SUY NIỆM CHÚA NHẬT LỄ THĂNG THIÊN_A (2023)

20-05-2023 155 lượt xem

Lời Chúa: Cv 1,1-11; Ep 1,17- 23; Mt 28,16-20

Mục Lục

CHÚA MANG BẢN TÍNH CHÚNG TA VỀ TRỜI - Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

HỨA HẸN - Thomas Aq. Trầm Thiên Thu

VỀ TRỜI VÀ TIẾP TỤC HIỆN DIỆN - Lm. Giuse Mai Văn Thịnh, DCCT

MỆNH LỆNH YÊU THƯƠNG - Anna Cỏ May   

KẾ HOẠCH ĐẦY THAM VỌNG - Lm. Phêrô Phan Văn Lợi

ĐỨC KITÔ SỐNG LUÔN MÃI CÙNG CHÚNG TA MỘT CÁCH THÂM SÂU - Phêrô Phạm Văn Trung

LÀM CHỨNG CHO CHÚA KITÔ PHỤC SINH - Lm. Đaminh Phạm Tĩnh, SDD

THẦY Ở VỚI ANH EM - Bông hồng nhỏ

CHÚA VỀ TRỜI CÒN CHÚNG TA RA ĐI - Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng

LỜI NGUYỆN CỦA CHÚA GIÊSU TRƯỚC GIỜ RA ĐI - Bs. Nguyễn Tiến Cảnh, MD

VÀO ĐỜI, RA KHƠI - Viễn Dzu Tử

LỆNH TRUYỀN GIÁO - (Thế Kiên Dominic)

CHÚA MANG BẢN TÍNH CHÚNG TA VỀ TRỜI

Toàn bộ ý nghĩa Chúa về Trời được các bài đọc Thánh Kinh diễn tả và nội dung gồm tóm trong những lời sau: "Chúa Giêsu đã bắt đầu làm và giảng dạy, Người căn dặn các Tông đồ xong... ". Và sau đó " Người lên Trời " (x. Cv 1,1- 11).

"Đã đến giờ Chúa Giêsu rời bỏ thế gian mà về cùng Đức Chúa Cha". Lời này được lặp đi lặp lại mỗi đoạn Tin Mừng trước lễ Chúa về Trời. Theo sự quan phòng trong kế hoạch đời đời của Thiên Chúa, Chúa Giêsu từ giã Đức Maria, Mẹ Người, các môn đệ và nhất là tâm sự với các nhiều điều trước khi về Trời. Hôm nay mừng Chúa lên Trời.

CHÚA XUỐNG THẾ MẶC LẤY BẢN TÍNH LOÀI NGƯỜI CHÚNG TA

Đọc lại Tin Mừng viết về gia phả của Đức Giêsu, chúng ta thấy Chúa Giêsu, Ngôi Lời nhập thể có một lịch sử rõ ràng (x. Mt 1,1-17), (Mt 3,9 ; 8,11 ; Lc 3,8 ; 2Cr 11,22). Chứng tỏ, Thiên Chúa, Đấng siêu việt, đã “vì loài người chúng ta”, mà nhập thể làm người. Đúng như thánh Phaolô viết: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các Ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử.. Người là phản ảnh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa” (Dt 1,1-3). 

Chúng ta có thể quả quyết mà không sợ sai lầm rằng, Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa từ Trời xuống thế, nhập thể làm người đã đảm nhận thân phận con người như chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi. Người là một thực thể của thế giới, một con người của lịch sử, có nguồn gốc, có cha có mẹ như bao người khác.

Thiên Chúa muốn cứu độ chúng ta bằng cách mặc lấy xác phàm như Thánh Phaolô đã diễn tả: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2,6-7), hay như thánh Gioan viết: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14). Có lẽ, cũng từ đó mà thánh Athanaxiô diễn tả: “Ngôi Lời đã nhận lấy một thân xác có thể chế, để thân xác đó, một khi hoà hợp với Ngôi Lời là Đấng làm chủ mọi loài mọi vật, thì vừa có thể chết thay cho mọi người, vừa không thể hư hoại, vì có Ngôi Lời hằng cư ngụ. Cuối cùng nhờ ơn phục sinh, mọi người được giải thoát khỏi cảnh hư hoại” (Trích lại trong Các Bài Đọc Kinh Sách, bài đọc II, ngày 2 tháng 5).

Như vậy, Chúa Giêsu sau khi đã từ cung lòng Chúa Cha, từ Trời thân hành xuống thế nhập thể làm người, đi vào lịch sử loài người, sống kiếp phận con người, bước vào trong bóng sự chết, đã phục sinh và trở về Trời trong vinh quang mà từ thuở đời đời Người đã có với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần.

CHÚA LÊN TRỜI MANG BẢN TÍNH CHÚNG TA VỀ TRỜI VỚI CHÚA

Chúa Giêsu lên trời dựa trên cụm từ: “Chúa Giêsu lên Trời ngự bên hữu…”. Theo lời thánh Lêo Cả, khi Vị Thủ Lãnh của chúng ta bước vào thiên đàng và ở trên đó, “vinh quang của Đầu” đã trở thành “niềm hy vọng cho thân xác” (x. Sermo Ascensione Domini). Chúa Giêsu đã vĩnh viễn bước vào thiên đàng, “Người là Đầu và là Trưởng Tử giữa đàn em đông đúc” (Rm 8,29). Vì bản tính của chúng ta là ở trong Thiên Chúa và ở trong Đức Giêsu Kitô. Nên vì loài người chúng ta (thân xác), Chúa Giêsu là (Đầu) hằng sống đến muôn thủa muôn đời hằng cầu thay nguyện giúp cho chúng ta trước mặt Chúa Cha (x. Dt 7,25). Từ tao cao vinh hiển, Người gửi cho Giáo hội một sứ điệp hy vọng và mời gọi hướng đến sự thánh thiện trên Trời nơi Người đang ngự bên hữu Thiên Chúa.

