản quốc; còn nếu Người nói "không" thì phe Hêrôđê tố cáo Ngài phản động, chống tại chính quyền Rôma. Câu trả lời nào thì cũng đều sụp bẫy của chúng. Tuy nhiên, Đức Giêsu đã trả lời cách khôn ngoan, khiến họ không thể tìm cớ tố cáo Ngài được. Ngài nói: "Cái gì của César thì hãy trả cho César, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa".

Với câu trả lời trên, Đức Giêsu thoát ra khỏi cái bẫy họ đã giăng sẵn, và không những thế, Ngài còn dạy cho họ một bài học quan trọng, đó là: cần ý thức để biện phân đâu là những cái thuộc về Thiên Chúa và đâu là thuộc về con người. Bổn phận của con người phải có đối với Thiên Chúa là gì?

2. Sứ điệp Lời Chúa

Khi nói "Cái gì của César thì hãy trả cho César, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa". Đức Giêsu muốn nói đến sự lựa chọn của chúng ta. Sự phân định để lựa chọn cho đúng được đặt nền trên chính Lương Tâm nơi mỗi người.

Lương Tâm chính là hoạt động của Chúa Thánh Thần. Nhờ Lương Tâm, chúng ta biết được điều thiện và điều bất toàn. Lương Tâm được ví như cái bánh lái của con tàu giữa biển khơi. Nếu không có bánh lái, con tàu sẽ không biết sẽ đi về đâu! Lương Tâm cũng giống như chiếc la bàn mà người thám hiểm đi trong rừng cần có để xác định hướng đi cho đúng. Nói cách khác, nhờ Lương Tâm chúng ta biết được điều gì nên làm và điều gì không nên. Vì thế, trong mọi tình huống, người Công Giáo phải ưu tiên cho Lương Tâm lên tiếng và làm theo.

Vì vậy, chúng ta phải tôn trọng điều đúng phù hợp với luân lý Kitô Giáo và nội dung Tin Mừng. Tránh những điều nghịch với Lương Tâm và trái với đạo lý của Đức Giêsu và giáo huấn của Giáo Hội. Phải can đảm, nhất quyết không thể phó thác cuộc đời, công việc và mục đích cuối cùng của chúng ta cho César!

3. Thực hành sứ điệp Lời Chúa

Ngày nay, giữa tôn giáo và chính trị, chúng ta được mời gọi vừa tuân thủ những lợi ích quốc gia khi điều được ban bố đúng với Lương Tâm. Mặt khác, chúng ta phải có nghĩa vụ trung tín với Thiên Chúa qua Luật của Ngài được nghi khắc trong Lương Tâm.

Vì thế, cần có những nguyên tắc như sau: 

- Luôn đồng hành với dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào

Thứ nhất, là người Công Giáo, chúng ta được mời gọi sống tinh thần: “là người Công Giáo tốt thì cũng là người công dân tốt” (Đức Giáo Hoàng Biển Đức 16); Tuy nhiên, “lòng yêu nước của chúng ta phải thiết thực” (HĐGM VN).

Vì thế, dù sống nơi đâu, làm bất cứ việc gì, chúng ta đều chung một mục đích là phục vụ hạnh phúc cho con người và thăng tiến quê hương. Nếu đi ngược lại, ấy là lúc chúng ta đang phản bội quê hương, đất nước.

- Chỉ buộc vâng phục quyền bính trần thế khi điều được ban hành là đúng

Thứ hai, khi sống trong xã hội trần thế, chúng ta được mời gọi chu toàn nghĩa vụ của mình là một công dân trong một đất nước. Vì thế, chúng ta phải chung tay, góp sức với mọi thành phần, nhằm xây dựng đất nước ngày càng tốt đẹp, trong sáng và lành mạnh hơn. Đã là công dân, mỗi người đều có bổn phận đóng thuế, tuân thủ những định luật đúng do một thể chế hợp pháp ban hành. Nhưng những điều lệ, luật định đó phải phù hợp với lẽ phải.

Vì thế, chúng ta luôn ủng hộ đường lối, chính sánh đúng. Tuy nhiên, tùy vai trò, hoàn cảnh thực tế, hẳn chúng ta sẽ không chấp nhận chính sách trái với luân lý Công Giáo! Bởi lẽ, điều này nghịch với Lương Tâm chân chính của một con người.

- Phải ưu tiên cách tuyệt đối cho Lề Luật của Thiên Chúa

Cuối cùng, người Kitô hữu có mục đích tối hậu là chính Thiên Chúa và sự sống đời đời. Vì vậy, luật lệ mang tính tuyệt đối mà người Công Giáo phải thượng tôn và thi hành cách trung thành, đó chính là Luật của Thiên Chúa.

