SUY NIỆM CHÚA NHẬT II PHỤC SINH_A (2023)

14-04-2023 917 lượt xem

CHÚA NHẬT VỀ LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA
Lời Chúa: Cv 2,42-47; 1 Pr 1,3-9; Ga 20,19-31

Mục Lục

“ĐỨC TIN VÀ LÒNG THƯƠNG XÓT” - + ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên

BA CÁI “T” CẦN THIẾT CHO ƠN CỨU RỖI - Lm. Đaminh Phạm Tĩnh, SDD

CHÚA VẪN NGAY BÊN - Bông hồng nhỏ 

CHÚA PHỤC SINH VÀ CÁC NỖI ĐAU - Lm. Giuse Mai Văn Thịnh, DCCT

CHUYỆN THƯƠNG XÓT - Thomas Aq. Trầm Thiên Thu

VẾT THƯƠNG CỦA ĐẤNG PHỤC SINH - Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

PHÚC CHO AI KHÔNG THẤY MÀ TIN - Jorathe Nắng Tím   

“ĐỂ ANH EM TIN MÀ ĐƯỢC SỰ SỐNG” - Lm. Phêrô Phan Văn Lợi

ĐỨC TIN VÀO SỰ PHỤC SINH - Phêrô Phạm Văn Trung

BÍ TÍCH CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT - Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng

Thi ca: CHỮ TIN - Viễn Dzu Tử

Thi ca: HAI LẦN CHÚA HIỆN ĐẾN - (Thế Kiên Dominic)

“ĐỨC TIN VÀ LÒNG THƯƠNG XÓT”

Tuyên xưng Đức Ki-tô Phục sinh là thành phần cốt lõi của đức tin Ki-tô giáo, đến nỗi có thể khẳng định Ki-tô giáo là một tôn giáo khởi đi từ biến cố Phục sinh của Đức Ki-tô. Trong xã hội tục hoá và vô thần hôm nay, việc nói đến một người đã chết, đã chôn trong mồ, rồi ba ngày sau sống lại, sẽ bị coi là ảo tưởng viển vông và nhảm nhí. Tuy vậy, bất chấp mọi con sóng ác liệt của sự vô tín, Giáo Hội Công giáo vẫn vững vàng tuyên xưng: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa đã chịu chết, chúng con tuyên xưng Chúa sống lại, cho tới khi Chúa đến”.

Xét theo khía cạnh loài người, việc một người đã chết ba ngày rồi sống lại đúng thật là một điều không tưởng. Tuy vậy, nếu chúng ta tin vào Thiên Chúa là Đấng quyền năng, thì việc làm cho một người đã chết rồi sống lại là một điều đơn giản và bình thường đối với Ngài, bởi lẽ “đối với Chúa, không có gì là không làm được”. Thiên Chúa là Chúa của những điều không thể. Ngài làm cho những điều không thể, thành những điều có thể. Đức tin của chúng ta không đặt nền trên những nhân vật trần thế hoặc những quy luật của thế giới vật chất, nhưng đặt nền tảng trên chính Thiên Chúa là Đấng quyền năng.

Đối với người Ki-tô hữu, chúng ta không đặt vấn nạn “Đức Ki-tô sống lại như thế nào?”, mà là vấn nạn “Đức Ki-tô sống lại để làm gì?”, tức là chúng ta đi tìm ý nghĩa và mục đích của biến cố Phục sinh.

Tông đồ Tô-ma là người đại diện cho trường phái “hiện thực – Realism”, tức là chỉ tin vào những điều mình cảm nhận bằng giác quan, như nhìn thấy, nghe thấy và chạm tới. Chính vì thế, ông đòi bằng được các chứng từ cụ thể của giác quan, như thọc bàn tay vào cạnh sườn Chúa và xỏ ngón tay vào lỗ đinh ở bàn tay Người. Tô-ma cũng như các anh em, đã trực tiếp nhìn thấy Thầy mình bị tra tấn và giết chết. Có thể ông cũng đã chứng kiến (hoặc đã nghe nói) về vết thương ở cạnh sườn Chúa. Những điều kiện ông yêu cầu rất thiết thực và chính đáng. Chúa Giê-su chấp nhận bước vào cuộc thách đố của con người. Người đã hiện ra và đáp ứng những điều kiện của ông Tô-ma. Một số bức tranh nghệ thuật trình bày ông Tô-ma lấy ngón tay trỏ thọc vào vết thương ở cạnh sườn Chúa Giê-su. Tuy nhiên chi tiết này không thực, vì như chúng ta nghe trong Tin Mừng thánh Gio-an, ông Tô-ma chẳng còn tâm trạng nào khi thấy Chúa. Ông run rẩy sợ hãi. Ông có ngờ đâu những thách thức của mình lại được Chúa đáp ứng. Ông chỉ còn lắp bắp thưa với Chúa: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”. Đây vừa là lời tuyên xưng đức tin, vừa là lời thú tội để xin Chúa tha thứ cho sự cứng lòng của mình. Sự tự tin trước đây đã bị thay thế bằng tâm trạng hoảng sợ và thành kính van xin.

Sự kính sợ cũng là tâm trạng của các tín hữu sơ khai. Tác giả sách Công vụ Tông đồ đã viết: “Mọi người đều kính sợ, vì các Tông Đồ là nhiều điềm thiêng dấu lạ”. Đây không phải là tâm trạng hoang mang, mà là sự ngưỡng mộ và tôn kính của các tín hữu, vì họ tin Đức Giê-su phục sinh đang hiện diện giữa cộng đoàn tín hữu. Chính Người ban cho các Tông Đồ quyền năng và sức mạnh thần thiêng, để các ông có thể làm được những phép lạ, như Chúa Giê-su đã làm trước đây. Nhờ sự hiện diện của Đấng Phục sinh mà lời giảng dạy của các ông có sức thuyết phục người nghe, thúc đẩy họ gia nhập Đạo Chúa. Những ai đã tin Chúa thì sống trong hân hoan vui mừng và hăng say thực thi bác ái.

Chúa nhật II Phục sinh cũng là Chúa nhật của Lòng Thương Xót của Chúa. Cầu nguyện và tôn vinh Lòng Thương Xót của Chúa là một hình thức đạo đức bình dân, khởi đi từ sáng kiến của Thánh Gioan Phaolô II Giáo Hoàng, dựa trên những mạc khải tư Chúa đã tỏ cho thánh nữ Faustina Kowalska (1905-1938), một nữ tu người Ba Lan, thuộc Dòng Các Nữ tu Ðức Trinh Nữ rất thánh, Mẹ của lòng Thương xót. Chúa Giê-su đã nhiều lần hiện ra với nữ tu Faustina và nhận bà là “Thư ký của Lòng Thương Xót”. Trong một lần hiện ra, Chúa Giê-su đã nói với bà:“ Hỡi thư ký của Cha, con hãy viết rằng: Cha rộng lượng với các tội nhân hơn với người công chính. Vì họ, Cha đã từ trời xuống thế; vì họ Cha đã đổ máu ra. Chớ gì họ đừng sợ hãi khi đến gần Cha; họ rất cần đến Lòng Thương Xót của Cha (Nhật ký, số 1275). Trong Nhật ký tâm hồn của mình, chính thánh Faustina thuật lại những điều Chúa đã thực hiện nơi thánh nữ vì ơn ích của tất cả mọi người: lắng nghe Chúa, Đấng là Tình yêu và Thương xót, thánh Faustina hiểu rằng sự khốn khổ của con người không thể sánh với lòng thương xót không ngừng tuôn tràn từ trái tim của Chúa Ki-tô. Do đó, thánh nữ đã trở thành nguồn cảm hứng cho một phong trào loan báo và cầu khẩn Lòng Chúa thương xót trên toàn thế giới.

Một số người đã hiểu tôn kính Lòng Thương Xót của Chúa là một phương pháp chữa những chứng bệnh hiểm nghèo. Do đó mà có sự lạm dụng, làm lệch lạc ý nghĩa của hình thức đạo đức này. Tôn vinh Lòng Thương Xót của Chúa giúp ta cảm nhận tình yêu thương vô biên của Ngài, thể hiện qua công trình sáng tạo và công trình cứu chuộc, đồng thời mời gọi chúng ta hãy thực thi lòng thương xót với anh chị em. Đã có rất nhiều người được ơn, khi họ thành tâm cầu nguyện với Lòng Thương Xót của Chúa. Điều đó thật chính đáng và hợp lý, vì Thiên Chúa là Đấng giàu lòng xót thương.

“Phúc thay những người không thấy mà tin”. Xin Chúa cho chúng ta niềm xác tín vào sự Phục sinh của Đức Ki-tô Con Chúa. Qua Đấng Phục sinh, chúng ta đón nhận muôn ơn lành do lòng Thương Xót của Chúa Tình Yêu. Amen. mục lục.

+ ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên

BA CÁI “T” CẦN THIẾT CHO ƠN CỨU RỖI

Trong quyển Nhật Ký Thông điệp Lòng Chúa Thương Xót, thánh nữ Faustina viết rằng, muốn nhận được LÒNG THƯƠNG XÓT của Chúa, thì bạn và tôi cần phải làm ít nhất ba việc sau đây:

• Một là THỈNH CẦU lòng thương xót. "Các linh hồn nào kêu gọi đến Lòng Thương Xót của Ta- đều làm cho Ta vui thích. Ta sẽ ban cho các linh hồn đó còn nhiều hơn cả điều họ xin (1146).
• Hai là TÍN THÁC vào lòng thương xót. "Khi một linh hồn tiến đến gần Ta với lòng tín thác, Ta đổ tràn đầy ân sủng trên họ đến mức độ họ không tài nào chỉ giữ riêng cho mình, mà phải toả ra cho các linh hồn khác (1074).
• Ba là THỰC HÀNH lòng thương xót. "Con có bổn phận thực hành lòng thương xót đối với những người lân cận của mình, bất cứ lúc nào và ở đâu, không được thoái thác hay tránh né, hoặc chữa mình" (742).

Trong ba việc THỈNH CẦU–TÍN THÁC & THỰC HÀNH LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA CHÚA , bạn nghĩ thử xem cái nào là cái khó nhất? Theo tôi, THỰC HÀNH lòng thương xót của Chúa là việc khó nhất? Bạn biết tại sao vậy không?

Xin thưa là bởi vì trong mỗi người chúng ta, cái tôi, cái ích kỷ và cái tự ái…bao giờ cũng lớn, bao giờ cũng cồng kềnh, và luôn có khuynh hướng lấn át cái lòng thương xót của chúng mình. Tôi xin đơn cử ra đây một vài ví dụ cụ thể, để chứng minh rằng thực hành lòng thương xót là một việc rất nan giải chứ không hề dễ chút nào cả!

• Vừa đi làm về, đang mệt mỏi, bước vào nhà thì nghe mẹ của bạn nói bà muốn đi tham dự thánh lễ, đi sinh hoạt với hội cao niên, đi thăm người này, đi viếng người kia… Lúc đó bạn có vui vẻ lắng nghe, có sẵn sàng đưa bà cụ đi không? Hay là bạn càu nhàu, nhăn nhó, hay tệ hơn nữa, nói những lời làm bà cụ buồn phiền
• Đang lúc đọc lời truyền phép: “Cùng một thể thức ấy sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén, tạ ơn Chúa, dâng lời chúc tụng và trao cho các môn đệ và nói…” thì điện thoại của một người nào đó kêu ầm ĩ theo điệu nhạc: “Ò e Ro-be đánh đu, thằng tây nhảy dù, cow boy bắn súng…” Lúc đó bạn vẫn cầm lòng cầm trí, vẫn cử hành thánh lễ bình thường, hay là bạn nhăn nhó và nhìn về phía người giáo dân đó với cặp mắt mang hình “viên đạn”?
• Tình hình kinh tế xuống dốc, công việc thì ít, mắm muối, gạo thịt, xăng nhớt cứ lên giá vùn vụt… Vậy mà tháng nào nhà thờ cũng xin tiền lần thứ hai cho chỗ này chỗ nọ… Bạn có vui vẻ làm theo lời khuyên của ông Tô-bít: “Tùy con có bao nhiêu, hãy cho bấy nhiêu; có nhiều thì cho nhiều, có ít thì đừng ngại cho ít” (4:8). Hay là bạn lầm bầm: “Lại tiền, cứ đến nhà thờ là nghe xin tiền, mai mốt ông đi...chùa cho khoẻ!” 