CHÚA LÊN TRỜI, NIỀM HY VỌNG CỦA CHÚNG TA

Nhờ công nghiệp và lời cầu bầu của Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha cho chúng ta, chúng ta có hy vọng đạt tới sự công chính và sống thánh thiện. Chính Người, Vị Thủ Lãnh của chúng ta đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, hiển vinh về Trời, đó là niềm hy vọng của chúng ta. Người sẽ trở lại đón chúng ta đi với Người. Để được về Trời với Chúa, chúng ta hãy gia tăng lòng mộ mến những sự trên trời và tích cực làm việc vì Nước Trời.

Lễ Chúa Giêsu lên Trời là lễ của niềm hy vọng, vì lễ này báo trước cảnh ngọt ngào của Thiên Đàng. Chúa Giêsu là Đầu, chúng ta là chi thể, Người đi trước để chúng ta được tiếp bước theo sau vào Thiên Đàng. Vẫn theo lời Thánh Leo Cả : “Trong Đức Kitô chịu đóng đinh mà chúng ta chết cho tội, và trong Đức Kitô phục sinh chúng ta sống lại với Người trong đời sống mới đầy ân sủng, chúng ta cũng đạt tới Trời nhờ sự lên Trời của Người. Việc tham dự vào mầu nhiệm của Đức Kitô với tư cách là thành viên của Người, hoàn toàn phụ thuộc vào Người và gắn bó mật thiết với vận mệnh của Người” (x. LÊÔ CẢ, Bài giảng lễ Chúa lên Trời).

Quả thật, nhờ bí tích Thánh Tẩy, chúng ta đã được tháp nhập vào sự sống của Chúa Kitô, nghĩa là chúng ta hy vọng phục sinh và được chia sẻ vinh quang của Người. Chúng ta cũng sẽ theo Người đến cùng Chúa Cha khi kết thúc cuộc sống trần gian này. Lễ Chúa lên Trời là sự kiện phản ánh rõ nhất về niềm hy vọng của chúng ta về cuộc sống vĩnh cửu.

Lạy Nữ Vương Thiên Ðàng, xin giúp chúng con là con cái Mẹ, biết sống và thực hành lời Chúa Giêsu, Con Mẹ, để một ngày kia chúng con cũng được về Trời với Chúa Giêsu, Đức Mẹ và các thánh vui hưởng tôn nhan Chúa Ba Ngôi đến muôn thủa muôn đời. Amen. mục lục

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

HỨA HẸN

Chúa Về Trời Cao Hẹn Ngày Trở Lại
Con Ở Đất Thấp Chờ Chúa Quang Lâm.

Khi Chúa Giêsu HỨA “ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20b) cũng là cách Ngài HẸN trở lại đón chúng ta về trời với Ngài, để Ngài ở đâu thì chúng ta cũng ở đó. (Ga 14:3) Thật tuyệt vời!

Chữ nghĩa bình thường mà kỳ diệu. Chữ phải có Nghĩa. Người ta chỉ nói LÊN trời, TỚI trời, hoặc VÀO trời, vì người ta không xuất phát từ trời. Nhưng Chúa Giêsu nói VỀ trời – VỀ với Chúa Cha, vì Ngài xuất phát từ Trời và từ Chúa Cha, Đấng ngự trên trời: “Nếu anh em yêu mến Thầy thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy.” (Ga 14:28) Người ta chỉ có thể VỀ nơi mà mình đã từng ở, còn nơi mình chưa ở thì không thể dùng động từ VỀ. Thế mà chúng ta cũng được Ngài cho phép VỀ trời với Ngài, dù chúng ta không xuất phát từ trời, dù chỉ là bụi tro xuất phát từ đất. Quá kỳ diệu, chúng ta không thể tưởng tượng nổi!

Lời hứa “ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế” được chứng tỏ rõ ràng nhất là Bí tích Thánh Thể, một phép lạ vĩ đại vẫn xảy ra hằng ngày tại các nhà thờ khắp nơi trên thế giới. Biết rõ chúng ta yếu đuối nên Ngài thương chúng ta lắm, và lại hứa: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi.” (Ga 14:8) Và lời hứa đó lại được thực hiện ngay lập tức: Ngài về trời rồi gởi Đấng Bảo Trợ đến ở với chúng ta. (Ga 14:16) Suốt cuộc lữ hành trần thế, chúng ta luôn có của ăn đàng Thánh Thể và có Chúa Thánh Thần đồng hành.