Là người Công Giáo, nhưng sống trong một xã hội dân sự, chúng ta được Thiên Chúa mặc khải và định hướng bởi Lương Tâm nhằm biết làm lành, lánh dữ, nên trong mọi lựa chọn, phải lựa chọn Thiên Chúa và những căn tính thuộc về Ngài. Xác định được như thế, chúng ta sẽ hiểu hơn về câu nói của Đức Giêsu: "Cái gì của César thì hãy trả cho César, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa".

Lạy Chúa Giêsu, xin ban Chúa Thánh Thần xuống trên chúng con, để chúng con biết việc chúng con phải làm, ngõ hầu chúng con được bình an, hạnh phúc ngay trong xã hội trần thế. Xin cho chúng con biết lựa chọn những điều ưu tiên, tuyệt đối cho sự sống đời đời. Amen. mục lục

Suy Niệm Chúa Nhật Loan Tin Mừng

Is 2,1-5; 1 Tm 2,1-8; Mt 28,16-20

HÃY RA ĐI RAO GIẢNG TIN MỪNG

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Chúa Nhật ngày 18 tháng mười năm 2020 là khánh nhật truyền giáo. Đây là dịp thuận lợi để Kitô hữu ý thức sâu xa về sứ mạng truyền giáo của mình.

Những câu hỏi lớn được đặt ra: Truyền giáo là gì? Tại sao phải truyền giáo và ai phải truyền giáo? Liệu có cần phải ngày cầu nguyện cho việc truyền giáo không?

Truyền giáo, là giúp người ta tin nhận Đức Giêsu đã chết và đã sống lại, để họ tin Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể, để họ trở nên Kitô hữu.

Vì bản chất của Giáo Hội là truyên giáo. Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã nhấn mạnh: Sứ vụ truyền giáo là “bổn phận của toàn thể Giáo hội”, vốn “tự bản chất là thừa sai” (Ad gentes, 2). Trích lời Đức Thánh Giáo hoàng Phaolô VI, ngài tiếp: “Giáo Hội hiện hữu để truyền giáo, để giảng thuyết và giáo huấn, để làm máng chuyển quà tặng của các ân sủng, để hoà giải các tội nhân với Thiên Chúa, để trường tồn hy lễ của Chúa Kitô trong Thánh Lễ, đó là việc tưởng niệm cuộc tử nạn và phục sinh vinh hiển của Người.”

Là chi thể của Hội Thánh, tất cả những người đã chịu phép rửa tội phải thi hành nhiệm vụ truyền giáo. Điều này không có ý nói họ phải đi thật xa. Những nơi nào có họ, họ phải truyền giáo. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói: “Không ai được ngưng nghỉ việc này, vì là bổn phận khẩn thiết của ngày hôm nay”. Với lại, chính Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta: “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảngTin Mừng cho mọi tạo vật” (Mc 16, 15). Thánh Phaolô kêu lên: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 9, 16).

Rất cần thiết phải cầu nguyện cho việc truyền giáo. Ngày Thế giới Truyền giáo, hay Chúa Nhật Truyền giáo, được Đức Giáo hoàng Piô XI thiết lập vào năm 1926, để nhắc nhở các tín hữu Công giáo về sự dấn thân và hỗ trợ của họ đối với công việc truyền giáo của Giáo hội thông qua cầu nguyện và hy sinh. (CSR_6222_2020)

Ngày 31 tháng 5 năm vừa qua, dịp Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống năm 2020, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã công bố sứ điệp cử hành ngày Thế giới Truyền giáo năm nay. Dựa trên chủ đề lấy từ sách ngôn sứ Isaia, “Này con đây, xin hãy sai con đi”, sứ điệp của Đức Thánh Cha nói rằng đại dịch Covid-19 là một cơ hội để truyền giáo và phục vụ người khác.

Trong sứ điệp, Đức Thánh cha trình bày Chúa Giêsu như “Vị Thừa Sai của Chúa Cha: con người và hoạt động của Chúa Giêsu hoàn toàn là vâng phục thánh ý Chúa Cha (x. Ga 4,34...). Đến lượt Chúa Giêsu, Đấng đã chịu đóng đanh và sống lại vì chúng ta, Người thu hút chúng ta vào trong chuyển động yêu thương, và nhờ chính Thánh Linh, Đấng linh hoạt Giáo hội, biến chúng ta thành những môn đệ và sai chúng ta ra đi thi hành sứ mạng đối với thế giới và muôn dân”.