Còn nhiều lắm, mà tôi tin rằng ít nhiều gì thì bạn cũng đã cảm nghiệm được rằng thực hành lòng thương xót không phải là chuyện dễ dàng. Như vậy thì phải làm sao đây? Không lẽ thấy khó rồi chúng mình bỏ cuộc không thực hành lòng thương xót như Chúa Giêsu mong ước hay sao? No way! Bạn và tôi phải nỗ lực cố gắng, và kiếm cách để thực hành lòng thương xót, để rồi mình mới được Thiên Chúa xót thương.

Để có thể thực hành “lòng thương xót đối với những người lân cận của mình, bất cứ lúc nào và ở đâu, không được thoái thác hay tránh né, hoặc chữa mình” (Nhật Ký # 742) bạn và tôi hãy nhớ “Khi tôi thực hành lòng thương xót với người khác, là khi đó tôi và bạn đang thương xót chính bản thân mình và đang làm LỢI cho chính mình nữa.” Lợi ở chỗ nào hả? Có đấy!

• Lợi ở đời này. Bởi vì Chúa Giê-su đã khẳng định:“Anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em” (Mc 4:24). Khi bạn và tôi lâm cảnh khốn khó và nghèo túng… lúc đó, tha nhân và chính Chúa sẽ tỏ lòng thương xót chúng mình y như chúng mình đã có lòng thương xót tha nhân vậy. Bây giờ mà mình không thực hành lòng thương xót đối với tha nhân, thì mai mốt này sẽ không có ai thương xót mình cả, đó là một sự thật rõ ràng như 2+2=4 vậy!

• Lợi ở đời sau. Khi còn sống ở đời này mà chúng mình biết thương xót người ta, thì khi ra trước tòa phán xét, bạn và tôi chắc chắn sẽ được Thiên Chúa xót thương, tha thứ và sẽ được Ngài ban thưởng hạnh phúc vĩnh cửu. Bởi vì Chúa Giê-su đã phán: “Phúc thay ai thương xót người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương”(Mt 5:7).

Thực hành lòng thương xót đối với ông bà, cha mẹ, anh chị em, với bà con láng giềng, với bạn bè, với các linh mục, với các tu sĩ, với các dòng tu, với những anh chị em mình chưa hề biết mặt, chưa hề gặp gỡ … thương xót họ bằng những hành động cụ thể là một cái PHÚC cho mình, cho gia đình, cho con cái cháu chắt của mình nữa, bạn có tin không?
Nếu bạn tin thương xót người khác là có PHÚC thì xin bạn đừng ngần ngại hay so đo tính toán nữa, JUST DO IT! Còn nếu bạn không tin đó là cái PHÚC, thì Chúa cũng xin chào… thua!

Cầu chúc bạn một mùa Phục Sinh tràn đầy ơn Chúa, mạnh khỏe và bình an. mục lục.

Lm. Đaminh Phạm Tĩnh, SDD

CHÚA VẪN NGAY BÊN

Ai trong chúng ta cũng đang sống, nhưng chúng ta có thật sự sống và sống dồi dào không? Sau cái chết ô nhục của Thầy Giêsu, cuộc sống của các môn đệ bị đảo lộn, các ông rơi vào một nỗi sợ khủng khiếp: Người Do thái sẽ tìm giết các ông. Các ông đang sống mà như đã chết, nỗi sợ bóp nghẹt và vây kín tâm hồn các ông. Sống trong nỗi sợ quả là khủng khiếp! Ai sẽ ở bên cạnh và giải thoát chúng ta khỏi bao điều sợ hãi?

“Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín vì các ông sợ người Dothái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!” (Ga 20,19). Sự xuất hiện bất ngờ của Thầy Giêsu đã mang lại niềm vui nơi tâm hồn các môn đệ. Thầy hiểu rõ điều các ông đang cần đó là sự bình an. Vắng Thầy, các ông mất bình an, đầy hoang mang và lo sợ. Bây giờ, các ông hạnh phúc biết bao khi được thấy Chúa, được đụng chạm vào thân xác phục sinh của Chúa. Các ông nhận được Thánh Thần, để Người hướng dẫn và giải thoát các ông khỏi mọi nỗi sợ hãi, để các ông can đảm làm chứng nhân cho Chúa Phục Sinh.

Có một môn đệ tên là Tôma, ông đã vắng mặt khi Chúa hiện đến. Nghe các anh em nói: “Chúng tôi đã thấy Chúa”, ông không tin. Ông muốn được tận tay đụng chạm đến Chúa. Ông không phải là người dễ dàng đón nhận niềm tin từ người khác truyền lại. Ông cũng sẽ được Chúa cho toại nguyện vì Chúa yêu thương ông, Chúa không vì sự cứng lòng tin nơi ông mà lãng quên ông. Lòng quảng đại của Chúa trải dài, để qua ông, nhiều người sẽ nhận ra mình thật có phúc, vì dù không thấy Chúa nhưng họ vẫn một lòng kính tin.

Các Tông đồ là những chứng nhân của Chúa Phục Sinh. Ngày hôm nay, chúng ta là những người môn đệ được thừa hưởng đức tin mà các Tông đồ truyền lại. Mỗi người tín hữu cũng sẽ được sống đức tin mỗi ngày, họ sẽ nói cho mọi người biết rằng: “Tôi đã thấy Chúa!” hay “Chúng tôi đã thấy Chúa!”. Điều này quả không phải là điều đơn giản. Các Tông đồ đã không thuyết phục được ông Tôma, có lẽ vì chính cuộc sống của họ chưa chứng tỏ được điều đó họăc vì Tôma chưa được thấy Chúa tận mắt. Chỉ khi Tôma được sống tương quan cá vị với Chúa, được đụng chạm đến Chúa của mình, ông mới reo lên: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20, 28). Có thể, chúng ta không thể thuyết phục người khác bằng chính lời nói của mình, nhưng chúng ta có thể dùng chính đời sống chứng tá của tình thương mà diễn tả niềm tin và niềm hạnh phúc của chúng ta. Tại sao ngay giữa những sóng gió của cuộc đời, người tín hữu vẫn bình an và dường như họ còn sống dồi dào hơn nữa? Bởi vì người Kitô hữu được sống trong bình an của Chúa, tình thương mà họ nhận được từ Chúa Phục Sinh không ngừng lan tỏa đến mọi người. Đó là một sự lôi cuốn và thu hút, dù âm thầm nhưng rất mạnh mẽ, nó sẽ làm cho nhiều người phải để tâm suy nghĩ. Ai cũng có quyền được trở nên người có phúc, được cảm nếm hạnh phúc có Chúa trong đời. Thế nhưng, trên thế giới vẫn còn rất nhiều người chưa có được hạnh phúc ấy. Đó cũng là trách nhiệm của mỗi người Kitô hữu chúng ta. Chính khi chúng ta không hết lòng sống đức tin, không để Chúa hiện diện trong tâm hồn mình, không đón lấy Thánh Thần của Thiên Chúa, mà chỉ say mê chạy theo thói đời, chúng ta làm cản trở ơn Chúa đến với anh chị em chúng ta. 

Cuộc sống vẫn luôn có những sóng gió và thử thách. Giữa những gian nan và bao nỗi sợ đang chi phối, chúng ta hãy cùng quây quần bên nhau để cầu nguyện. Chính Thánh Thần tình yêu sẽ đến xua tan bóng đêm của sự dữ, và bình an của Chúa Phục Sinh sẽ ngập tràn trong tâm hồn mỗi chúng ta.

Lạy Chúa Phục Sinh! Xin Chúa đến và diện diện trong tâm hồn chúng con, xin Ngài đến xua tan bao nỗi sợ hãi đang bủa vây giăng mắc và đóng kín tâm hồn chúng con. Xin Thánh Thần Chúa ban sức mạnh, tình yêu và sự khôn ngoan để giúp chúng con can đảm sống chứng tá cho Chúa giữa đời. Để khi cảm nhận được bàn tay Chúa đỡ nâng, được cảm nhận sự hiện diện của Chúa, chúng con cũng reo lên bằng cả đời sống của chúng con: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20,28). Amen. mục lục.

Bông hồng nhỏ

CHÚA PHỤC SINH VÀ CÁC NỖI ĐAU

Anh chị em thân mến,

Không ai hiểu trò bằng thầy, Đức Giê-su thấu hiểu lòng trí hoang mang và các nỗi sợ hãi của các môn đệ sau khi Người bị giết chết. Vì thế, trong hai lần hiện ra hôm nay việc đầu tiên Người làm là trao ban cho họ sự bình an. Sau đó Chúa cho họ thấy tay và cạnh sườn của Người. Đây là một điều thật đặc biệt, Chúa muốn cho các ông nhận ra rằng thân xác của Chúa Phục Sinh và con người đã trải qua khổ nạn, chết trên Thập Giá là một người. Khi thấy những chứng tích đó, các môn đệ đã vui mừng và tin rằng Người đang ở trước mặt họ là Đức Giê-su, vị Thầy đáng kính của họ. Sau đó, Chúa Giêsu một lần nữa lại ban bình an và Thánh Thần cho các ông để các ông ra đi hoàn thành sứ mạng mà chính Người vừa hoàn tất.

Trong lần hiện ra lần thứ nhất này không có mặt Tô-ma. Các môn đệ khác đã kể lại cho ông biết về việc này: “Chúng tôi đã được thấy Chúa”. Nhưng Tô-ma đã không tin vào lời loan báo của các bạn mình.

Thật ra, các bạn của ông cũng chẳng làm chứng được gì. Họ vẫn đóng kín vì sợ người Do Thái. Cho dù Thần khí đã đuợc trao ban, nhưng các bạn của Tô-ma vẫn chưa ra khỏi vùng an toàn, vẫn dựa vào các cánh cửa đã đuợc đóng kín để bảo vệ, chưa sẵn sàng để cho Thần khí thúc đẩy ra đi chu toàn sứ vụ nhân chứng. Trái lại, các ông vịn cớ là không biết đi đâu! Lời loan báo của họ không đi đôi với việc làm như thế thì làm sao các môn đệ có thể truyền lửa cho bạn mình là Tô-ma được.

Còn Tô-ma, ông muốn niềm tin của ông phải dựa trên kinh nghiệm của cá nhân. Ông muốn chạm vào thân thể của Chúa, nên đáp rằng: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.”

Thưa anh chị em,

Tám ngày sau, Chúa lại hiện ra với các ông, lần này có mặt Tô-ma. Trước tiên, Người cũng ban bình an cho các môn đệ rồi quay sang Tô-ma và nói: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” Tô-ma đã đáp trả bằng một niềm xác tín thật cao độ rằng Người là CHÚA và là THIÊN CHÚA của ông.

Sau đó qua Tô-ma, Chúa đã thể hiện tình thương của Người dành cho chúng ta bằng cách trao ban cho chúng ta thêm mối phúc nữa là “Phúc thay những người không thấy mà tin.”

Trước khi xem xét cách biểu lộ niềm tin của Tô-ma, chúng ta cũng nên nhìn nhận rằng ông không phải là trung tâm của bài Tin Mừng. Trình thuật diễn tả cách thức Chúa hiện ra thì Chúa phải là trọng tâm. Khi nhìn như thế, chúng ta mới khám phá ra lòng đại lượng phát sinh từ tình yêu của Chúa. Chúng ta vẫn thường đuợc dậy bảo niềm tin vào Chúa phải là một niềm tin vô điều kiện, phó thác hoàn toàn theo Chúa. Nhưng hôm nay, Chúa hành xử với Tô-ma quả thật khác hẳn với lối suy nghĩ cầu toàn của chúng ta. Chúa chấp nhận điều kiện mà Tô-ma đưa ra. Cho dù đã đuợc tôn vinh, nhưng Chúa vẫn không che dấu các thương tích. Đó chính là chứng tích của Tình yêu thì làm sao phải che dấu! Các vết thương đó cần đuợc bộc lộ hơn là che dấu.

Tô-ma cũng có nỗi đau của riêng mình. Ông cũng là nguời đang mang thương tích. Chúa Giê-su, Thầy đáng kính của ông đã chết. Cái chết của Người để lại trong ông một tâm trạng buồn rầu và mất mát. Biết trông cậy và nương tựa vào ai nữa đây! Ông đi trốn, cần có một không gian và nơi ẩn nấp để đối diện với niềm đau này. Vì thế ông đã hụt mất một cơ hội khi Chúa hiện ra lần trước.

Các bạn của ông cũng thế, họ cũng có niềm đau rồi sinh ra chán nản và thất vọng. Nhưng họ đã chọn cách đối diện với bi kịch mà họ đang đón nhận bằng cách liên đới, chia sẻ, an ủi và hỗ trợ nhau.