Chúa Giêsu đã đến, giờ tới lúc Ngài đi. Con người cũng vậy. Hành trình về trời được khởi đầu từ điểm SINH và kết thúc ở điểm TỬ. Hành trình đó có thể là “con đường” dài hoặc ngắn, không ai biết; “con đường” đó cũng có thể rộng hoặc hẹp, nhưng ai chọn đường hẹp thì tốt hơn đường rộng, càng thênh thang càng “dễ chết,” có thể “chết yểu,” “chết” ngay khi còn đang thở. Chết như vậy thật nguy hiểm! Vì thế, Chúa Giêsu khuyên những ai thực sự muốn được trường sinh vĩnh phúc: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy.” (Mt 7:13-14)

Không chỉ đơn giản như vậy, người ta còn phải “chiến đấu để qua được cửa hẹp.” (Lc 13:24) Cách nói rất “ngược đời,” nhưng phải dám “ngược” như vậy thì mới mong “xuôi” về vĩnh cửu. Chúa Giêsu đã nhập thế và đau khổ tột cùng. Ai muốn về trời thì cũng phải chịu đau khổ bằng cách nào đó, dù thể lý hay tinh thần. Thánh Faustina so sánh: “Như bệnh tật được đo bằng nhiệt kế, sốt cao cho chúng ta biết là bệnh nặng, đời sống tâm linh cũng vậy, đau khổ là nhiệt kế đo tình yêu Chúa trong linh hồn.” (Nhật Ký, 774) Đó là điều rất khó đối với bản chất phàm nhân, nhưng người ta có thể chấp nhận nếu cố gắng hiểu theo cách hiểu và với tầm nhìn của Chúa.

Cuộc chia tay nào cũng buồn. Thầy về trời, trò ở đất. Đó là một “cuộc chia tay” – Thầy trò đôi ngả. Nhưng chúng ta chia tay với Chúa Giêsu thì không buồn, mà lại tràn trề hy vọng, vì chính Ngài đã nói: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để THẦY Ở ĐÂU, ANH EM CŨNG Ở ĐÓ.” (Ga 14:3) Đối với phàm nhân chúng ta, chắc chắn không còn niềm hạnh phúc nào lớn lao hơn nữa!

Sự kiện Chúa Giêsu về trời cũng là dịp chúng ta tái định tín: “Ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại, LÊN TRỜI ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng.” Thánh Phaolô cho biết rằng nếu Đức Kitô không sống lại, niềm tin của chúng ta chỉ là trống rỗng và vô ích, và như vậy chúng ta chỉ là những người hoang tưởng, thế nhưng Ngài đã thực sự sống lại và lên trời. Đức tin của chúng ta hoàn toàn chính xác.

Thiên Chúa mà hóa thành Con Người, Con Người mà là Thiên Chúa, vừa hữu hình vừa vô hình. Không chỉ kỳ diệu mà là mầu nhiệm. Chắc chắn chẳng một thần linh nào như vậy. Chỉ có Thiên Chúa của chúng ta như vậy mà thôi, độc nhất vô nhị, duy nhất và tuyệt đối. Như Thánh Phaolô nói: “Phải công nhận rằng: mầu nhiệm của đạo thánh thật là cao cả, đó là: Đức Kitô xuất hiện trong thân phận người phàm, được Chúa Thánh Thần chứng thực là công chính; Người được các thiên thần chiêm ngưỡng, và được loan truyền giữa muôn dân; Người được cả hoàn cầu tin kính, được siêu thăng cõi trời vinh hiển.” (1 Tm 3:16)

Thầy thuốc Sử gia Luca viết: “Thưa ngài Thêôphilô, trong quyển thứ nhất, tôi đã tường thuật tất cả những việc Đức Giêsu làm và những điều Người dạy, kể từ đầu cho tới ngày Người được rước lên trời. Trước ngày ấy, Người đã dạy bảo các Tông Đồ mà Người đã tuyển chọn nhờ Thánh Thần. Người lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: trong bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa. Một hôm, đang khi dùng bữa với các Tông Đồ, Đức Giêsu truyền cho các ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, đó là: ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần.” (Cv 1:1-5)

Chúa Giêsu chia tay chúng ta để về trời, nhưng Ngài lại gởi Chúa Thánh Thần đến với chúng ta, đồng hành và hoạt động với chúng ta mọi nơi, mọi lúc, bởi vì Ngài “không để chúng ta mồ côi.” (Ga 14:18) Quả thật, tư tưởng loài người không cao hơn ngọn cỏ dại, tầm nhìn không vượt qua cái bóng của mình, thế nên khi nghe Đức Giêsu nói vậy, những người đang tụ họp ở đó tưởng rằng Ngài sắp sửa khôi phục vương quốc Israel. Nhưng Ngài đáp: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất.” (Cv 1:7-8) Vừa dứt lời, Ngài được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Ngài, khiến các ông không còn thấy Ngài nữa. Họ ngơ ngẩn nhìn nhau rồi nhìn theo, chẳng hiểu gì, tiếc hùi hụi, nhưng họ vẫn hy vọng qua lời hứa của Thầy Giêsu.

Lúc đó bỗng dưng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời.” (Cv 1:11) Lời giải thích này cho biết chắc rằng Chúa Giêsu sẽ đến lần thứ hai vào một lúc nào đó, bất kỳ thời điểm nào – có thể là ngày mai hoặc hôm nay. Vì thế mà ai cũng phải tỉnh thức và sẵn sàng.

Không chỉ vậy, với mỗi người còn là cái chết, vì tử thần có thể đến bất cứ lúc nào, không ai có thể ngờ được. Kiếp người là một chuyến đi, mỗi ngày tiến gần hơn một chút tới “miền cát bụi.” Cuộc đời Kitô hữu là cuộc lữ hành trần gian, là hành trình đức tin, và cũng là hành trình về trời. Đức Kitô đã về trời trước, đó là bảo chứng cho những ai tin nhận Đức Giêsu Kitô là Đấng Thiên Sai.