Đức Thánh cha đặt câu hỏi: “Chúng ta có sẵn sàng được sai đi khắp nơi để làm chứng về niềm tin của chúng ta nơi Thiên Chúa là Cha thương xót, để công bố Tin mừng cứu độ của Chúa Giêsu, để chia sẻ cuộc sống thần linh của Chúa Thánh Linh, qua việc xây dựng Giáo hội hay không? Như Mẹ Maria, chúng ta có sẵn sàng, không chút dè dặt, phục vụ thánh ý Thiên Chúa (Xc. Lc 1,38) hay không? Thái độ sẵn sàng nội tâm này rất quan trọng để có thể thưa với Chúa: “Lạy Chúa, này con đây, xin hãy sai con” (x. Is 6,8).

Đức Thánh cha cũng nhận định rằng: “Hiểu Thiên Chúa đang nói gì với chúng ta trong thời kỳ đại dịch này, trở thành thách đố đối với cả sứ mạng của Giáo hội. Bệnh tật, đau khổ, sợ hãi, cô lập đang đặt câu hỏi cho chúng ta. Cảnh nghèo của những người chết trong cô độc, của người bị bỏ mặc cho chính mình, người mất công ăn việc làm và lương bổng, của người không có nhà ở và lương thực, những điều đó đang gọi hỏi chúng ta. Bị buộc lòng phải xa cách và ở nhà, chúng ta được mời gọi tái khám phá thấy rằng chúng ta đang cần những tương quan xã hội, và cả tương quan cộng đồng với Thiên Chúa. Tình trạng này, không gia tăng sự nghi kỵ và dửng dưng, nhưng phải làm cho chúng ta quan tâm hơn tới cách thức tương giao của chúng ta với tha nhân. Và kinh nghiệm, trong đó Thiên Chúa đánh động tâm hồn chúng ta, mở cho chúng ta thấy những nhu cầu tình thương, phẩm giá, tự do của các anh chị em chúng ta, cũng như sự chăm sóc thiên nhiên. Sự kiện không thể họp nhau để cử hành thánh lễ, trong tư cách là Giáo hội, làm cho chúng ta chia sẻ thân phận của bao nhiêu cộng đoàn Kitô không thể cử hành thánh lễ mỗi Chúa nhật. Trong bối cảnh đó, câu hỏi của Chúa: “Ta sẽ sai ai đi?” lại được gửi đến chúng ta và chờ đợi chúng ta trả lời một cách quảng đại và xác tín: “Này con đây, xin hãy sai con!” (Is 6,8)

Và Đức Thánh cha kết luận rằng: “Cử hành Ngày Thế giới truyền giáo cũng có nghĩa là tái khẳng định việc cầu nguyện, suy tư và sự giúp đỡ vật chất, do những đóng góp của anh chị em là những cơ hội để tham gia tích cực vào sứ mạng của Chúa Giêsu trong Giáo hội của Ngài. Đức bác ái được biểu lộ qua những cuộc lạc quyên trong các thánh lễ Chúa nhật thứ ba của tháng 10, có mục đích hỗ trợ công việc truyền giáo được Các Hội Giáo Hoàng truyền giáo thực hiện nhân danh tôi, để đáp ứng các nhu cầu thiêng liêng và vật chất của các dân tộc và các Giáo hội trên toàn thế giới, vì phần rỗi của tất cả mọi người”.

Chúng ta cùng cầu xin Đức Trinh Nữ Maria, người Tông đồ đầu tiên và là nhà thừa sai của Lời Chúa, giúp chúng ta mang sứ điệp Tin Mừng đến với thế giới với niềm hân hoan khiêm tốn và rạng ngời, vượt lên trên bất kỳ sự từ chối, hiểu lầm hay bách hại nào.

Nữ Vương truyền giáo, cầu cho chúng con. Amen. mục lục

TRUYỀN GIÁO LÀ RA ĐI

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Lời mở đầu của “Sứ điệp ngày Thế giới Truyền Giáo 2014”, Đức Thánh Cha Phanxicô viết: Ngày nay còn rất nhiều người không biết Đức Giêsu Kitô. Vì thế, việc rao giảng cho người ngoài Kitô Giáo là công việc rất khẩn cấp, mà tất cả mọi thành viên của Giáo hội được kêu gọi để tham dự vào sứ vụ truyền giáo này, bởi vì tự bản tính Giáo hội là truyền giáo: Giáo hội được sinh ra là để “đi ra”.

Thiên Chúa hỏi ngôn sứ Isaia: “Ta sẽ sai ai đi? Và ai sẽ đi cho chúng ta?”. Isaia đã đáp: “Này con đây, xin hãy sai con” (Is 6,8). Isaia ca tụng: “Đẹp thay bước chân người đi khắp vùng đồi núi loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ…” (Is 52,7).