Nói chung là chỉ có ai đã kinh qua đau khổ mới thông cảm cho những người đồng cảnh ngộ. Chúa đã bị thương tích và Người cũng nhìn thấy các nỗi đau khổ mà Tô-ma đang đối diện; vì thế Người cũng muốn cho ông biết là Người rất thông cảm với yêu cầu của ông. Qua sự tiếp xúc, thầy trò gặp và nhận ra nhau. Chúa chữa lành thuơng tích cho Tô-ma. Còn ông nhận ra thầy mình là Chúa và là Thiên Chúa của ông. Ông đầu phục hoàn toàn trước quyền năng của thầy mình, Đấng mới bị giết và treo trên Thánh Giá mấy ngày qua. Còn chúng ta thì sao?

Anh chị em thân mến,

Phần chúng ta hãy nhớ rằng: Chúa Phục Sinh không xoá đi dấu vết của thập giá. Vết thương vẫn là vết thương. Thập giá vẫn còn đó nhưng nay mang một giá trị mới. Thập giá, án phạt dành cho tội nhân nay đã biến thành Thánh Giá, nguồn ơn cứu độ cho các kẻ tin. Đó không còn là án phạt mà là hồng ân. Vì thế, cho dù hiện nay thế giới của chúng ta vẫn chứa đầy những vết thương, cụ thể là các vết thương gây ra bởi chiến tranh bên Ukraine, bởi đại dịch Covid-19 và nhiều tai ương khác, đã giết đi bao nhiêu sinh mạng, khiến cho thân nhân của họ bị tan nát cõi lòng; chưa kể đến niềm đau thương còn kéo dài trên cuộc sống của những người thất nghiệp, các trẻ em mồ côi, không nơi nương tựa, v.v… Chiến tranh, hoạn nạn và các tai ương vẫn xẩy đến khiến cho thế giới bị đảo lộn, sinh mạng con người bị đe dọa. Con người chìm đắm trong đau khổ và không biết nương tựa vào đâu cả!

Trước hiện tình của thế giới đầy thương tích như thế, làm sao người tín hữu có thể nhắm mắt, làm ngơ trước những vết thương của tha nhân rồi tuyên xưng, “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Cho dù, họ có nói trăm lần, vạn lần thì lời tuyên xưng đó cũng chỉ là tuyên xưng bằng môi miệng. Con người cần chạm vào những vết thương của nhau, và đó là việc làm cần thiết cho một đức tin đúng theo tinh thần của bài Tin Mừng hôm nay.

Như vậy, khi đối diện với các thương tích, đau khổ đang hoành hành khiến chúng ta tuy còn hoang mang và lo sợ; nhưng niềm lo sợ đó không làm cho chúng ta quên đi ân huệ bình an mà Chúa dành cho những ai tin cậy ở nơi Người. Hơn bao giờ hết, chúng ta cần hãnh diện về niềm tín thác: đó là tuy sống giữa tâm bão của hoang mang và lo sợ, nhưng không ai trong chúng ta được phép đánh mất niềm hy vọng vì ‘bình an của Chúa ‘ vẫn đang ở cùng chúng ta.

Bình an là sứ mạng mà Đức Ki-tô Phục Sinh đã đem đến.

Bình an là hồng ân của Chúa Phục Sinh đã trao ban.

Ngay trong lúc này, chúng ta hãy ra đi mà an ủi và tạo cho nhau niềm hy vọng vào Chúa Phục Sinh, Đấng vẫn đồng hành và ban cho muôn dân muôn nước ơn bình an để đón nhận và vượt qua các nỗi thống khổ vẫn đang đè nặng và đe dọa cuộc sống của chúng ta.

Sau cùng, Đức Giê-su với các dấu đinh và các vết thương còn trên thân xác, đã chết thật. Nay Người đã sống lại thật rồi anh chị em ơi! Và bình an của Chúa Phục Sinh ở cùng chúng ta luôn mãi. Alleluia, Alleluia! mục lục.

Lm. Giuse Mai Văn Thịnh, DCCT

CHUYỆN THƯƠNG XÓT

Đức Chúa Thương Xót Luôn Thể Hiện
Tin Mừng Phục Sinh Mãi Loan Truyền.

Đức Mẹ Maria đã xưng tụng: “Chúa độ trì Israel, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Ápraham và cho con cháu đến muôn đời.” (Lc 1:54-55) Lòng thương xót của Thiên Chúa không bao giờ cạn, chuyện lòng thương xót kễ mãi cũng chẳng hết.

Trình thuật Ga 20:19-31 là sự kiện quen thuộc nói về tình trạng “cứng lòng tin” của tông đồ Tôma. Như trong một bộ phim hoặc cuốn truyện, nhân vật phản diện thường không được người ta có cảm tình, nhưng có lẽ chúng ta quên rằng nhân vật phản diện đó lại làm “nền” để nổi bật nhân vật chính diện. Thánh Tôma cũng là “đích nhắm” của chúng ta mỗi khi đề cập đức tin – nhất là trong Mùa Phục Sinh, cách riêng là Chúa Nhật II Phục Sinh.

Có lẽ ông Tôma là con người thực tế nên ông muốn cái gì cũng cụ thể, rõ ràng. Chúng ta “chê” ông cứng lòng, nhưng chính chúng ta cũng vẫn cứng lòng vậy, bằng chứng là chúng ta chưa tin vào Kinh Thánh và các chứng cớ của Giáo Hội, thế nên đức tin của chúng ta vẫn dễ bị “lung lay” mỗi khi gặp gian khổ, và rồi chúng ta vẫn chạy đua về các “sự lạ” ở chỗ này hoặc chỗ nọ vì tò mò hoặc hiếu kỳ hơn là vì đức tin. Vậy không là cứng lòng sao?

Thánh sử Gioan cho biết rằng vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, ngày Chúa Giêsu phục sinh, các môn đệ ở trong phòng đóng kín cửa vì họ sợ người Do Thái, trong “khoảng sợ hãi” đó có thể có phần họ sợ cũng bị lôi cổ ra hành hình nếu bị phát hiện. Ớn thật đấy! Nhưng bất ngờ Chúa đến giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!” Nói xong, Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn.

Các môn đệ vui mừng vì được gặp lại Thầy. Và Ngài nói với họ: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em.” Nói xong, Ngài thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ.” Thế nhưng chiều hôm đó không có mặt ông Tôma – Điđymô. Sau đó, các môn đệ khác nói với ông về việc thấy Chúa nhãn tiền, nhưng ông nói chắc nịch: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” Coi bộ “căng” thật!

Một tuần sau, các tông đồ lại quy tụ, lần này có cả ông Tôma. Các cửa cũng vẫn đóng kín mít. Thật kỳ lạ, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa và chúc bình an cho họ. Rồi Ngài bảo ông Tôma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” Ngại quá, ông chỉ còn biết sụp lạy và thưa: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Đó là một cách thú tội. Chúa Giêsu nói: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29)

Sau khi sống lại, hai lần đầu Ngài hiện ra đều vào “ngày thứ nhất trong tuần” và khi các tông đồ đang họp nhau. Điều đó cho thấy việc thờ phượng Chúa vào ngày Chúa Nhật là việc quan trọng trong đời sống tâm linh của các Kitô hữu, đó cũng là ngày nhận phúc lành bình an của Chúa Giêsu Phục Sinh. Thánh Gioan cho biết: Chúa Giêsu đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ, nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép lại. Còn những điều đã được chép ở đây là để người ta TIN rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để nhờ tin mà được sự sống nhờ danh Ngài. Thánh Giacôbê cũng có cách nói tương tự: “Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa và có Ngài làm chỗ nương thân.” (Gr 17:7)

Chúa Giêsu là Thiên Chúa tình yêu, Đấng giàu lòng thương xót, và đã yêu thương chúng ta đến cùng. (Ga 13:1) Chính vết thương nơi Thánh Tâm Ngài là ấn tín của tình yêu vô biên và vô điều kiện, là nơi tuôn trào Máu và Nước trường sinh, là Nguồn Mạch Lòng Thương Xót, chính Máu và Nước đó đã làm cho viên đội trưởng Longinô sáng mắt, [1] và rồi ông đã phải thú nhận ngay tại chân Thập Giá vào chiều Thứ Sáu Tuần Thánh: “Quả thật ông này là Con Thiên Chúa, là người công chính!” (Mt 27:59; Mc 15:39; Lc 23:47) Tin để được Thiên Chúa thương xót là hệ lụy liên kết chặt chẽ, không thể tách rời. Chúa Giêsu được Chúa Cha trao trọn quyền, và là độc đạo dẫn đến Chúa Cha, bởi vì Chúa Giêsu là con đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Ngài. (Ga 14:6)

Niềm vui Phục Sinh gợi nhớ lại lời Chúa Giêsu đã nói trước khi Ngài chịu chết: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga 14:1-3) Lời này là lực đẩy mạnh mẽ để tín nhân tiếp tục bước lữ hành trần gian cho đến cuối đời – lúc chúng ta được gặp và sống với Đức Kitô Phục Sinh vĩnh viễn.

Có nhiều mầu nhiệm, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa là một mầu nhiệm. Ngay trên đỉnh Canvê, Thập Giá đã nảy lộc, đơm hoa và kết trái. Chúa Giêsu đã chiến thắng tử thần khi Ngài phục sinh vinh hiển, ngôi mộ trống là chứng có hùng hồn đầy tính thuyết phục, mặc dù người ta đã hèn nhát hối lộ nhau để bóp méo sự thật: “Lính đã nhận tiền và làm theo lời họ dạy. Câu chuyện này được phổ biến giữa người Do Thái cho đến ngày nay.” (Mt 28:15)

Đại lễ kính Lòng Chúa Thương Xót được Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II thiết lập ngày 30-4-2000, ngày tuyên thánh Nữ tu Faustina Kowalska (1905-1938), vị tông đồ tiên khởi của LCTX. Tình Yêu Chúa, Thánh Tâm Chúa, và LCTX tuy ba mà một. Chính Chúa Giêsu đã mặc khải ước muốn của Ngài cho Thánh nữ Faustina: “Ta muốn một tấm hình được làm phép trọng thể vào Chúa Nhật sau Đại lễ Phục Sinh, và Ta muốn tấm hình đó được tôn kính công khai để mỗi linh hồn đều biết đến tấm hình đó.” (Nhật Ký, số 341) Ngài hứa: “Ta muốn ban ơn tha thứ hoàn toàn cho các linh hồn nào xưng tội và rước lễ trong ngày lễ kính Lòng Thương Xót của Ta.” (Nhật Ký, số 1109)

Ơn tha thứ hoàn toàn đó là Ơn Toàn Xá mà người trộm lành Dismas đã được nhận ngay trước khi Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng, lúc 3 giờ chiều ngày Thứ Sáu Tuần Thánh năm xưa trên đồi Golgotha. Cũng từ Giờ Cứu Độ đó, Nguồn Mạch Lòng Thương Xót của Thiên Chúa đã tuôn trào chan hòa mãi đến muôn đời cho mọi người, chỉ với một điều kiện đơn giản là thật lòng sám hối và tin tưởng vào Lòng Thương Xót vô biên của Thiên Chúa.

Đức tin vô cùng quan trọng, vì Thánh Phaolô xác định: “Người ta được nên công chính vì tin, chứ không phải vì làm những gì Luật dạy.” (Rm 3:28) Ngoài Tám Mối Phúc, còn có Mối Phúc đặc biệt liên quan đức tin, và có thể coi như “mối phúc thứ chín” do chính Chúa Giêsu xác nhận: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29) Chắc chắn rằng “bất kỳ ai tín thác vào Đức Kitô – Đấng làm người, tử nạn và phục sinh – sẽ không phải thất vọng.” (x. Rm 10:11; 1 Pr 2:16)

Đề cập vấn đề đức tin trong ngày lễ kính LCTX, xin được “mở ngoặc” nhỏ: Có những người Công giáo vẫn tin vào tử vi. Họ lý luận rằng đó là khoa học, không có tội. Cách biện hộ nguy hiểm quá! Nên biết rằng tử vi hoặc tử vi đẩu số” là hình thức bói toán để biết trước vận mệnh con người được xây dựng trên cơ sở triết lý Kinh Dịch với các thuyết âm dương, ngũ hành, can và chi,… [2] Người ta lập lá số tử vi với Thiên bàn, Địa bàn và các Cung sao – gọi là “chấm tử vi.” Căn cứ vào giờ, ngày, tháng, năm sinh theo âm lịch và giới tính để lý giải những diễn biến xảy ra trong đời người. Vậy không phải là dị đoan ư? Miệng nói tin Chúa mà lòng có tin? Chúng ta phó thác tương lai cho Chúa hay tử vi? Thảo nào Chúa Giêsu trách là “mồ mả tô vôi,” vì chỉ tin bằng môi miệng – nghĩa là giả hình y như Pharisêu vậy!