Thánh Vịnh gia mời gọi: “Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi! Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo! Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả uý, là Vua Cả thống trị khắp địa cầu.” (Tv 47:2-3) Trên cả tuyệt vời vì niềm vui quá lớn, nỗi mừng khôn tả. Nhưng chúng ta hữu hạn, chỉ biết thể hiện bằng tất cả khả năng phàm nhân: “Thiên Chúa ngự lên, rộn rã tiếng hò reo, Chúa ngự lên, vang dội tiếng tù và. Hãy đàn ca, đàn ca lên mừng Thiên Chúa, đàn ca lên nào, đàn ca nữa kính Vua ta! Thiên Chúa là Vua toàn cõi địa cầu, hãy dâng Người khúc đàn ca tuyệt mỹ. Thiên Chúa là Vua thống trị chư dân, Thiên Chúa ngự trên toà uy linh cao cả.” (Tv 47:6-9)

Thiên Chúa không đòi hỏi quá sức chúng ta, Ngài chỉ muốn chúng ta chân thành với khả năng riêng của mỗi người – nén vuông hay tròn, to hay nhỏ, dài hay ngắn cũng không thành vấn đề, quan trọng là phải sinh lời theo khả năng của chính mình. Albert Einstein (1879-1955) nói: “Cái tôi và sự hiểu biết tỷ lệ nghịch với nhau. Hiểu biết càng nhiều, cái tôi càng bé; hiểu biết càng ít, cái tôi càng to.” Dẹp được “cái tôi” là có thể nên thánh, ai khôn ngoan thì làm được, chưa khôn ngoan thì hãy cầu xin. Thánh Phaolô cho biết: “Tôi cầu xin Chúa Cha vinh hiển là Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ban cho anh em thần khí khôn ngoan để mặc khải cho anh em nhận biết Người. Xin Người soi lòng mở trí cho anh em thấy rõ, đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh, đâu là quyền lực vô cùng lớn lao Người đã thi thố cho chúng ta là những tín hữu.” (Ep 1:17-19a)

Nhận biết Thiên Chúa là niềm hạnh phúc lớn lao, nhận biết Ý Ngài và vui mừng làm theo là niềm hạnh phúc lớn lao hơn. Quả thật, chấp nhận và làm theo Ý Chúa là điều không dễ chút nào, vì chúng ta thường chỉ muốn “được như ý” mà thôi. Như để chúng ta khả dĩ hiểu rõ ràng, Thánh Phaolô giải thích: “Đó chính là sức mạnh toàn năng đầy hiệu lực, mà Người đã biểu dương nơi Đức Kitô, khi làm cho Đức Kitô trỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người trên trời. Như vậy, Người đã tôn Đức Kitô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai. Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh; mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn.” (Ep 1:19b-23)

Đức Kitô được Chúa Cha trao mọi thứ, nhưng Ngài không giữ riêng, mà Ngài chia sẻ và muốn làm cho chúng ta được sống viên mãn với Ngài, dù chúng ta chỉ là phàm nhân, là những tội nhân. Niềm hạnh phúc như điệp khúc lặp đi lặp lại trong đời chúng ta suốt hành trình về trời. Hạnh phúc vì chúng ta được Thiên Chúa ưu đãi, minh nhiên nhất là được xóa án tử và được khôi phục cương vị làm con, đặc biệt là sẽ được về trời với Chúa Giêsu.

Thánh ký Mátthêu cho biết: Một hôm, có mười một môn đệ đi tới miền Galilê, đến ngọn núi Chúa Giêsu đã truyền cho các ông đến. Khi thấy Ngài, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. Bản tính nhân loại là thế, tận mắt thấy bao phép lạ mà vẫn chưa đủ tin, miệng nói tin nhưng bụng vẫn ngờ. Vả lại, họ cứ tưởng Chúa Giêsu là chính khách, Ngài sẽ giành quyền độc lập cho Israel từ thực dân Rôma.

Khi đó, Ngài đến gần họ và nói: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.” (Mt 28:18) Có lẽ nghe Ngài nói vậy thì họ càng cho rằng Ngài làm chính trị, điều họ nghĩ không sai. Thế nhưng không phải vậy, Chúa Giêsu không bao giờ làm chính trị, và Phúc Âm cũng không là bản cương lĩnh chính trị. Tuy nhiên, cuộc sống không ai lại không liên quan chính trị vì sự dữ luôn đối đầu với sự thiện. Bảo vệ công lý, chân lý và hòa bình là một dạng hoạt động chính trị. Đại đế Napoléon nhận định: “Thế giới phải chìm đắm trong đau khổ không phải vì tội ác của những kẻ xấu, mà là vì sự im lặng của những người tốt.”

Rất đặc biệt đối với tín nhân Kitô giáo, vì họ có hai “quốc tịch,” trước tiên là công dân của Nước Trời, và sau đó là công dân của một đất nước thế gian. Trên đường lữ hành trần gian, với tư cách là công dân một đất nước, người Công giáo cũng tuân hành theo luật định của đất nước đó: “Mỗi người phải phục tùng chính quyền, vì không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập. Như vậy, ai chống đối quyền bính là chống lại trật tự Thiên Chúa đặt ra, và kẻ nào chống lại sẽ chuốc lấy án phạt. Thật thế, làm điều thiện thì không phải sợ nhà chức trách, có làm điều ác mới phải sợ.” (Rm 13:1-3) Tuy nhiên, có một nguyên tắc mà người Công giáo tốt không dám vi phạm, đó là khi luật pháp trần gian đi ngược lại với luật của Thiên Chúa và Giáo Hội thì họ chỉ làm theo luật của Thiên Chúa và Giáo Hội.