Truyền giáo là ra đi, đi để mang sứ điệp Tin mừng đến với muôn dân.

Sứ vụ sai đi khởi phát từ Chúa Cha “Như Cha đã sai Thầy,Thầy cũng sai anh em”. Chúa Giêsu thực hiện sứ vụ bằng việc ra đi.

Suốt mấy năm ra mặt với đời để hành đạo, Chúa Giêsu không ngừng đi, rày đây mai đó. Ngài luôn ngang dọc trên mọi nẻo đường đất nước của Ngài để truyền đạo.Từ hội đường này đến hội đường khác (Mt 4,23), hay ở ngoài trời, ở ngoài đường.Trên một sườn núi cũng có (Mt 5,1), bên một bờ hồ hiu quạnh cũng có (Mc 6,30-34). Có khi “mệt mỏi vì đường sá”, một mình ngồi trên thành giếng nói chuyện với người phụ nữ đến kín nước (Ga 4,6). Có lúc vì dân chúng chen lấn xung quanh đông đảo quá thì “Ngài mới lên một chiếc thuyền,thuyền của Simon và xin ông ấy chèo ra xa bờ một tí.Ngài ngồi xuống rồi từ ngoài thuyền nói vào mà giảng dạy dân chúng” (Lc 5,3).

Chúa Giêsu thực hiện những cuộc hành trình liên miên.Theo ngôn ngữ của Phúc âm Maccô chương 1: Ngài bỏ Nazareth để đến gặp Gioan bên sông Giođan,rồi đến Galilê,dọc theo bờ biển Galilê,và Ngài đi rao giảng trong các hội đường khắp xứ Galilê. Trong chương 2: Ít lâu sau, Ngài lại về Capharnaum…Ngài ngang qua đồng lúa …Cứ đi và đi như vậy mãi.

Chính giữa khung cảnh đường dài trời rộng thênh thang ấy mà lời giảng dạy của Ngài bao giờ cũng khởi hứng từ một hoàn cảnh của cuộc sống.Các hình ảnh đời thường gần gũi tràn ngập trong lời rao giảng: Cánh huệ mọc ngoài đồng; Đàn chim sẻ đang bay; Một đám ruộng lúa chín vàng mở rộng đến chân trời; Một mẻ cá lớn bên biển hồ; Những hạt giống người nông phu gieo vương vãi trên đường mòn,giữa bụi gai, trên sỏi đá; Một đàn cừu, dê, người chăn lùa về buổi chiều tối; Từng tảng đá,từng hạt sạn người ta nhặt từ một đống muối rồi vất đi; Từng con còng người đánh cá nhặt ra bỏ lại bên bờ sau một mẻ cá…

Việc thu thập môn đệ, Ngài cũng vừa đi, vừa gọi, vừa nhận…Như các môn đệ đầu tiên (Mc 1,16-20).Chúa Giêsu không dừng lại, yên nghĩ, hưởng thụ hay cũng cố vị trí người ta dành sẵn cho.Sau một ngày thành công rực rỡ ở Capharnaum chẳng hạn “Sáng đến,Ngài ra đi vào nơi hoang vắng. Dân chúng đi tìm Ngài và đến nơi Ngài, họ cố giữ Ngài lại, không để Ngài đi khỏi chỗ họ. Nhưng Ngài bảo họ: Ta còn phải đem Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa” (Lc 4,42-43).

Như thế, quả là suốt đời Chúa Giêsu đã không hề có trụ sở, không hề có chỗ trụ trì, không hề có nhà thờ. Ngài đi khắp mọi nẻo đường trên thế giới Ngài sống.

Chúa Giêsu bị bắt lúc đang cầu nguyện giữa vườn Giệtsêmani hoang vắng.Bị điệu đến Hanna rồi Caipha.Từ toà đạo qua toà đời. Hết bị điệu đến dinh Philatô lại bị gửi qua dinh Hêrôđê, rồi bị đưa trả về cho Philatô. Không đầy một ngày một đêm mà kẻ tử tù đã phải đi không biết bao nhiêu dặm trên con đường “công lý” của loài người.

Bị kết án thập hình. Hai tay dang rộng, bị đóng đinh thập giá.Tảng đá lấp cửa mồ (Mc 14,32 -15,47). “Lính canh phòng cẩn mật,niêm phong tảng đá lại” (Mt 27,62-66). Thế nhưng, Đức Giêsu đã không dừng chân cả trong cái chết. Ngày thứ ba, Ngài sống lại, vượt cái chết qua sự sống bất diệt.