Người Việt so sánh: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn.” Cái “phẩm” quan trọng hơn cái “lượng.” Rễ càng sâu thì cây càng vững, loại cây nào có rễ ăn nổi thì dễ đổ khi gặp mưa gió. Vấn đề đức tin tương tự, nếu không có chiều sâu thì chỉ là đức tin trống rỗng, hào nhoáng bề ngoài mà thôi. Thực tế minh nhiên!

Nói về việc sống đức tin, Thánh Faustina cho biết: “Tôi đã thấy rõ thánh ý Chúa đang và sẽ được thực hiện đến từng chi tiết cuối cùng. Những nỗ lực điên cuồng của kẻ thù không thể cản trở chi tiết nhỏ nhặt nhất trong những điều Chúa đã tiền định. Chẳng hề gì nếu có những lần công cuộc dường như hoàn toàn bị tiêu tan; vì chính khi ấy, công cuộc lại càng được củng cố hơn nữa.” (Nhật Ký, số 1659) Thánh Vịnh gia luôn vững tin: “Dẫu cho hồn xác suy tàn thì nơi ẩn náu, kỷ phần lòng con, muôn đời là Chúa cao tôn.” (Tv 73:26) Chỉ người nào có đức tin son sắt như vậy mới có thể nói như Thánh Phaolô: “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta.” (Rm 8:39)

Tin vào Chúa là tin vào Tình Yêu của Ngài, là tín thác vào Lòng Thương Xót của Ngài. Trình thuật Cv 2:42-47 cho biết: “Ngày xưa, các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng. Mọi người đều kinh sợ, vì các Tông Đồ làm nhiều điềm thiêng dấu lạ. Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ.”

Đoạn văn ngắn gọn nhưng cho thấy rõ nét của một xã hội đại đồng, một cộng đoàn lý tưởng, luôn đầy ắp tình yêu thương, tình liên đới và sự hiệp nhất. Sống trong tình yêu thương như vậy là sống trong lòng thương xót, ai cũng thể hiện lòng thương xót với nhau ở mọi góc độ và mọi cấp độ, không chi li, không so đo, tính toán, không phe cánh, không vụ lợi, biết quên mình vì người khác,...

Những ai sống đúng lòng thương xót như vậy thì chắc chắn được Thiên Chúa cứu độ. Thiên Chúa trước sau như một, Ngài mãi mãi giàu lòng thương xót và bất biến: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.” (Tv 118:2-3) Thật vậy, Thiên Chúa muốn mọi người đều được hưởng Ơn Cứu Độ. Mỗi tín nhân đều có nhiệm vụ loan báo LCTX cho mọi người biết, và tuyên xưng: “Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi, chính Người cứu độ tôi.” (Tv 118:14)

Kỳ công của Thiên Chúa vô song. Chúa Giêsu là “tảng đá thợ xây nhà loại bỏ” nhưng lại “trở nên đá tảng góc tường.” (Tv 118:22) Vì thế, chúng ta hãy nhắc nhở nhau và đồng thanh: “Đây là ngày Chúa đã làm ra, nào ta hãy vui mừng hoan hỷ!” (Tv 118:24) Trong tâm tình hân hoan đó, Thánh Phêrô vui mừng nói: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Do lượng hải hà, Người cho chúng ta được tái sinh để nhận lãnh niềm hy vọng sống động, nhờ Đức Giêsu Kitô đã từ cõi chết sống lại, để được hưởng gia tài không thể hư hoại, không thể vẩn đục và tàn phai. Gia tài này dành ở trên trời cho anh em, là những người, nhờ lòng tin, được Thiên Chúa quyền năng gìn giữ, hầu được hưởng ơn cứu độ Người đã dành sẵn, và sẽ bày tỏ ra trong thời sau hết.” (1 Pr 1:3-5) Đó là lời chứng của người đã trải nghiệm các cung bậc sống, thực sự là lời chứng chính xác và đáng tin.

Thánh Phêrô nhắn nhủ thêm để động viên chúng ta: “Trong thời ấy, anh em sẽ được hân hoan vui mừng, mặc dầu còn phải ưu phiền ít lâu giữa trăm chiều thử thách. Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội, vàng là của phù vân mà còn phải chịu thử lửa. Nhờ thế, khi Đức Giêsu Kitô tỏ hiện, đức tin đã được tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem lại vinh quang, danh dự.” (1 Pr 1:6-7

Lửa thử vàng, gian nan thử sức. Qua gian khổ mà vẫn trung tín thì mới chứng tỏ đức tin sắt son, không nao núng trước mọi cám dỗ. “Không thấy mà tin” thực sự là một Mối Phúc. Tuy nhiên, miệng nói tín thác vào LCTX mà lại tin vào tử vi thì hoàn toàn bất xứng. Việc lặp đi lặp lại “lời tín thác” cũng chỉ như niệm thần chú, đọc như con vẹt, chứ trong lòng chưa thực sự tin tưởng thì vô ích mà thôi.

Thật vậy, Chúa Giêsu đã nói: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.” (Mt 7:21) Ngôn hành phải song song, không thể nói một đàng làm một nẻo. Thánh Phêrô cũng giải thích rạch ròi: “Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của đức tin, là ơn cứu độ con người.” (1 Pr 1:8-9)

Đức tin quan trọng, nhưng đức tin có những mức độ khác nhau ở mỗi người, đức tin càng sâu rộng càng có giá trị, và tất nhiên cũng cần trau giồi hằng ngày.

Lạy Thiên Chúa toàn năng, hằng hữu, chí thánh và giàu lòng thương xót, xin cho chúng con được sống dồi dào nhờ tín thác vào Con Một Ngài, Đấng chịu chết và phục sinh để cứu độ nhân loại. Xin giúp chúng con thể hiện lòng thương xót với mọi người trong cuộc sống đời này. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng yêu thương đến cùng và là Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen. mục lục.

Thomas Aq. Trầm Thiên Thu

[1] Đội trưởng Longinus (cổ ngữ Hy Lạp: Λογγῖνος, Longĩnos) kém thị lực, khi ông cầm ngọn giáo đâm vào Trái Tim Chúa Giêsu, Máu và Nước chảy theo ngọn giáo xuống tay, ông lấy tay dụi mắt và được sáng mắt, ông đã thật lòng tin Đức Kitô là Con Thiên Chúa và đã chịu tử đạo, lễ ngày 15-03.

[2] Tử vi là tên một loài hoa tím – TỬ là tím, VI là huyền diệu. Khoa Chiêm Tinh Tướng Mệnh Đông Phương dùng loại hoa tím này để chiêm bốc.

VẾT THƯƠNG CỦA ĐẤNG PHỤC SINH

Tin Mừng Thánh Gio-an (Ga 20,19-31) mô tả, Chúa Ki-tô Phục Sinh hiện ra tỏ cho các Tông Đồ, đặc biệt thánh Tô-ma đã tận mắt thấy những vết thương của đôi tay, chân và cạnh sườn Chúa bị đâm thâu qua. Đó là những vết thương hằn in trên cơ thể của Người lúc còn sống, ngay cả sau khi phục sinh.

Câu hỏi lớn được đặt ra: Tại sao Chúa Giê-su sống lại rồi mà trên thân thể vẫn con mang những vết thương?

Thưa: Hơn bao giờ hết, nhân loại đang cần Chúa bị đóng đinh và phục sinh mang những vết thương. Chỉ có một mình Chúa Giê-su Phục Sinh mang những vết thương mới có quyền nói với chúng ta về hòa bình. Những vết thương ấy là của chúng ta, vì tội lỗi chúng ta đã gây ra cho Chúa, và cả sự cứng lòng cũng như sự thù hận anh em của chúng ta. Những vết thương trên thân thể của Chúa Giê-su Phục Sinh là dấu chỉ của trận chiến mà Người đã chiến đấu và chiến thắng cho chúng ta, đã chiến thắng bằng vũ khí của tình yêu, để chúng ta có được hòa bình và sống trong bình an.

Vết thương mang lại bình an

Tin Mừng mô tả: Khi các môn đệ đang khóa mình sau những cánh cửa đóng kín, đầy sợ hãi, đau khổ. Bỗng Chúa Giê-su hiện ra đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho các con!” (Ga 20,19-21). Chúng ta tự hỏi: Các môn đệ Chúa Giê-su đang cần gì? Thế giới đang cần gì? Nước Việt nam cần gì? Bản thân chúng ta cần gì? Thưa: Bình an!

“Bình an cho các con!” (Ga 20,19-21). Ðây không phải là một lời chào, cũng không phải là một lời cầu chúc đơn sơ, nhưng là ơn quí trọng Chúa Ki-tô Phục Sinh cống hiến cho các mộn đệ sau khi đã trải qua cái chết thương đau.

“Bình an cho các con!” (Ga 20,19-21). Đây là hồng ân phát sinh từ những vết thương vinh quang, mà Tô-ma đã tận mắt chứng kiến tám ngày sau. Thật không thể nào hiểu nổi và tin được lòng thương xót của Thiên Chúa. Người trao ban bình an cho các môn đệ như lời Người đã hứa: “Thầy ban bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con không như kiểu thế gian ban” (Ga 14,27). Bình an này là chiến thắng của Chúa Ki-tô Phục Sinh, hoa trái tình yêu của Thiên Chúa trên sự dữ và tha thứ. Các môn đệ hết sức vui mừng khi Chúa trao ban bình an. Sợ hãi cũng biến mất nơi các ông.

Hơn một năm qua, trên các phương tiện truyền thông báo chí, chúng ta vẫn nghe chiến tranh tại Ucraina. Vậy nhân loại cần gì? Thưa: Bình an, chỉ có Chúa Ki-tô Phục Sinh mới cứu con người khỏi chiến tranh và ban bình an cho thế giới. Nhân loại nói chung và mỗi người chúng ta nói riêng đều cần bình an. Nếu con người biết yêu thương nhau, thì con người mới xứng đáng lãnh được bình an của Chúa Ki-tô, và chiến tranh mới lui dần. Con người càng thương xót nhau, càng yêu thương nhau, thì chiến tranh càng bị đẩy lùi. Vì vậy chúng ta phải thành thật nhận lỗi của mình thì chúng ta mới có thể xây dựng một thế giới hòa bình. Chúng ta hãy xin với Chúa Giê-su Phục Sinh xót thương và ban bình an cho thế giới.

Vết thương của sự tha thứ

Chúa đưa đôi tay và cạnh sườn còn in những dấu tích của cuộc thương khó và nói với các ông: “Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại” (Ga 20, 21- 23). Chúa Giê-su trao phó cho các ông hồng ân “tha thứ các tội lỗi” diễn tả lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa đối với nhân loại, hồng ân này phát sinh từ những vết thương của đôi tay, đôi chân và nhất là của cạnh sườn Chúa bị đâm thâu qua. Từ đó, một làn sóng tình thương nhân từ và tha thứ đổ xuống trên toàn thế giới, hòa giải tất cả và tái tạo tâm hồn, mang lại cho thế giới niềm hy vọng. Cử chỉ trao ban bình an của Chúa cho các môn đệ, biến các ông từ những người đang lo sợ và kinh ngạc, trở nên những được thứ tha và thành thừa tác viên của Bí tích Hòa giải.

Từ sợ hãi đến niềm vui

“Những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do thái” (Ga 20,19). Không phải sợ. Hầu như sợ hãi là không thể nhưng chúng tồn tại và có thật. Sợ hãi làm cho cửa lòng mình đóng lại với người khác. Sau khi Chúa chết, nhà các môn đệ giống như ngôi mộ, họ sống với sự sợ hãi, sợ chết. Chúa Giê-su không còn ở trong Mộ, bởi vì Người không thể nào là người tù của sự chết (x. Cv 2,24) và ngôi mộ không thể nào giữ lại “Đấng hằng sống“ (Kh 1,8), Đấng là chính nguồn mạch của sự sống đã kết thúc cuộc hành trình nơi ngôi mộ như mọi người, nhưng Người đã chiến thắng sự chết, sống lại ra khỏi mồ. Cái chết đã bị đánh bại: vậy thì còn gì phải sợ? “Họ vui mừng khi thấy Chúa” : các môn đệ từ sợ hãi đến vui mừng.

Chúa vui, các môn đệ vui, niềm vui của tình Thầy trò bén dễ sâu trong tình yêu. Niềm vui này không tách rời khỏi Thập Giá, nhưng trong khả năng của mình, con người có thể hiểu được Thập Giá và thảm kịch của con người. Bình an và niềm vui là những “món quà” của Chúa Ki-tô, đồng thời “dấu chỉ” để nhận biết Người. Sự bình an và niềm vui nảy nở trong tự do và hy sinh.