Chúa Giêsu không làm chính trị để tranh giành quyền lực ở thế gian, mà Ngài bảo vệ sự thật, đòi công bình và công lý cho kẻ bị áp bức. Đây là ước muốn của Ngài: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.” (Mt 28:19-20a)

Biết sắp đến giờ phải trở về cùng Chúa Cha, nên Ngài căn dặn kỹ lưỡng, bảo mọi tín nhân phải vào đời, phải ra khơi để làm chứng về Ngài. Điều đó vừa là tặng phẩm vừa là mệnh lệnh, vừa là đặc ân vừa là trọng trách.

Lạy Chúa Cha hằng hữu, sự kiện Đức Kitô về trời là dấu bảo đảm về sự sống vĩnh hằng mà chúng con phải cố gắng đạt được bằng mọi giá. Xin ban Thần Khí Ngài để đổi mới chúng con, thêm can đảm cho chúng con để làm chứng về Thiên Chúa duy nhất – Đấng Tam Vị Nhất Thể. Xin giúp chúng con đủ sức vượt qua chính mình để xứng đáng lãnh nhận những gì Ngài hứa ban. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen. mục lục

Thomas Aq. Trầm Thiên Thu

VỀ TRỜI VÀ TIẾP TỤC HIỆN DIỆN

Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta long trọng mừng Lễ Chúa Giê-su lên trời. Bài đọc một và trình thuật Tin Mừng trong phần Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay tuy có một chút khác biệt, nhưng nội dung chính yếu là nói về việc Đức Giê-su được cất nhắc lên trời trước mắt các môn đệ. Như vậy câu hỏi đầu tiên chúng ta cần san sẻ cho nhau là trời ở đâu?

Chúng ta không biết nhiều về khoa học không gian, nhất là môn học về vũ trụ thì lại càng khó hiểu. Đó là việc của các nhà chuyên môn. Vào thời Đức Giê-su, và hầu hết những người dân thường ít hiểu biết như chúng ta vẫn còn cho rằng trời ở trên cao, đất là nơi chúng ta đang sống và được bao quanh bởi biển cả và đại dương, và dưới hay trong lòng quả đất này là hỏa ngục.

Từ khái niệm đơn sơ này chúng ta suy diễn về các mốc điểm trong hành trình của chúng ta. Các Thiên Thần và các Thánh thì ở trên trời. Quỉ dữ và những ai thuộc về nó thì bị giam cầm dưới Hỏa Ngục, trong lòng đất. Còn trái đất là nơi chúng ta đang sống và chiến đấu. Chính vì thế, đôi khi chúng ta cho rằng về trời hay lên thiên đàng là phần thưởng dành cho ai đã chiến đấu và chiến thắng quyền lực của sự ác chi phối và hoành hành trên cuộc sống của chúng ta. Vì thế quan niệm sống để thu tích các công việc đạo đức và đưa vào kho lẫm để chờ ngày lãnh nhận phần thưởng đời sau vẫn còn ảnh hưởng sâu rộng trong cuộc sống của tín hữu. Với lối suy luận như thế, chúng ta có thể sẽ quên đi trách vụ và bổn phận cần phải làm để biến đổi môi trường mà chúng ta đang sống trở thành trời mới đất mới.

Trời là nơi Chúa ngự. Ngự trị không nhắm đến nơi chốn cho bằng mô tả sự hiện diện của Chúa. Sự hiện diện này sẽ không còn tuỳ thuộc vào một khoảng không gian nào đó hay một mốc thời gian nào của lịch sử; nhưng là một sự hiện diện không bị giới hạn bởi không gian và không lệ thuộc vào thời gian. Thiên Chúa hiện diện từ trước và cho đến muôn đời, vô thủy vô chung. Như vậy ở đâu có Chúa là ở đó có trời. Và như lời Chúa đã phán thì ở đâu có hai hay ba người họp lại vì danh Chúa thì Chúa hiện diện giữa họ.

Ý nghĩa của câu này có thể giải thích là ở đâu có sự hiệp nhất, thông cảm, yêu thương thì có Chúa ở đó; nói khác đi tại nơi đâu mà con người cùng chia sẻ một đức tin, cùng san sẻ và trao ban một lòng mến thì tại nơi đó có sự hiện diện của Chúa. Như vậy, trời hay thiên đàng không ám chỉ đến địa danh hay nơi chốn nào đó cho bằng một cách mà con người dùng để diễn tả khi nói đến nơi ngự trị của Chúa. Nói khác đi, khi mô tả việc Chúa lên trời có nghĩa là chúng ta nói đến việc Chúa Giê-su ngự trị bên hữu Thiên Chúa.

Trên thực tế, làm sao chúng ta có thể giải thích về ý niệm về một vị Thiên Chúa vừa hiện diện lại vừa vắng mặt trong cuộc sống của chúng ta nói riêng và trong các sinh hoạt của thế giới này nói chung. Rất nhiều người trong chúng ta vẫn còn sống với quan niệm về một vị Thiên Chúa ở trên trời, xa vắng với các sinh hoạt của con người. Với cái nhìn như thế, mỗi khi chúng ta gặp khó khăn là lúc chúng ta chạy đến cầu xin với Ngài đến can thiệp và giải quyết thay cho chúng ta.

Có phải cho đến hôm nay Chúa mới đuợc đưa lên trời hay không?