Sau khi Phục sinh, Ngài cũng đi nhiều nơi, đến với với các môn đệ, cũng cố lòng tin và sai họ ra đi loan báo Tin mừng. Hoàn thành sứ mạng “Ngài lên trời ngự bên hữu Chúa Cha” (Mc 16,19) và luôn đồng hành cùng Giáo hội “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).

Chúa Giêsu lập nên Nhóm Mười Hai. Họ được Ngài sai đi rao giảng (Mc 6,7). Giáo hội tiếp nối sứ vụ được sai đi, ra đi đến với muôn dân.

Hai động từ Gọi – Sai Đi diễn tả rõ rệt ơn gọi của Nhóm Mười Hai.Các Tông Đồ là những người được sai đi.

Chúa căn dặn rằng: người được sai đi phải có tinh thần nghèo khó và từ bỏ.

– Nghèo khó về hành trang đi đường: 1 cây gậy, 1 đôi dép,không mang 2 áo. Ý nghĩa ở đây là những kẻ được sai đi phải là những con người thanh thoát, không cồng kềnh nặng nề với của cải vật chất để có thể luôn sẵn sàng lên đường ra đi cho sứ vụ.

– Nghèo khó về phương diện sinh sống: không được mang lương thực, bao bị, tiền bạc. Hành trình như vậy đặt các người được sai đi trong tư thế tuỳ thuộc. Không vướng víu, không “mọc rễ” bất cứ nơi đâu để nhẹ nhàng ra đi nơi nào Chúa muốn.

Chúa Giêsu cũng không dấu giếm họ điều gì cả.Con đường truyền giáo là con đường đầy chông gai, lắm gian khó. Cũng như Ngài, họ đón nhận sự rủi ro bị từ chối, bị xua đuổi. Cần phải hy sinh bản thân. Đó là thân phận kẻ được gọi, được sai đi. Ra đi mà không gì bảo đảm, ra đi mà không mảy may dính bén. Sẵn sàng đến mà cũng sẵn sàng đi.Thành công cũng không thụ hưởng mà thất bại cũng chẳng đắng cay. Bởi lẽ người được sai đi luôn xác tín rằng: “Tôi trồng, Apollô tưới, còn Chúa cho mọc lên”.

Người truyền giáo luôn bị cám dỗ định cư, tìm an toàn bảo đảm bản thân, an nghĩ trong những thành công tạm bợ…và không muốn ra đi. Càng gắn bó, lúc cách xa càng luyến nhớ. Sâu đậm bao nhiêu, lúc giã biệt sẽ nuối tiếc bấy nhiêu.Vì vậy, Chúa muốn các môn đệ luôn sẵn sàng ra đi, lên đường bao giờ cũng đẹp, hạnh phúc chỉ dành cho ai dám lên đường tìm kiếm.

Cuộc đời người Kitô hữu cứ phải ra đi không ngơi nghĩ. Ra khỏi cái cũ và đi tới cái mới. Ra khỏi cái đang có để đi tới cái chưa có. Ra khỏi cái mình đang là để đi tới cái mình phải là. Như thế, hành trình xa xăm nhất lại chính là hành trình của con tim “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi. Nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông”.

Sứ vụ truyền giáo là sứ vụ của người ra đi mang tin vui, tin cứu độ, tin được Thiên Chúa đoái thương. Đức Maria mang trọn niềm vui Đấng Cứu Độ mà nhân loại đón đợi. Đức Maria trở nên người loan báo Tin Mừng vì Mẹ mang trọn niềm vui Chúa Thánh Thần. Ai để cho Chúa Thánh Thần hoạt động trong cuộc đời của mình cũng là người mang trọn niềm vui loan báo. Đức Maria còn là người công bố Tin Mừng: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn” (Lc 1, 49). Thấy được tình thương Thiên Chúa thể hiện trong cuộc đời mình nên lời công bố mang một niềm tin xác tín, đã gặp và đã thấy nên chan chưa niềm vui.

Xuyên suốt Sứ điệp Truyền giáo năm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô luôn nói đến niềm vui Tin Mừng: “Tôi mời gọi anh chị em đắm mình vào niềm vui của Tin Mừng và nuôi dưỡng một tình yêu có thể thắp sáng ơn gọi và sứ mạng của anh chị em…Các môn đệ của Đức Kitô luôn luôn vui mừng khi cảm nhận sự hiện diện của Ngài, khi thi hành ý Ngài và chia sẻ đức tin, đức cậy và đức ái Phúc Âm của mình cho người khác” (Sứ điệp Truyền giáo 2014).