Lạy Mẹ Ma-ri-a, Mẹ của lòng nhân từ và hay thương xót, xin giúp chúng con là con cái Mẹ duy trì lòng tin vào Con Mẹ, Đấng cứu chuộc chúng con. Amen. mục lục.

Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

PHÚC CHO AI KHÔNG THẤY MÀ TIN

Trong “Tám Mối Phúc Thật” không có mối “phúc cho ai không thấy mà tin”, nhưng “Phúc cho ai không thấy mà tin” lại là mối phúc nền tảng của tất cả các mối phúc khác.

Thực vậy, phải được phúc “không thấy mà tin” mới tin được Nước Trời của người có tâm hồn nghèo khó, Đất Hứa dành cho ai ăn ở hiền lành, người sầu khổ sẽ được Thiên Chúa ủi an, khao khát sống đời công chính sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng, có lòng thương xót sẽ được Thiên Chúa xót thương, có tâm hồn trong sạch sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa, yêu chuộng và xây dựng hoà bình sẽ được Thiên Chúa gọi là con, và những ai bị bách hại, vu khống vì Danh Thiên Chúa sẽ nhận phần thưởng Nước Trời (x. Mt 5,3-12), bởi tất cả những điều vừa kể, những phần thưởng vừa kê đều thuộc đức tin, nằm trong những gì không thấy, không kiểm chứng được bằng khoa học thực nghiệm, mà chỉ duy nhất niềm tin mới có thể lý giải, chứng thực, bảo đảm.

Phải được phúc “không thấy mà tin”, chúng ta mới dám dấn thân tin Đức Giêsu là Thiên Chúa làm người, Đấng Cứu Độ duy nhất, vì không như các tông đồ, chúng ta đã không thấy Ngài, không nghe Ngài nói, không sống với Ngài bằng xương bằng thịt. Nhưng dù không thấy, không nghe, không ở cùng, sống với, chúng ta vẫn yêu mến Ngài, nhờ hồng phúc “không thấy mà tin”.

Phải được phúc “không thấy mà tin”, chúng ta mới tin Đức Giêsu đã chết và đã sống lại với quyền năng của Thiên Chúa, để chúng ta được sống lại và sống mãi với Ngài trong vinh quang của Thiên Chúa.

Và trên tất cả, phải có phúc “không thấy mà tin”, chúng ta mới tin Thiên Chúa là Thiên Chúa của lòng thương xót, công trình cứu chuộc của Ngài đến từ lòng thương xót của Ngài đối với nhân loại, và những ai có lòng thương xót dù chịu nhiều vất vả, thiệt thòi, bất công, khổ nhục vì thương xót sẽ không bao giờ mất ơn Bình An của Đức Giêsu phục sinh, Đấng giầu lòng thương xót đã chết vì xót thương.

Điều này được Tin Mừng Gioan khẳng định qua trình thuật Đức Giêsu phục sinh hiện ra với các môn đệ (Ga 20,19-29).

Đức Giêsu phục sinh đã hiện ra với các môn đệ khi các ông sợ người Do Thái truy lùng, bắt bớ, nên tất cả cửa nẻo nơi các ông ở đều đóng kín, khóa chặt (x. Ga 20,19). Các ông đang rất sợ: sợ mọi người, sợ bất cứ chuyện gì, vì các ông vừa qua một cơn giông bão dữ dội, khủng khiếp, ở đó toàn bộ giáo lý của lòng thương xót đã bị xóa bỏ, toàn bộ công cuộc của lòng thương xót đã bị phá hủy, tiêu tan, và Đức Giêsu, Thầy của các ông, Thiên Chúa của lòng thương xót đã bị giết chết thảm thương, ô nhục. Bao nhiêu cố gắng rao giảng lòng thương xót, bao nhiêu phép lạ làm chứng Thiên Chúa là Đấng xót thương, bao nhiêu con người đã được lòng thương xót chở che, chữa lành, ủi an, nâng đỡ nay không còn gì, không còn một ai. Chính cái trống vắng phũ phàng, phản bội của đám đông hôm nào hoan hô, ủng hộ đã làm các ông sợ ; chính cái tiêu điều trở mặt của nhiều người đã nhận lòng thương xót từ bàn tay Đức Giêsu đã làm các ông ngao ngán tình đời, và muốn tránh xa mọi người; chính cái băng giá dửng dưng, hờ hững, làm mặt không quen, ra điều không biết của những người  trước đây đã  phủ phê hạnh phúc với lòng thương xót của Đức Giêsu đã khiến các ông rùng mình, không còn muốn giao lưu, gặp gỡ người nào.

Tóm lại, các ông đang sợ, và rất sợ con người, những con người trước đây các ông đã học với Thầy Giêsu để biết cảm thương, chạnh lòng, giúp đỡ; những con người mà Thầy các ông không ngừng nhắc bảo phải thương yêu,tha thứ, và cầu nguyện, dù họ không tốt, không tử tế, không dễ thương, không công chính.

Khi còn ở với Thầy, các môn đệ không thấy lòng thương xót là một mạo hiểm, một thách đố, một đe dọa. Các ông chỉ thấy khi Thầy chết, và khi mặt thật gian ác, đểu cáng, phản bội, hai hàng của nhiều người lộ nguyên hình. Lúc đó các ông mới thấy lòng thương xót là một thử thách đầy nguy hiểm: nguy hiểm vì có thể chết vì xót thương ; nguy hiểm vì bị hiểu lầm, chụp mũ, vu khống vì thương xót; nguy hiểm vì thương xót thường mang đến bất lợi, tai ương, phiền phức cho người hay chạnh lòng xót thương.

Vì thế, cái sợ đang làm các ông run rẩy tái xanh mặt, cái sợ đang làm các ông rùng mình, rởn tóc gáy chính là “sợ thương xót”. Sợ phải thương xót như Thầy dặn dò, truyền dậy, nên các ông tự đóng chặt cửa lòng, như đóng chặt cửa phòng, để không phải thương xót ai, khép kín tâm hồn, khoá kỹ trái tim để không ai lọt vào lòng thương xót.

Hơn ai hết, trong lúc này, lúc mà Thầy bị kết án tử hình, chết đóng đinh, và chôn kín trong mồ; lúc mà không còn dám tin ai, vì chung quanh toàn những khuôn mặt đe dọa, những ánh mắt  mang “hình viên đạn” rình rập, dò xét, các môn đệ của Đức Giêsu thấm thía thân phận bèo bọt của người có lòng thương xót, và số phận hẩm hiu của những người có trái tim hay chạnh lòng xót thương, mà điển hình và nổi bật nhất chính là Đức Giêsu, Thầy các ông.

Nhưng hôm nay, trong lúc cửa nhà các ông đóng kín, cửa lòng các ông khép chặt, và tâm hồn các ông tan hoang, chán nản thì Đức Giêsu phục sinh hiện đến giữa các ông với ơn Bình An của Ngài. Kèm theo lời chúc “Bình An cho anh em!” (Ga 20,19), Đức Giêsu trấn an các ông, bằng chỉ cho các ông các vết thương trên thân xác Ngài, như dấu chứng của tình yêu thương xót vô bờ bến.

Khi cho các ông xem các dấu đinh và vết thương sâu hoắm của lưỡi đòng đâm thâu cạnh sườn, Đức Giêsu không khoe khoang thành tích chịu đau khổ, cũng không có ý cường điệu mức độ bi hùng của cuộc khổ nạn Ngài vừa trải qua, nhưng chỉ muốn các ông nhận diện một cách sống động qua thương tích thập giá trên mình Ngài lòng thương xót của Thiên Chúa, để các ông hiểu rằng: không lòng thương xót sẽ không có Thánh Giá, không Thánh Giá sẽ không có ơn cứu độ, và không ơn cứu độ, không con người nào được sống đời đời trong bình an của Thiên Chúa.

Như thế, lòng thương xót là nền tảng của giáo lý đức tin, là động cơ của mọi hoạt động tông đồ, là điều kiện để nhận được ơn Bình An, là đòi hỏi không thể miễn giảm của ơn gọi làm người Kitô hữu, bởi một lý do không cần biện minh, vì hiển nhiên: Thiên Chúa của Đức Giêsu là Thiên Chúa của Lòng Thương Xót.

Thực ra, khi Tôma từ chối lời chứng của các anh em: “Chúng tôi đã được thấy Chúa!”, và thẳng thừng thách thức: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20,25), ông đã không chỉ từ chối tin sự sống lại từ cõi chết của Đức Giêsu, mà sâu thẳm hơn, chính là từ chối tin Đức Giêsu là Thiên Chúa của lòng thương xót, vì  những ngày qua, ông đã tận mắt thấy sự sụp đổ  bẽ bàng của mọi công trình truyền giáo, cũng như cái chết tang thương của Đức Giêsu, và cho rằng: “kết qủa” cuối cùng là thất bại chua cay của lòng thương xót, sai lầm không thể cứu vãn của lòng thương xót, sụp đổ toàn bộ của lòng thương xót mà Đức Giêsu là người chủ trương, kêu gọi, loan truyền, làm chứng.

Đây cũng là lý do Đức Giêsu đã hiện ra với các môn đệ với thân xác còn nguyên các vết thương của Thánh Giá, như dấu ấn không bao giờ phai mờ của lòng thương xót. Cũng vậy, khi bảo Tôma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy” (Ga 20,27), Đức Giêsu muốn Tôma chạm vào chính lòng thương xót còn rướm máu của Ngài, sờ vào lòng thương xót còn bầm tím của Ngài, và “đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin” Thầy là Thiên Chúa của Lòng Thương Xót, tin lòng thương xót của Thầy mãi tồn tại bao la, quyền năng vô biên và trung tín đến cùng.

Vâng, cũng như các môn đệ, đặc biệt Tôma, niềm tin vào một Thiên Chúa của lòng thương xót ở chúng ta không ngừng bị thử thách, bởi tin một Thiên Chúa toàn năng, thông biết mọi sự, chí công vô tư, công bình thưởng phạt dễ hơn tin một Thiên Chúa nhân hậu, từ bi, bao dung, thương xót; tin một Thiên Chúa “dựng nên trời đất muôn vật hữu hình và vô hình” dễ hơn tin một Thiên Chúa làm “Chiên gánh tội, xoá tội trần gian”; tin một Thiên Chúa oai phong lẫm liệt, Chúa các đạo binh dễ hơn tin một Thiên Chúa khiêm hạ qùy xuống rửa chân cho các môn đệ, giao du thân mật với đám dân nghèo không nhà, và phường tội lỗi; tin một Thiên Chúa “phán một lời thì mọi sự liền đã” dễ hơn tin một Thiên Chúa khiêm nhường và hiền lành như con chiên để loài người đưa ra xử án, rồi bắt vác thập tự đến chỗ hành hình đóng đinh; tin một Thiên Chúa “phép tắc vô cùng” dễ hơn tin một Thiên Chúa bao dung, thương xót vô cùng; tin một Thiên Chúa ngự toà vinh quang có triều thần tung hô, thờ lậy dễ hơn tin một Thiên Chúa tự đồng hoá mình với người bé nhỏ nhất giữa những người bé nhỏ thiếu ăn, thiếu mặc, bệnh tật, tù đầy, bị truy nã, tỵ nạn, bị đàn áp bất công; tin một Thiên Chúa tự hữu và “hằng có đời đời” dễ hơn tin một Thiên Chúa tự nguyện đi vào khổ nạn và chịu chết như con người vì thương xót con người ; tin một Thiên Chúa chí thánh chí tôn dễ hơn tin một Thiên Chúa mồ hôi nhễ nhãi giữa trưa nắng bên bờ giếng Giacóp đắm thắm và ân cần lắng nghe tâm sự buồn của người đàn bà tình duyên truân chuyên, dang dở; tin một Thiên Chúa được mọi người chúc tụng, tôn vương trên đường vào thành thánh Giêrusalem dễ hơn tin một Thiên Chúa bị xỉ vả, hành hạ trên đường Thánh Giá  của lòng thương xót đi về Gôngôtha; tin một Thiên Chúa biến hình sáng láng và lên trời quang vinh dễ tin hơn một Thiên Chúa trở thành tử thi được tháo xuống khỏi Thánh Giá và an táng trong phần mộ của người khác, và tin một Thiên Chúa đã định nghiã tình yêu đích thực là “yêu cả kẻ thù và cầu nguyện cho người ngược đãi anh em” (Mt 5,44), và chỉ những người yêu  như thế mới đáng được gọi là con Thiên Chúa (x. Mt 5,45) thì qủa thực là một điều không dễ chút nào, nếu không nói là một thách đố vượt sức người có hạn.