Thật ra, Đức Giê-su đã về nhà Cha, tiếp nhận vinh quang như đã có từ Thiên Chúa ngay khi Người trút hơi thở và trao ban Thần Khí cho chúng ta là những người đứng dưới chân Thập Giá. Việc Chúa Giê-su được cất nhắc về trời hôm nay không phải là việc ra đi để rồi không hiện diện nữa; nhưng đây chính là một sự hiện diện mới mà chúng ta và các môn đệ cần cảm nhận bằng con mắt đức tin và thể hiện bằng việc làm để minh chứng điều mà chúng ta và các môn đệ đã tin.

Vì thế, không có chuyện vắng mặt. Đức Giêsu, Đấng đã chịu thương tích và bị giết vào dịp lễ Vượt Qua, vẫn hiện diện và không hề bỏ rơi các môn đệ; Người đã sống lại và tiếp tục sống cho họ và với họ như những gì mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc một hôm nay, đó là “sau cuộc thương khó, Người đã tỏ cho các ông thấy Người vẫn sống, với nhiều bằng chứng Người đã hiện ra với các ông trong khoảng bốn mươi ngày và đàm đạo về Nước Thiên Chúa.” Cách thức hiện diện tuy khác, nhưng Người không hề bỏ rơi họ. Trong khi thi hành sứ vụ, Người đã không thể ở với mọi người tại mọi nơi khác nhau. Nay qua sự chết trong vâng phục mà Người đã được tôn vinh và hiện diện ở mọi nơi, mọi chốn và ở với mọi người trong mọi cảnh huống của đời họ.

Chúng ta mừng sự thay đổi, hân hoan đón nhận cách thức hiện diện mới của Chúa. Tuy, chúng ta không còn đuợc tiếp cận với con người bằng xương bằng thịt của Chúa nữa. Nhưng với Thân Thể Mầu nhiệm của Đức Ki-tô là Giáo Hội, chúng ta đuợc liên kết với Người như Lời Người đã phán với chúng ta trong bài Tin mừng: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28: 20b)

Mặc dầu các dấu chỉ biểu lộ uy quyền của Thiên Chúa có thể thay đổi so với các việc làm của các tín hữu thuộc các công đoàn sơ khai; nhưng nguồn gốc và sức mạnh vẫn xuất phát từ Chúa. Người vẫn hoạt động thông qua những kẻ đi theo Người. Người về trời ngự bên hữu Thiên Chúa không phải để đuợc tôn vinh mà thôi, nhưng còn tiếp tục làm việc nơi các môn đệ qua quyền năng và sức mạnh của Thiên Chúa, đó chính là sức mạnh của Thánh Linh như Chúa đã hứa “các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các con, và các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong tất cả xứ Giu-đê-a và Sa-ma-ri-a, và cho đến tận cùng trái đất”. Với sức mạnh của Chúa Thánh Linh, các Tông Đồ và nhóm môn đệ mọi thời đã hoàn tất sứ mạng của họ.

Còn chúng ta hôm nay thì sao?

Thực hiện lịnh truyền của Chúa trước khi Người về trời, đó là: “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ.” Có nghĩa là:

Sống trong một thế giới đầy tranh chấp và bạo lực, chúng ta đuợc mời gọi trở nên sứ giả của hoà bình.

Sống trong một tập thể mà người ta tìm cách loại bỏ nhau vì ghen ghét, đố kỵ và thù hằn thì chúng ta lại đuợc mời gọi sống yêu thương, tương tác và liên đới với nhau.

Đối diện với một cộng đoàn chỉ biết tham lam và tranh dành địa vị thì chúng ta lại được mời gọi sống bác ái và khiêm nhường trong việc phục vụ.

Tất cả đều là dấu chỉ nói lên lời mời gọi của Chúa Giê-su Phục Sinh, Đấng đã về trời để tiếp tục hiện diện và hoạt động trong cộng đoàn của các kẻ tin.

Vì thế, câu hỏi mà chúng ta phải đối diện hôm nay là sống thế nào trong vai trò chứng nhân về sự hiện diện của Chúa? Đó cũng là thử thách mà Tin mừng đề ra cho các tín hữu tại Ga-li-lê-a khi xưa và cho chúng ta hôm nay “Hỡi những người Ga-li-lê-a, sao còn đứng đó nhìn trời.” Có nghĩa là tại sao chúng ta vẫn còn ngồi đó mà tiếc nuối quá khứ! Sao cứ khư khư ôm lấy vinh quang mà không dám trở về với cuộc sống hiện tại để chu toàn phận sự đã được trao phó?

Khi thi hành nhiệm vụ mà Chúa trao phó hôm nay, chúng ta ý thức rằng mình không tự làm; nhưng sứ mạng được trao ban từ Chúa; Người là vị cứu tinh nhân hậu, đang hiện diện và đồng hành với chúng ta.

Chúng ta nương tựa vào Chúa.
Chúng ta gắn bó và nối kết mật thiết với Người.
Chúng ta không ngồi đó chờ Người làm thay các việc mà chúng ta cần làm.
Chúng ta sẽ không yêu cầu Chúa đến để thay đổi những gì đang xảy ra trong cuộc sống của chúng ta.

Thay vào đó, trong niềm tin, chúng ta biết chắc Người đang đồng hành, soi sáng và mở mắt để chúng ta nhìn thấy Thiên Chúa trong các sự kiện đang xảy ra. Thiên Chúa đã không rời bỏ chúng ta nhưng hiện diện trong những gì đang diễn ra trong cuộc sống của chúng ta ngay bây giờ và mãi mãi.