Để trở thành người loan Tin Mừng, Đức Maria đã “hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 3,51). Cầu nguyện là chiêm ngắm những điều Thiên Chúa đã thực hiện nơi mình. Đối với Đức Maria, truyền giáo là đem chính Chúa Giêsu cho nhân loại. Chúa Giêsu là lẽ sống, là hạnh phúc, là niềm vui của cuộc đời mỗi kitô hữu. Chúng ta phải xác tín như Đức Maria: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (Lc 1, 46). Tràn ngập niềm hân hoan bởi Mẹ đã gặp thấy và cưu mang chính niềm vui có Chúa Giêsu trong lòng Mẹ. Đức Maria reo ca: “Thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi” (Lc 1, 47). Đức Maria đã cưu mang chính Chúa Giêsu, quà tặng tuyệt hảo nhất của Thiên Chúa, nguồn ơn cứu rỗi duy nhất, công bố, trao tặng cho nhân loại.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã ra đi từ trời cao xuống đất thấp, mang Tin mừng chiếu soi nhân trần. Xin sai chúng con ra đi nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế. Xin giúp chúng con chỉ biết cậy dựa vào Chúa.Chỉ mình Chúa là đủ cho chúng con. Amen. mục lục

THỔN THỨC CỦA CHÚA VÀ VINH QUANG HỘI THÁNH

Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng

Ngay trước lúc về trời, Chúa Giêsu trăn trối với đoàn môn đệ, cũng là lời trăn trối Chúa để lại cho toàn Hội Thánh: "Hãy đi giảng dạy muôn dân làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con" (Mt 28, 19-20). Lời sai đi này cho thấy:

1. NỖI THỔN THỨC CỦA CHÚA.

Tôi gọi nỗi thổn thức truyền giáo trong trái tim Chúa Giêsu là sự “trăn trở”, “thao thức”, “khao khát” của Chúa muốn cứu chuộc loài người. 

Người tông đồ rao truyền Lời Chúa có nhiệm vụ biến tâm tư của Chúa thành tâm tư của mình. Tức là mỗi chúng ta cũng phải có con tim thổn thức cho việc truyền giáo nhằm biến “trăn trở”, “thao thức”, “khao khát” của Chúa thành “trăn trở”, “thao thức”, “khao khát” của mình, để lên đường cách hết sức kiên định, mạnh mẽ, sẵn sàng đối đầu cùng nghịch cảnh, sẵn sàng chấp nhận thập giá mà dọc đường rao giảng, người tông đồ sẽ phải chạm tới.

Đồng thời khi đặt Lời Chúa trong nỗi “trăn trở”, “thao thức”, “khao khát” như chính nó là tâm tư của bản thân, sẽ là lý do mạnh, lý do cấp bách, lý do trên mọi lý do, để người tông đồ nói riêng, Hội Thánh nói chung phải ưu tiên hàng đầu cho việc rao truyền Lời Chúa: Lời chân lý, lời sự sống, Lời giải thoát.

Một khi hiểu được “trăn trở”, “thao thức”, “khao khát” của Chúa, dễ đẩy ta tới tâm thức: Không việc nào quan trọng bằng loan báo Tin Mừng của Chúa. Không hành động nào lớn bằng hành động loan báo Tin Mừng của Chúa. Không đam mê nào ngang hàng đam mê ra đi loan Tin Mừng của Chúa. Không thúc bách nào mạnh mẽ bằng thúc bách xả thân vì Lời của Chúa. Không tình yêu nào cao cả bằng tình yêu được sống chết cho Lời của Chúa... 

Với tâm thức ấy, ta quyết làm trọn nỗi chờ mong của Chúa, không chần chừ, không so đo, không ì ạch…

Có thấy, có biết và sống chính tâm tư đầy “trăn trở”, “thao thức”, “khao khát” của Chúa, người truyền thông Lời Chúa mới nhận những thúc đẩy từ bản thân, từ đòi hỏi thâm sâu của cõi lòng một cách tự nguyện và tự do, dấn thân rao truyền Lời Chúa. 

Nếu Chúa đã và vẫn tiếp tục “trăn trở”, “thao thức”, “khao khát” cho Lời của Người vươn xa, thì người rao truyền Lời Chúa hôm nay cũng phải nên như Chúa. Nghĩa là họ nung đốt tâm hồn mình, ấp ủ trái tim mình, tôi luyện ý chí mình, đào tạo lý trí mình, để mọi nơi, mọi lúc, Lời Chúa phải tràn ứ, phải thấm nhập, phải luôn là những phản ứng thường xuyên trải dài suốt đời sống, xuyên qua từng khoảnh khắc sống của họ.