Và như Tôma phủ phục thưa với Đức Giêsu: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20,28), sau khi ông hiểu ra: Đức Giêsu chính là Thiên Chúa của lòng thương xót, Thiên Chúa đang mang trên mình thương tích của lòng thương xót mà ông đã được sờ tận tay, thấy tận mắt, chúng ta cùng nài xin Chúa ban cho chúng ta đức tin để dám tin Đức Giêsu là Thiên Chúa của lòng thương xót, dám đón nhận và sống ơn gọi Kitô hữu là “nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48), bằng  thương xót như Chúa Cha là Đấng giầu lòng thương xót, bởi tin là tin Thiên Chúa của lòng thương xót, tin Thiên Chúa luôn rộng lượng xót thương, tin Thiên Chúa  xót thương  ai có lòng thương xót, tin duy nhất Lòng Thương Xót mới ban ơn Bình An, và chúng ta sẽ là những người được Thiên Chúa chúc phúc, vì  đã “không thấy mà tin”. mục lục.

Jorathe Nắng Tím

“ĐỂ ANH EM TIN MÀ ĐƯỢC SỰ SỐNG”

Một học giả vô thần nọ mua được một ngôi nhà bên cạnh một dòng Kín. Ông sung sướng tự nhủ: “Thế là thoát những tiếng ồn của nơi đô hội. Từ nay mình được yên tĩnh học hành nghiên cứu !” Nhưng rồi, vào những giờ nhất định sáng tối, ông lại nghe văng vẳng tiếng cầu kinh sốt sắng, thánh thót những bài thánh ca du dương trầm bổng. Trong ngày thì chốc chốc vang lên những tiếng cười giòn giã vọng lên từ bên kia bức tường cao ngất. Tiếng cười trong trẻo, hồn nhiên, vui tươi.

Vị học giả của chúng ta rất lấy làm lạ. Từ nỗi ngạc nhiên đi đến ghen tức, vì bản thân ông chẳng bao giờ có được niềm vui như thế, một hôm ông quyết tìm cho ra lẽ và sang gặp mẹ bề trên :

- Thưa bà, theo như tôi biết, ở đây bà và chị em không hề tiếp xúc với ai, chịu một sự cô đơn tập thể, cuộc sống chẳng có gì sang giàu, những phương tiện vui chơi giải trí vắng bóng, lại giam thân ở đây cho đến cuối đời. Vậy tại sao bà và chị em có thể vui tươi như thế ?

- Thưa ông, vì có Chúa Ki-tô đang ở với chúng tôi.

- Chúa Ki-tô chết cách đây hai ngàn năm rồi mà !

- Nhưng Người đã sống lại, và chúng tôi sống để làm chứng cho niềm tin Phục sinh đó.

1. Đấng Vĩnh cửu mặc lấy sự sống con người...

Các nữ tu dòng Kín trong câu chuyện trên đây muốn chứng minh cho câu kết luận thời danh và tuyệt vời của Tin Mừng thứ bốn : “Những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để nhờ tin mà được sự sống nhờ danh Người”. Cuốn Tin Mừng đó đã khai mở : “Ngôi Lời là Thiên Chúa”. Và nay kết thúc : “Đức Giê-su là Con Thiên Chúa”. Các nhà chuyên môn gọi đó là một “kiểu đóng khung”. Tất cả Tin Mừng được gói trọn, đóng khung, trong hai khẳng định đầu và cuối ấy.

Đó không phải là một lối chơi văn, chơi chữ. Việc nhấn mạnh ở khởi điểm và đích điểm của lộ trình Tin Mừng như thế muốn cho chúng ta hiểu rằng đây chẳng phải là một tiểu sử của Đức Giê-su, lại càng không phải là một tuyển tập các tư tưởng đẹp hay một thủ bản luân lý đạo đức. Tin Mừng là một cuốn sách gây sốc, hoàn toàn được viết để chúng ta lãnh ngay vào giữa ngực một mạc khải gây kinh ngạc : “Tôi sắp nói với anh em về một con người tên Giê-su đã sống cách đây hai ngàn năm tại Ga-li-lê. Con người ấy chính là Con Thiên Chúa”.

Bằng mọi phương cách trình bày có thể : những cái nhìn của thiên hạ, những lời nói và phép lạ của Đức Giê-su, những dụ ngôn và biểu tượng, những khẳng định ám tàng hay trực tiếp, các trang Tin Mừng nói đi nói lại không mệt mỏi : “Con người ấy chính là Thiên Chúa”. Một điều được các môn đồ hoàn toàn xác tín sau ngày Đức Giê-su sống lại và được Tô-ma tuyên xưng trên môi miệng trong bài Tin Mừng hôm nay. [*]

Câu cuối ấn cái đinh sau cùng : “Bạn muốn biết tại sao cuốn sách này đã được viết không ? Đó là để bạn tin rằng Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, Con Thiên Chúa ở trong con người Đức Giê-su”. Tin điều đó chính là Ki-tô hữu. Có hàng tỷ người tin vào Thiên Chúa, nhưng chỉ các Ki-tô hữu mới thêm vào niềm tin đó một khẳng định mà Do-thái giáo lẫn Hồi giáo đều mạnh mẽ khước từ : Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần; và Ngôi Con đã nhập thể trong Đức Giê-su thành Na-da-rét. Những ai từng gần gũi Đức Giê-su trong ba năm đều nghi là có một cái gì đó, nhưng đã phải đợi cuộc Phục sinh để nhân danh tất cả, Tô-ma thốt lên tiếng kêu yêu mến và tôn thờ này : “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !”

2…. để con người nhận lấy sự sống của Đấng Vĩnh cửu.

“Để anh em tin mà được sự sống”. Sự sống nào khác nữa ? Những kẻ không tin vào thần tính của Đức Giê-su Ki-tô chẳng đang sống đó sao ? Thánh Gio-an đã luôn nói với chúng ta về sự sống đời đời. Từ ngữ hơi đánh lừa, khiến ta nghĩ tới một sự sống không chấm dứt. Đúng thế, nhưng thật chưa đủ để xem đó là sự sống nào. Đúng ra phải nghĩ tới một trong những tên của Thiên Chúa : Đấng Vĩnh cửu. Sự sống được ban tặng cho ta, đó là sự sống của Đấng Vĩnh cửu, chính sự sống của Thiên Chúa. Đức tin chúng ta đi tới chỗ đó cơ.

Nhưng sự sống khác ấy, được Gio-an gọi là sự sống đời đời, sự sống vĩnh cửu, làm thế nào biểu lộ thật cụ thể trong cuộc sống thường ngày của ta ? Về vấn đề này, ta có thể nhận thấy, nơi các tín hữu đích thực, một cách phán đoán nào đó về con người, hành vi, biến cố, phán đoán theo một ánh sáng khác hẳn. Người ta nói về họ: “Đức tin mạnh mẽ dường nào!”. Người ta cũng nhận thấy nơi họ một niềm hy vọng không gì có thể đánh đổ, một bình an và thậm chí một niềm vui chống lại được các lo lắng và buồn bã mà lẽ ra thường đè nặng trên họ. Các nữ tu dòng Kín trên đây là một ví dụ. Và rõ rệt nhất mà cũng thu hút nhất, đó là họ quan tâm đến người khác, sẵn sàng phục vụ, dấn thân, là yêu thương không bằng cửa miệng, có khi còn với cả lòng can đảm trong những xã hội áp bức con người, cản phá tự do và chà đạp công lý.

Đó là cái mà các thần học gọi là sự sống “đối thần”, nghĩa là một sự sống Thiên Chúa thông ban và thường xuyên nối kết chúng ta với Người dưới hình thức những kinh nghiệm đức tin, đức cậy và đức mến. Khi tôi kính tin, khi tôi hy vọng, khi tôi yêu mến, tôi sống sự sống “đời đời” như có thể sống được dưới trần gian.

Đó là cuộc sống “Ki-tô hữu” (có Đức Ki-tô, bạn Đức Ki-tô), cuộc sống “Ki-tô thuộc” (thuộc về Đức Ki-tô). Một cuộc sống khiến ta có thể nói : “Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô” (Pl 1,21). Khi rộng mở cuộc đời “bình thường” của chúng ta cho Chúa Giê-su Ki-tô, đức tin sẽ đem vào trong đó các tư tưởng của Chúa Giê-su Ki-tô, các phán đoán của Người, sức mạnh của Người, cách thức yêu thương của Người, tất cả những gì được Gio-an diễn tả qua chữ “như” thời danh của ông : sống như Đức Ki-tô (x. Ga 15,4.9.10; 17,16.18.21; 20,19; 1Ga 3,2.3.7).

Một Phanxicô thành Axidiô, ví dụ vậy, đã sống “như Đức Ki-tô” tới hết mức của một con người, và điều đó đúng với mọi vị thánh nhưng dưới những hình thức rất khác nhau, đến nỗi muốn bắt chước Chúa Ki-tô thì vô cùng vô tận. Dẫu không đạt tới các đỉnh cao ấy, lắm Ki-tô hữu vẫn sống một cuộc sống “đối thần”, một cuộc đời nỗ lực bắt chước Đức Giê-su Ki-tô.

Tin Mừng dĩ nhiên là trường học tốt nhất, với điều kiện phải phát triển một phản xạ chủ yếu : tất cả những gì chúng ta học trong đó về Đức Giê-su phải thúc đẩy chúng ta sống một cái gì đó với Người : “Tin Mừng, thánh Gio-an nói, đã được viết là để anh em tin mà được sống”. Tin chỉ tổ vô ích nếu điều đó không làm ta nhúc nhích động đậy. Cái rủi ro lớn nhất có thể xảy tới cho Tin Mừng là đã được đọc mà chẳng có gì thay đổi trong đời sống độc giả. Các suy niệm của chúng ta dọc theo bốn bản văn Tin Mừng đều muốn phát triển cái phản xạ tốt lành làm nên một Ki-tô hữu thực sự : đo được chính xác cái khoảng không quá lớn lao còn phân cách cuộc sống của chúng ta với những gì Đức Giê-su muốn thấy chúng ta sống.

Đi đến gặp gỡ Tin Mừng chính là đã nghe câu mắng yêu sau đây rồi: “Tin vào Ta có ích gì cho con nếu con chẳng làm những gì Ta đòi hỏi? Con có muốn sống điều đó hay không? Có muốn sống không?”. Ai thấy rằng bị thúc bách như thế là điều tuyệt diệu, người đó đã hiểu tại sao Mát-thêu, Mác-cô, Lu-ca và Gio-an đã viết Tin Mừng của mình : đây không phải là một cuốn sách, mà là chính Đức Giê-su. mục lục.

Lm. Phêrô Phan Văn Lợi

[*] Về ý nghĩa lời tuyên xưng của Tô-ma và câu tuyên phán của Đức Giê-su, kính mời đọc bài “Biết nhờ tin nhân chứng” của cùng tác giả trên https://hdgmvietnam.com

Tôma, người môn đệ đầy yêu thương và can đảm, nhưng có tính cách bi quan và đa nghi, Tôma đã không có mặt khi Chúa Phục Sinh hiện ra với các môn đệ khác trên nhà tiệc ly: “Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tôma, cũng gọi là Điđymô, không ở với các ông khi Chúa Giêsu đến” (Ga 20:24). Ông sẽ không tin vào chuyện Thầy Giêsu đã trỗi dậy, ra khỏi mộ và vẫn đang sống nếu ông không thể đặt ngón tay của mình vào dấu đinh và bàn tay của mình vào cạnh sườn bị đâm: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Ngài, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Ngài, tôi chẳng có tin” (Ga 20: 25).  Những điều ít ỏi mà chúng ta biết về Tôma mô tả ông là một người hay nghi ngờ, u sầu, một kẻ chủ bại. Khi Chúa Giêsu báo tin cho các môn đồ về cái chết của Ladarô, Tôma kêu lên: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy!” (Ga 11:16). Nói cách khác, khi cuộc sống không còn hy vọng gì nữa, thì chuyện gì đến thì cứ để nó đến! Khi Chúa Giêsu từ giã các môn đệ và nói với họ: “Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi” (Ga 14: 4), Tôma không ngại ngùng đáp ngay: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?” (Ga 14,5).