Như vậy, Chúa đã đi đâu là việc của Chúa! Việc của chúng ta phải làm là thực hiện lịnh truyền mà Chúa phán trước khi Người được cất nhắc về trời, đó là: “anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất”, và nhờ việc làm của anh em mà mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Người. Amen! mục lục

Lm. Giuse Mai Văn Thịnh, DCCT

MỆNH LỆNH YÊU THƯƠNG

Một người sắp đi xa, người ta thường nói những lời yêu thương cũng như ước muốn của mình hay để lại một vật gì đó mà ta thường gọi là bản di chúc cuối cùng và quan trọng cho người thân. Chúa Giêsu cũng vậy, trước khi về trời, Ngài hẹn các môn đệ ở biển hồ Galilê. Tại đây, Ngài không để lại một mảnh đất hay một tài sản gì trực tiếp mà là một mệnh lệnh dẫn tới cuộc sống đích thực. Ngài nói: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19).

Thư Êphêsô có đoạn viết: “Người đã tôn Đức Kitô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại mà cả trong thế giới tương lai. Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội thánh” (Ep 1,21-22). Chúa Giêsu đã được Chúa Cha trao những quyền hành dưới đất cũng như trên trời. Giờ đây, Ngài chia sẻ và mời gọi các môn đệ thông hiệp với Ngài qua lệnh truyền yêu thương của Ngài. Các ông sẽ thực hiện các điều ấy trong sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần. Họ sẽ không còn sống cho chính mình nhưng là sống cho thánh ý Chúa Cha. Họ chẳng còn nhìn thấy Thầy bằng con mắt người phàm nhưng bằng đôi mắt đức tin. Chính Thánh Thần sẽ giúp họ nhận thấy Thiên Chúa ở trong mình (x. 1 Ga 3,24). Trong một bài giảng, Thánh Phêrô Kim Ngôn đã nói: “Bạn hãy nghe lời Chúa Kitô xin: Hãy nhìn xem, hãy nhận thấy nơi Ta, chính thân xác của các con, chi thể các con, ruột gan, xương cốt, máu huyết của các con” (x. Kinh sách mùa PS). Các môn đệ sẽ tiếp tục thực hiện sứ mạng của Thầy là ra đi rao giảng Tin Mừng và làm cho muôn dân trở thành môn đệ. Tất cả những ai đã chịu phép rửa sẽ trở thành môn đệ của Chúa Giêsu. Còn Chúa Giêsu, sau khi nói những lời ấy, Ngài về trời. Ngài đi về trời để tiếp tục thực hiện điều Ngài muốn dành cho các môn đệ. Ngài đã từng nói với các môn đệ: “Vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu anh em cũng ở đó” (Ga 14,2-3).

Là môn đệ của Chúa khi đã chịu phép Rửa tội, chúng ta đã thi hành lệnh truyền yêu thương của Chúa thế nào? Nhìn vào thực tế, chúng ta đều nhận thấy nơi bản thân nhu cầu yêu và được yêu. Vậy sao chúng ta không thử làm điều ấy trước cho người khác? Vì chính lúc chúng ta cho đi thì chúng ta mới được lãnh nhận và điều gì chúng ta muốn từ người khác thì chúng ta phải làm trước cho họ. Đây là dịp thuận tiện cho chúng ta thực hiện tình yêu thương ấy cho chính mình và cho người khác. Mọi người đang cần tình yêu, cần sự chia sẻ nỗi đau trong đại dịch Covid-19. Đừng chần chừ nữa, hãy mau lên đường như Chúa Giêsu mời gọi “hãy ra đi loan báo Tin Mừng yêu thương”.

Lạy Chúa là Thiên Chúa toàn năng, xin soi lòng mở trí cho chúng con thấy rõ đâu là mệnh lệnh đích thực mà Chúa Giêsu mời gọi chúng con mỗi ngày. Nhờ đó, chúng con mau mắn thi hành và sẵn sàng bước đi trên con đường dẫn tới nơi ở mà Chúa Giêsu đã chuẩn bị cho chúng con. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen. mục lục

Anna Cỏ May

KẾ HOẠCH ĐẦY THAM VỌNG

Khi Chúa Giê-su hoàn tất sứ mạng dưới thế, Người trở về trời. Thiên thần Gáp-ri-en ra đón Người từ xa. Vừa gặp, thiên thần lên tiếng hỏi: “Lạy Chúa, công trình Chúa được tiếp tục thế nào nơi trần gian ?” - “Ta đã có mười hai Tông đồ, một nhóm môn đệ và vài phụ nữ. Ta đã trao cho họ sứ mệnh rao giảng Tin Mừng tới mút cùng trái đất và tận cùng lịch sử.” Nghe Chúa trả lời, thiên thần Gáp-ri-en như chưa thỏa mãn, bèn hỏi lại: “Nhưng nếu nhóm nhỏ bé đó thất bại thì Chúa có chương trình nào khác không?” Chúa mỉm cười quả quyết: “Ta không dự trù kế hoạch nào nữa. Ta tin tưởng vào họ!”

1. Một kế hoạch đầy tham vọng.

Lời Chúa hôm nay là cảnh cuối cùng trong Tin Mừng Mát-thêu. Nó không hẳn là 1 trình thuật Phục sinh nhưng cũng hơn một trình thuật Phục sinh. Nghĩa là đoản văn này không giống các trình thuật chi tiết về Phục sinh của 4 Tin Mừng, vì quá cô đọng và chỉ phác họa sơ qua quang cảnh. Nhưng nó cũng hơn hẳn một trình thuật Phục sinh, vì tầm mức của các lời Đấng Phục sinh nói (cc.18-20: khẳng định về quyền lực của bản thân và mệnh lệnh truyền ban cho môn đệ) vượt xa những gì mà các trình thuật khác về Phục sinh chứa đựng.