Là người phụng sự Chúa, phụng sự Lời Chúa, các Kitô hữu không được “đứng ngoài” những tâm thức của Chúa, nhưng phải mang lấy chính “trăn trở”, “thao thức”, “khao khát” của Chúa thành “trăn trở”, “thao thức”, “khao khát” của họ. Nhờ đó, họ sẽ rao truyền Lời Chúa sống động, xác tín, đầy quả quyết và quả cảm, như Chúa sống trong họ, như Lời của Chúa nói bằng miệng lưỡi của họ, như chính Chúa hành động trong từng biểu hiện của họ.

2. TRUYỀN GIÁO LÀ NGHĨA VỤ LÀM CHO HỘI THÁNH VINH QUANG.

Hội Thánh cất giữ và cố gắng biến lời vừa là di chúc đặc biệt, vừa là mệnh lệnh truyền giáo: "Hãy đi giảng dạy muôn dân...", thành lẽ sống và hành động sống của mình. Hội Thánh ấp ủ từng ngày, để thao thức truyền giáo của Chúa Kitô trở thành nỗi thao thức, niềm say mê của Hội Thánh. 

Phải truyền thông Lời Chúa. Lệnh truyền ấy vừa là bổn phận, vừa làm cho Hội Thánh vinh quang: 

- Bổn phận là vì Hội Thánh phải tiếp tục sứ mạng của Chúa Kitô: “Ngày sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân” (Lc 9, 2). 

Và một khi thi hành sứ mạng truyền giáo, sứ mạng ấy trở thành nhiệm vụ cốt yếu của cả Hội Thánh và của từng người: “Chúng tôi không thể sao nhãng Lời Thiên Chúa để lo giúp việc bàn ăn” (Cv 6, 2). Thánh Phaolô còn nói mạnh hơn về nghĩa vụ không thể bỏ qua của việc thực thi sứ mạng truyền giáo: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Phúc Âm”.

- Còn vinh quang là vì Hội Thánh được cộng tác với Chúa Kitô mang ơn cứu độ cho trần gian. Lời Thiên Chúa là Lời quyền năng, lại được trao vào tay con người. Không phải chỉ hôm nay, nhưng đã có từ muôn thuở: “Thuở xưa nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã nói với cha ông chúng ta qua các ngôn sứ” (Dt 1, 1). 

Phải truyền thông Lời Chúa. Sứ mạng thiêng liêng, bền bỉ, mang tính sống còn này luôn được Hội Thánh nhắc nhở, đề cao. Hội Thánh xem công tác truyền giáo, ra đi làm sáng danh Chúa, rao giảng lời cứu độ của Chúa đến với muôn dân là việc phải thi hành nhanh chóng, cấp bách. Đó là nhiệm vụ không miễn trừ một ai, không chậm trễ dù ở thời điểm nào.

Ngày xưa, các tổ phụ, các tiên tri nhận lãnh và rao truyền Lời Chúa, thì hôm nay, chúng ta cũng tiếp tục thực hiện sứ mạng của các ngài.

Nhận lãnh sứ mạng truyền thông Lời Chúa, những con người mỏng dòn, yếu đuối lại tiếp tục trao gởi cho hết thế hệ này đến thế hệ khác Lời sự sống, để mọi thời, từng con người phải ấp ủ cho mình ngày càng trưởng thành, rồi đem Lời luôn được ấp ủ ấy san sẻ cho nhau.

Một khi Hội Thánh lên đường dấn thân cho hoạt động truyền giáo, cũng có nghĩa là, Hội Thánh cho thấy Chúa Kitô tin tưởng Hội Thánh, khi Chúa dám đặt vào tay những con người tội lỗi nơi trần thế cơ đồ mà chính Người đã phải trả bằng giá máu.

Vì thế, khi được giao trách nhiệm công bố Lời Chúa, mỗi một người cần ý thức sự yếu đuối của mình mà cậy dựa vào Chúa, cầu nguyện nhiều, hết lòng khiêm nhường và ăn năn tội thường xuyên. Đồng thời, từng người đón nhận nhiệm vụ được giao với niềm yêu mến, sung sướng để sử dụng mọi khả năng, mọi nhiệt huyết của bản thân mà công bố Lời quyền năng của Chúa.

Hãy ra đi rao giảng Lời Chúa bằng lòng tin tưởng, không bao giờ sợ hãi, nhưng can đảm, mạnh mẽ để “những gì Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà mà rao giảng” (Mt 10, 27). 