Trong bóng tối bao trùm nơi Núi Sọ, đức tin của ông đã ra tối tăm. Bất chấp những lời cảnh báo, ông chưa bao giờ hình dung ra cái chết của Chúa Giêsu lại như thế này. Trên đỉnh điểm của sự ô nhục, Thầy của ông đã để mình bị dắt đi với sự thụ động của một con cừu không có sức mạnh; và suy nghĩ này khiến ông đau khổ hơn cả sự mất mát người mình yêu thương. Việc đổ vỡ mọi hy vọng này đã khiến ông bị xúc phạm giống như ông phát hiện ra mình bị lừa bịp và sự tiêu tan này để lại trong ông cả một cảm giác bị bỏ rơi trong sỉ nhục.

Niềm tin đã phản bội ông, khiến ông giận điên lên. Trong hành trình theo Chúa Giêsu, ngay khi các hành động phi thường của Ngài được biểu lộ, tâm hồn ông như được thắp sáng mỗi ngày. Ông tin vào những điều kỳ diệu bởi Lời và Hành động quyền năng của Vị Thầy. Nhưng bây giờ, thật thất vọng và não nề, sau vụ tai tiếng chấn động ở đồi Canvê, ông không còn muốn tin vào điều lạ kỳ nào nữa, tỉ như… những lời đồn đại về sự sống lại của Vị Thầy mấy ngày nay. Dường như bị xâu xé và vùi dập dưới những thực tế phũ phàng, là những biến cố vừa xảy ra tại Giêrusalem, vốn không mang một chút dáng vẻ quyền năng nào của Thầy Giêsu, tâm hồn ông bị lụi tàn, đóng băng và trở lại với bản chất tự nhiên của nó: tìm kiếm những điều có thể cảm nhận được bằng các giác quan; những gì vật chất cụ thể; Tôma mong đợi những điều an ủi mà ông cảm nhận chắc chắn qua giác quan mà thôi. Đôi mắt của ông từ chối chấp nhận những gì tay ông không thể chạm vào, những thứ vô hình. 

Vào buổi tối lễ Phục sinh, đầy hoài nghi và chán nản, ông vắng mặt trong căn phòng trên lầu, nơi mười người khác đang tụ tập. Và khi các bạn đồng môn nói cho ông nghe về sự phục sinh của Chúa, ông tuyên bố: “Tôi chẳng có tin” (Ga 20: 25). Sự nghi ngờ đã bén rễ trong ông đến nỗi ông trở nên cứng lòng.

Tuần sau, vào “ngày thứ nhất trong tuần”, Chúa Giêsu lại hiện đến giữa các môn đệ của Ngài, cũng là cho chính Tôma, ở cùng một nơi và trong cùng một hoàn cảnh mầu nhiệm. Chúa Giêsu, tuần trước đây đã không muốn để Maria Mađalêna chạm vào mình, thì hôm nay đề nghị Tôma chạm vào vết thương trên tay của Ngài đúng như những điều mà Tôma, người môn đệ hoài nghi, đã yêu cầu. Chúa tuôn đổ tràn đầy lòng thương xót trên người môn đệ cứng lòng này. Chúa Giêsu, vẫn như trước đây, luôn luôn đi bước trước, tìm gặp những tâm hồn khốn khổ đang cần đến Ngài, ngay cả họ chưa từng kêu xin đến Ngài.

Phản ứng đầu tiên của Tôma là sợ hãi, nhưng đó là một nỗi sợ cứu độ. Đấng khiến ông kinh ngạc trong sự nghi ngờ của mình chính là Vị Thầy. Ngài mở lòng bàn tay ra cho ông thấy những vết thương của Ngài, là dấu hiệu của lòng thương xót chứ không phải bàn tay khép lại của Ngài.

Tôma cuối cùng đã bị thuyết phục: Chúa Kitô không chỉ biết những gì ông đã nghĩ và nói, mà giờ đây, Vị Thầy của ông đang ở đó, trước mặt ông, chiến thắng cái chết và mang trong thân thể vinh quang của Ngài những dấu vết của nhục hình.

Bấy giờ, từ môi miệng của Tôma, khi phủ phục dưới chân Chúa Giêsu, vang lên một tiếng tôn thờ, lời tuyên xưng đức tin trọn vẹn và riêng tư nhất trong toàn bộ Tin Mừng: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con! (Ga 20,28). Người hoài nghi, cuối cùng đã bị thuyết phục mãi mãi, vui mừng khám phá ra vẻ huy hoàng thánh thiêng của Vị Thầy chiến thắng của mình.

Còn lời tuyên xưng nào trong Kinh thánh của chúng ta về Chúa Giêsu rõ ràng hơn, sâu sắc hơn lời này không? Từ đó, con người Tông đồ Tôma và hành trình đức tin của ngài luôn làm say mê tín hữu của các cộng đoàn Giáo Hội Sơ Khai, từ Ai Cập, Syria cho đến Ấn Độ. Sự thiếu đức tin của Tôma là bài học cho tất cả các Kitô hữu sau này, những người chưa nhìn thấy Chúa Giêsu nhưng vẫn tin vào Ngài và sự phục sinh của Ngài. Tôma vẫn là một gương mẫu để suy niệm khi chúng ta cố gắng suy tư về mối tương quan giữa lý trí và đức tin vào sự Phục sinh của Chúa Kitô, về con người lý trí có thể tin nhận sự Phục sinh của Chúa Kitô như thế nào. 

Chính Tin Mừng của Gioan vén nhẹ góc màn cho chúng ta biết điều này. Ở ba nơi, ba thời điểm trong cuộc đời của Vị Thầy, khi đối mặt với mầu nhiệm của sự sống và cái chết, thì Tôma xuất hiện. Ông muốn biết Chúa Giêsu là ai, để hướng toàn bộ con người mình về phía Ngài và biết con đường của cuộc sống: Ngài sẽ đi đâu? Làm thế nào để đến với Ngài?

Tôma xuất hiện lần đầu tiên khi Chúa Giêsu quyết định đến làng Bêtania, sau cái chết của Ladarô: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy!” (Ga 11:16). Tôma có linh cảm rằng biến cố sắp đến sẽ khiến Chúa Giêsu phải chết. Ông động viên các bạn đồng môn chết với Thầy! Tôma đánh liều muốn đi con đường của Chúa Giêsu bằng sức riêng mình.

Sau đó, vào giây phút của bữa ăn cuối cùng mà Chúa Giêsu chia sẻ với các môn đệ, Vị Thầy loan báo rằng Ngài sẽ chuẩn bị chỗ ở, nơi ở của mỗi người trong số họ, để Ngài sẽ trở lại và đem họ theo với Ngài: “Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi. Ông Tôma nói với Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?” (Ga 14, 4-5). Tôma như muốn đi đến nơi mà Chúa Giêsu đang chuẩn bị cho các môn đệ của Ngài bằng sức mạnh của riêng ông! Đó cũng là kinh nghiệm của mỗi Kitô hữu chúng ta trên hành trình đức tin không? Con người liệu có thể đi đến nơi mà Thiên Chúa muốn họ đến, bằng con đường riêng của mình không? Tôma, và mỗi người chúng ta, có nghe thấy Chúa Giêsu nói rõ “Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy” không? (Ga 14:3). Chính Chúa Giêsu, chứ không phải chúng ta, đến và đem chúng ta về nơi Ngài muốn.

Cuối cùng, trong bài Tin Mừng của chúng ta hôm nay, Tôma tiến về phía Chúa Giêsu để xác minh mầu nhiệm sự sống và sự chết, bằng mắt thấy, bằng tay sờ nắn. Giống như con người xa xưa, như Ađam – Eva đầu tiên của thế giới xa xưa muốn chiếm hữu Cây Biết Lành Biết Dữ, làm bá chủ vạn vật bằng tri thức của riêng mình, Tôma chỉ tin vào những gì nằm trong khả năng tri thức thực nghiệm của mình. Nhưng chính Chúa Kitô phục sinh đã biến đổi trí hiểu và cõi lòng của Tôma. Trên thực tế, chính Chúa Kitô đến với ông, mời ông đặt những ngón tay của mình vào những dấu thánh, những lỗ đinh, những khoảng trống không, của Thân thể bị hành hạ vào ngày thứ Sáu Tuần thánh. Chính Thần khí nơi Thân thể đã được “thần hóa” của Đấng Phục sinh, mà chúng ta cần phải mong muốn “đụng chạm, tiếp xúc”, mới giúp cho không chỉ tri thức mà cả cõi lòng chúng ta nhận ra giới hạn của chúng để “vượt qua” cái tiêu chuẩn “duy nghiệm” và thực hiện một “bước nhảy siêu việt” vào quyền lực vô hạn của Đấng Phục sinh vinh quang: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20: 22). Chỉ khi đó những hành động đức tin đích thực của chúng ta mới có thể khởi phát.

Trái ngược với những gì chúng ta thường nghĩ, chính niềm tin vào Sự Phục Sinh và sự gặp gỡ Chúa Giêsu sống động đi trước hiểu biết chứ không phải điều ngược lại. Chúng ta luôn nói rằng chính hiểu biết giúp tăng trưởng đức tin vào Sự Phục Sinh, thực ra chính sự gặp gỡ Đấng Phục Sinh dẫn đưa đến đức tin. Chính vì được gặp Chúa Kitô Phục Sinh mà đức tin của Tôma đã được củng cố: “Rồi Ngài bảo ông Tôma: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” Ông Tôma thưa Ngài: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20: 27-28).

Trải nghiệm của Tôma là một hành trình tri thức dài để chạm tới mầu nhiệm sự sống và cái chết. Giống như Ađam - Eva, giống như kinh nghiệm của Tôma, phần nào đó luôn là kinh nghiệm của chúng ta, chúng ta muốn biết rõ về Sự sống và Cái chết, về Thiện và Ác. Giờ đây chính Chúa Kitô, Cây Biết Lành Biết Dữ, cũng là cây ban Sự Sống Mới, vươn cành về phía chúng ta để đón nhận chúng ta về với chính Ngài. Chính Ngài cho con người thấy những ngón tay của họ không nắm giữ lại được điều gì ngoại trừ sự trống rỗng của đau khổ và chết chóc của thế giới cũ; và như vào Ngày đầu tiên tạo thành thế giới, Ngài nói với chúng ta, thổi hơi vào chúng ta, tái tạo con người chúng ta: “Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở,các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái. Chúa Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói:“Bình an cho anh em!” Nói xong, Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Ngài lại nói với các ông: "Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em." Nói xong, Ngài thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20: 19-22).

Tất cả những lần hiện ra của Đấng Phục sinh, đối với Tôma, đối với các môn đệ Emmau, đối với Maria Magdala, đều là những biến cố thuộc về một trật tự mới. Chính Chúa Kitô Phục Sinh là Đấng đi tìm và tìm thấy từng người chúng ta, dẫn đến niềm hy vọng sống động là gia tài trên trời không thể hư hoại, không thể vẩn đục tàn phai: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Do lượng hải hà, Ngài cho chúng ta được tái sinh để nhận lãnh niềm hy vọng sống động, nhờ Chúa Giêsu Kitô đã từ cõi chết sống lại, để được hưởng gia tài không thể hư hoại, không thể vẩn đục và tàn phai. Gia tài này dành ở trên trời cho anh em, là những người, nhờ lòng tin, được Thiên Chúa quyền năng gìn giữ, hầu được hưởng ơn cứu độ Ngài đã dành sẵn, và sẽ bày tỏ ra trong thời sau hết” (1 Pr 1:3-5), là mối phúc tuyệt vời nhất đối với tất cả các tín hữu qua mọi thế kỷ: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20,29). mục lục

Phêrô Phạm Văn Trung

BÍ TÍCH THA TỘI - BÍ TÍCH CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT

Ơn tha thứ khắc sâu khuôn mặt xót thương của Thiên Chúa. Nó cần thiết để mang con người đến gần Thiên Chúa, mỗi khi con người sa ngã, lỗi phạm. 

Chúa Giêsu biết rõ sự cần thiết này, nên vừa phục sinh, ngay sau khi trao ban một chuỗi đầy nghĩa xót thương: ơn bình an, ơn nối tiếp sứ mạng truyền giáo, ơn Chúa Thánh Thần, lập tức Đấng Phục Sinh ban ơn tha thứ:

“Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: ‘Bình an cho anh em!’. Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Người lại nói với các ông: ‘Bình an cho anh em! Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em’”. Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: ‘Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20, 19-22).

Nhận sứ mạng và kho tàng ơn tha thứ từ Chúa Kitô, Hội Thánh có nhiều hình thức khác nhau, giúp các tội nhân ăn năn tội lỗi của mình: nghi thức sám hối trong Thánh lễ, các cuộc hành hương, các việc làm bác ái, ăn chay hãm mình… 

I. BÍ TÍCH THA TỘI VÀ SỨ MẠNG HỘI THÁNH.

Tuy nhiên, “không có hành vi nào có ý nghĩa hơn, có hiệu quả thần linh hơn hay cao quý hơn, và đồng thời xét như là nghi thức, lại gần tầm tay cho bằng Bí tích Hòa giải” (Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Reconciliatio et Paenitentia – Hòa giải và Sám hối, số 28).