Hãy gieo lời Chúa chăm chỉ miệt mài như người gieo giống: gieo khắp nơi, gieo trong mọi hoàn cảnh, dù đó là “đất tốt” kết quả đạt đến “gấp trăm, hoặc “sáu mươi”, hoặc “ba mươi”, hay đó chỉ là “vệ đường”, là “nơi sỏi đá”, là “bụi gai” (Mt 13, 3-9). 

Gieo Lời Chúa đến cùng, “lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” (2Tm 4, 2).

Xin Chúa huấn luyện chúng ta thành tông đồ cho thế giới mới để luôn là những nhà thông truyền Lời Chúa, vinh danh Chúa cách hết sức nhiệt thành, hiệu quả và đúng đắn. mục lục

ĐẤT và TRỜI

[Niệm ý Mt 22:15-21 ≈ Mc 12:13-17; Lc 20:20-26]

Cái gì thuộc về đất

Là tạm bợ thôi mà

Nhưng vẫn luôn cần thiết

Hãy trả cho người ta.

Đất có phần của đất

Trời có phần của trời

Bổn phận phải hoàn tất

Rạch ròi chuyện đôi nơi.

Chớ giả hình, thách thức

Đừng đánh lận con đen

Sống khôn phải nhận thức

Khốn đời bởi sống hèn.

Điều thánh chớ tục hóa

Người đời chớ tôn vinh

Ngẫu tượng như ma quỷ

Khốn kiếp tự tôn mình.

Lạy Thiên Chúa duy nhất

Đấng từ nhân muôn đời

Xin gia tăng tín lực

Để mến Chúa, yêu người. mục lục

SỞ HỮU

“Của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” (Mt 22:21; Mc 12:17; Lc 20:25)

Của người, chẳng phải của mình

Đừng tham, đừng lấy, đừng giành phần ai [1]

To hay nhỏ cũng vậy thôi

Chớ khinh suất kẻo họa đời đeo mang

Dở cười dở khóc chẳng xong

Ngủ không yên giấc, bàng hoàng chiêm bao

Lấy rồi chẳng biết làm sao

Đó là Nợ Lửa – đời sau vẫn còn!

Phải đền cho hết mới xong

Không đền, không thể nhẹ lòng chi đâu

Đời ai, phận nấy – khác nhau

Phần đời, phần đạo, phần nào cũng riêng

Điều cần là phải yêu thương

Yêu thương khỏa lấp tội mang trong mình [2]

Ân tình nhờ biết hy sinh

Phần dành Thiên Chúa, phần dành tha nhân. mục lục

Viễn Dzu Tử

---------------------------------

[1] Giới răn thứ Bảy và thứ Mười.

[2] 2 Pr 4:8 – “Hãy hết tình yêu thương nhau, vì lòng yêu thương che phủ muôn vàn tội lỗi.”

TRẢ VỀ THIÊN CHÚA

(Phỏng theo Tin Mừng Mt 22,15-21)

Nhóm Do Thái Pharisêu ghen ghét Chúa

Bàn với nhau kế hoạch đánh bẫy Ngài 

Bằng cách làm cho Chúa phải lỡ lời 

Mà lên tiếng điều coi là phản nghịch.

Họ sai bọn đi cùng phe quá khích

Lên tiếng khen rồi hỏi trước đám đông 

Rằng: Có nên nộp thuế cho vua không?

Và họ tặng cho Ngài đồng tiền mới. 

Họ chú ý nghe lời Chúa sẽ nói

Nếu nói “không”, họ bảo chống vương quân

Nếu nói rằng “có” đó là phản dân 

Rõ ràng cả hai đều sa vào bẫy.

Chúa mới hỏi: Hình này là ai vậy?

Họ đáp ngay: hình đó của Xê Da

Chúa phán rằng: của Xê Da trả Xê Da

Của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa. 

Lời Chúa dạy, lạy Chúa, lời muôn thuở

Chỉ lối theo phần đạo và phần đời 

Con sẵn lòng hiệp thông với mọi người 

Và quyết sống trung thành theo ý Ý Chúa. mục lục

(Thế Kiên Dominic)

Với mục đích để Lời Chúa được loan truyền và thông tin Giáo hội được lan tỏa, Legio Mariæ sẵn lòng để các tổ chức và cá nhân sử dụng lại tin bài đã đăng trên báo giấy và báo mạng legiomariævn.com của mình.

Tuy nhiên, vì đức công bằng và sự bác ái, xin quý vị vui lòng ghi đầy đủ nguồn như sau: “Theo Đạo Binh Đức Mẹ, website: legiomariævn.com”.

Ngoài ra, nếu chia sẻ bài lên mạng xã hội (Facebook, Twitter…), đề nghị dùng đường dẫn gốc trên website của Đạo Binh Đức Mẹ.

Tin liên quan