Ý thức tầm quan trọng và cần thiết của bí tích xót thương ấy, Hội Thánh nhấn mạnh: “Những ai đến nhận lãnh Bí tích Hòa Giải đều được Thiên Chúa nhân từ tha thứ những xúc phạm đến Người. Đồng thời, họ được giao hòa cùng Giáo Hội mà tội lỗi họ đã làm tổn thương. Nhưng Giáo Hội hằng nỗ lực lấy đức ái, gương lành và kinh nghiệm để hoán cải họ” (Lumen Gentium số 11). 

Tin lời Chúa của mình bảo đảm: Hết thảy những gì Hội Thánh dưới đất thực hiện đối với tội lỗi và tội nhân, thì cũng được Thiên Chúa chuẩn nhận: "Dưới đất các con tháo cởi cho ai, trên trời cũng tháo cởi" (Ga 20, 22), Hội Thánh luôn công bố ơn tha tội, mời gọi từng người con của mình siêng năng lãnh nhận bí tích tha tội, đồng thời sẵn sàng để được thực thi sứ mạng tha thứ trên tất mọi con người. 

Khi sung sướng trao ban ơn tha thứ cho từng hối nhân, Hội Thánh cũng muốn công bố cho toàn thế giới về LÒNG XÓT THƯƠNG THA THỨ CỦA THIÊN CHÚA là cao cả, lớn lao, lớn đến không có bất cứ bến bờ nào. Lòng thương xót ấy luôn mời gọi để được trao ban, luôn chờ đợi để được đáp trả, luôn sẵn sàng để được cống hiến, luôn thổn thức nếu bị làm ngơ ngoảnh mặt.

Khi sung sướng trao ban ơn tha thứ cho từng hối nhân, Hội Thánh dạy họ biết, chính Thiên Chúa dẫn đưa những người được cứu độ đến với Hội Thánh (x.Cv 2, 47) và mỗi hối nhân là đối tượng tình yêu của Thiên Chúa. Từng người trong cộng đoàn Hội Thánh đã được lòng thương xót của Chúa triệu tập. Hội Thánh vừa là cộng đoàn đã được thương xót, vừa là dụng cụ của lòng thương xót. 

Khi sung sướng trao ban ơn tha thứ cho từng hối nhân, Hội Thánh mang sứ mạng tha thứ không ngừng, tha thứ vô cùng. Qua đó dạy cộng đoàn gồm tất cả con cái mình cũng tha thứ cho nhau cách quảng đại, nhân ái, đầy lòng thương xót như Chúa của mình từng đòi hỏi: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18, 22).

II. HIỆU QUẢ CỦA BÍ TÍCH LÒNG THƯƠNG XÓT.

Bởi là bí tích của lòng thương xót, bí tích tha tội: 

- Là phương thức hiệu quả nhất để chuyển tình yêu tha thứ của Thiên Chúa từ cái chết và phục sinh của Chúa Giêsu đến với phận người tội lỗi. Nhờ đó, tội nhân thực sự giao hòa với Thiên Chúa và Hội Thánh. Đức Phanxicô khẳng định điều đó trong Tông sắc Misericordiae Vultus – Dung mạo Lòng Thương xót: 

“Nhờ sự chết và sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa bày tỏ tình yêu của Ngài, tình yêu xóa bỏ tội lỗi của con người. Việc giao hòa với Thiên Chúa trở nên khả thi nhờ mầu nhiệm Vượt qua và qua trung gian của Giáo Hội. Thiên Chúa luôn sẵn sàng để thương xót, và không bao giờ mệt mỏi trong việc thương xót với những cách thức mới mẻ và bất ngờ” (số 22).

- Là cầu nối của lòng thương xót. Bởi bí tích thiêng liêng ấy không những giúp ta “phục hồi trong ơn nghĩa Chúa và liên kết với Người trong tình bằng hữu thắm thiết và cao cả” (Giáo lý Hội Thánh Công giáo, số 1468), mà còn là cơ hội để ta “tái tạo sự hiệp thông huynh đệ, mà tội lỗi làm tiêu hao hay cắt đứt” (Giáo lý Hội Thánh Công giáo, số 1469). Bí tích của lòng thương xót còn là cầu nối vì là nguồn ban ân sủng hữu hiệu giúp ta tìm về với chính mình, để càng nâng cao sự giao hòa giữa mình cùng Thiên Chúa, cùng muôn loài xung quanh.

- Là sức mạnh tẩy xóa mọi vết nhơ do tội gây ra, giúp ta can đảm chống lại chúng. “Nhờ Bí tích Hòa giải, Thiên Chúa thứ tha tội lỗi, những tội ấy hoàn toàn bị xóa bỏ; tuy nhiên, vẫn còn đó những dấu vết xấu xa do tội lỗi để lại trong lối hành xử và cách suy nghĩ của chúng ta. Nhưng lòng thương xót của Thiên Chúa vẫn mạnh hơn. Lòng thương xót trở thành những ân xá của Chúa Cha, qua trung gian Hiền thê của Đức Kitô, được ban cho tội nhân vừa lãnh ơn giao hòa, sẽ giải gỡ người ấy khỏi tất cả những hậu quả của tội lỗi, để có thể hành động với đức ái và lớn lên trong tình yêu, hơn là lại rơi vào tội lỗi” (Misericordiae Vultus, số 22). 

Hơn ai hết, hiểu biết sâu xa tầm quan trọng và tính thiêng liêng của bí tích tha tội trong hành trình đời sống Đức tin của mình, nhất là ý thức luôn luôn về Lòng thương xót, tất cả chúng ta tìm về với lòng thương xót của Thiên Chúa, tìm về với tình yêu Chúa Kitô ngang qua việc xưng thú tội lỗi. Nhờ đó, mỗi người trở nên khí cụ đắc lực của Lòng Thương xót cho tha nhân và thế giới.

Đó cũng chính là điều mà thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II từng nhắn nhủ: “Anh chị em hãy cùng hướng về trái tim Đức Kitô, dấu chứng hùng hồn của lòng thương xót Thiên Chúa, của lễ đền tội chúng ta, niềm bình an và hòa giải của chúng ta, hầu kín múc nơi đó sức mạnh nội tâm dẫn đưa chúng ta ra khỏi tội lỗi và quy hướng chúng ta về Thiên Chúa, đồng thời tìm thấy nơi đó lòng nhân ái của Thiên Chúa như lời đáp trả thân tình cho hối nhân" (Reconciliatio et Paenitentia – Hòa giải và Sám hối, số 35).

III. CHÚNG TA LÃNH NHẬN BÍ TÍCH XÓT THƯƠNG.

Mỗi lần đến với tòa cáo giải, là mỗi lần tâm hồn ta chạm đến Lòng Nhân Từ xót thương và tha thứ của Thiên Chúa. Ngang qua bí tích của lòng xót thương này, Chúa ban cho ta sự bình an trong tâm hồn. 

Nơi Chúa Giêsu, trong tình thương hiệp nhất với Thiên Chúa, Chúa Thánh Thần chỉnh trang lại, làm mới lại, tô điểm lại và làm cho mạnh mẽ cả nội tâm và trọn linh hồn ta. Chính trong ơn tha thứ của Chúa Giêsu, Chúa Thánh Thần biến đổi ta thành người mới, con người đã được phục sinh cùng với Chúa Kitô.

Trở về với Chúa trong ơn tha thứ, chúng ta còn được trở về với nguồn sự sống, có Chúa là Đấng vẫn hằng chờ đợi để có dịp bày tỏ sự yêu thương, sự âu yếm, sự quan phòng rất mực của Người.

Hãy nhớ, lòng Thiên Chúa chứa đầy yêu thương. Thiên Chúa đã yêu. Mãi mãi cứ yêu. Ngàn đời tình yêu Thiên Chúa vẫn không cùng. Vì thế, nơi tòa cáo giải, ta sẽ gặp gỡ Chúa Kitô của sự sống, của tình yêu tha thứ, của ơn phục sinh tuôn trào. 

Nơi tòa cáo giải ấy, vừa khắc sâu tình yêu của Thiên Chúa, vừa bộc lộ đến vô cùng tình yêu chan chứa, chứa đầy trong Trái Tim Thiên Chúa qua hình tượng của Chúa Giêsu chết và sống lại vì ta.

Vì thế, càng thấy mình nhiều tội lỗi, anh chị em hãy càng nhanh chân chạy đến tòa cáo giải. Bất cứ ai chạy trốn bí tích xót thương đã lâu, hãy nhớ, một khi quyết tâm xưng thú tội mình, sẽ càng làm cho Thiên Chúa hạnh phúc, càng dễ dàng lôi kéo lòng thương xót của Thiên Chúa hơn, càng được Chúa dễ dàng trao bình an để tâm hồn họ khỏe mạnh hơn, vui sống hơn, tràn ngập ơn Chúa hơn.

Hãy nhớ lời Chúa Giêsu, nhờ đó ta càng có động lực để thường xuyên tìm đến bí tích của lòng xót thương không bao giờ vơi cạn: "Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải" (Lc 15, 6). mục lục

Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng 

CHỮ TIN

[Tín khúc Ga 20:19-31 ≈ Mt 28:16-20; Mc 16:14-18; Lc 24:36-49]

Nói gì thì nói, mặc người
Tô-ma nhất quyết một lời: Không tin!
Tưởng là đá cứng khó mềm
Ai dè đá ấy lại liền chảy tan!
Người tin – giải thích không cần
Không tin – giải thích chẳng còn ích chi [1]
Tin là phần phúc diệu kỳ
Đâu có dễ gì không thấy mà tin!
Tin là không có dị đoan
Vẫn cần lý trí cân phân rạch ròi
Cũng không nhẹ dạ tin người
Nói gì nghe nấy, tức thời gặp nguy!
Tin là điều rất diệu kỳ
Được nên công chính là nhờ đức tin [2]
Vững tin vào Chúa uy linh
Vì Ngài là Đấng nhân lành, xót thương
Chúa ơi, xin hãy đỡ nâng
Vì con yếu kém về lòng kính tin
Biến con dẫu cứng cũng mềm
Tô-ma ơi, chớ bỏ quên phận này! mục lục.

Viễn Dzu Tử

[1] Thánh TS Tôma Aquinô: “Với người tin, không cần giải thích; với người không tin, giải thích cũng vô ích.”
[2] Rm 5:1; Rm 9:30; Rm 9:32; Rm 10:6.

HAI LẦN CHÚA HIỆN ĐẾN

(Cảm nhận từ Ga 20,19-31)

Bình an cho các con
Chúa ngự đến khi cửa phòng đóng kín
Chúa hiện ra, đứng giữa các tông đồ
Chúa cho xem dấu tích đã lành khô
Rồi Chúa phán: bình an cho các con hết thảy.
Quyền tha tội  
Như Cha đã sai Thầy cứu nhân thế
Thầy cũng sai toàn thể đoàn chúng con
Nói thế rồi, Chúa thở hơi, ban ơn:
Hãy nhận lấy Thánh Thần và quyền tha tội.
Tám ngày sau 
Chúa hiện đến lần trước, Tô Ma vắng mặt
Hôm nay Ông gặp Chúa thoả ước mơ
Chúa Phục Sinh bảo Ông: chớ nghi ngờ,
Ông xưng tụng: lạy Chúa,Vua Cứu Thế!
Áp dụng theo Tin Mừng
Giáo Hội muốn chúng ta năng suy niệm
Chúa Phục Sinh nền tảng cho niềm tin
Sống Tin Mừng phấn khởi triền miên
Với hy vọng phục sinh cả hồn xác. mục lục.

(Thế Kiên Dominic)

Với mục đích để Lời Chúa được loan truyền và thông tin Giáo hội được lan tỏa, Legio Mariæ sẵn lòng để các tổ chức và cá nhân sử dụng lại tin bài đã đăng trên báo giấy và báo mạng legiomariævn.com của mình.

Tuy nhiên, vì đức công bằng và sự bác ái, xin quý vị vui lòng ghi đầy đủ nguồn như sau: “Theo Đạo Binh Đức Mẹ, website: legiomariævn.com”.

Ngoài ra, nếu chia sẻ bài lên mạng xã hội (Facebook, Twitter…), đề nghị dùng đường dẫn gốc trên website của Đạo Binh Đức Mẹ.

Tin liên quan