Xét theo con mắt loài người, đó là một sự tin tưởng quá đáng, vì kế hoạch của Chúa Giê-su là một kế hoạch đầy tham vọng, mà lại được giao cho những kẻ quá ư ít ỏi và bất toàn. Này xem: “Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm cho họ trở nên môn đệ của Thầy”. Chúa Giê-su muốn mười một Tông đồ chinh phục toàn thể vũ trụ, hết thảy loài người trên trái đất. Trường hoạt động của Đức Ki-tô qua Nhiệm thể Người phải bao trùm cả không gian. Tiếp đến: “Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.” Toàn thể hành vi con người phải tuân phục quyền bá chủ của Đấng sống lại. Làm môn đệ trước hết không phải là một thái độ tri thức. Huấn giáo trước hết chẳng phải là việc thông truyền một số khái niệm, nhưng là việc tập một cách sống bao trọn mọi khía cạnh của cuộc đời. Sau hết: “Làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.” Người tông đồ sẽ phải giới thiệu cho thế giới mầu nhiệm khó hiểu nhất trong mọi mầu nhiệm: Thiên Chúa Ba Ngôi, thực hiện công việc khó khăn nhất trong mọi công việc: làm cho nhân loại thông hiệp với nhau để đi vào mối hiệp thông với Ba Ngôi Thiên Chúa.

Phân tích chi tiết, ta thấy huấn thị của Đức Giê-su (cc.19-20a) được kết cấu cách rõ ràng. Khẳng định chính yếu và quan trọng là: phải thâu nạp môn đồ khắp muôn dân (làm cho muôn dân trở thành môn đệ). Động từ mathêteuein (thâu nạp môn đồ) làm cho mệnh lệnh truyền giáo của Mt có màu sắc thật đặc biệt. Từ ngữ đó ý nghĩa hơn chữ “loan báo” (kêrussein) mà ta có thể gặp trong các bản văn tương tự (x. Mc 13,10; 14,9; 16,15; Lc 24,47). Đây không phải chỉ là trình bày, trao sứ điệp, nhưng còn phải đưa người ta vào một mối tương giao mật thiết và cá nhân. Kiểu mẫu của tương giao này là mối tương giao giữa Đức Giê-su lịch sử với các môn đồ Người đã gọi. Họ đã được mời theo Người, Người đã dạy họ, kết nghĩa với họ bằng một mối dây liên vị (chứ không bằng một giáo huấn hay một truyền thống trường phái nào đó). Kiểu mẫu đó từ đây trở nên quy phạm cho mọi Ki-tô hữu: tiếng “môn đồ” một cách nào đó là câu định nghĩa ngắn nhất về Ki-tô hữu vậy.

Nội dung tình trạng Ki-tô hữu này được xác định bằng hai động từ “rửa tội họ… dạy dỗ họ”. Hai phân từ nối đuôi nhau như thế là một câu tiếp liên nói lên việc cụ thể hóa cách hợp lý chuyện thâu nạp môn đồ: phép rửa tội và lời giảng dạy làm nên tình trạng Ki-tô hữu. Cả hai động từ đó đều lệ thuộc câu “Hãy làm cho muôn dân trở thành môn đệ” và minh giải câu này. Trong sách Đi-đa-khê (Didaché, Giáo huấn của các Tông đồ, khoảng cuối thế kỷ I CN), hai việc được trình bày theo một trật tự ngược lại: “Sau khi đã nói tất cả các điều đó, hãy rửa tội…” (7,1). Chẳng sao cả!

2. Thực thi kế hoạch bằng tình yêu.

Để thực hiện kế hoạch đầy tham vọng nói trên : giới thiệu Thiên Chúa tình yêu và đưa vào trong tình yêu Thiên Chúa tất cả bản thân mỗi người và toàn thể vũ trụ nhân loại, các môn đệ chỉ có một cách là sống yêu thương: “Thiên Chúa là tình yêu. Ai yêu mến thì đã được Thiên Chúa sinh ra và được biết Thiên Chúa. Ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa” (1 Ga 4,7.16). Trong tình yêu! Nếu bạn ngập ngừng, nếu bạn giậm chân trước các lời mời gọi yêu thương, nếu bạn không đi vào trong đức ái huynh đệ, bạn sẽ không đi vào trong Thiên Chúa, sẽ không biết Thiên Chúa. Mối giây liên kết việc yêu anh em và biết Thiên Chúa là một giáo huấn rất được Gio-an nhấn mạnh; tuy thế nó xem ra ít được đánh giá đúng mức: “Nói cho chúng tôi về Thiên Chúa đi!” vài người bảo - “Hãy quyết định yêu anh em mình hơn nữa : tình yêu sẽ nói về Thiên Chúa cho bạn.”

Và lúc ấy, các từ cũng sẽ có thể nói điều gì đó về mầu nhiệm Thiên Chúa, đặc biệt các từ của Tin Mừng hôm nay. Nhờ Đức Giê-su, chúng ta khám phá trong Thiên Chúa có nhiều dòng tình yêu mạnh đến nỗi chúng ta đã gọi đó là các “Ngôi vị”: Cha sinh ra Con, Con biểu lộ Cha, cả hai yêu nhau trong Thánh Thần. Thiên Chúa là tình yêu trong chính Người, bản tính Người là tình yêu, do đó vì sao yêu mến anh em làm cho chúng ta nhập tịch vào xứ sở Thiên Chúa, làm cho chúng ta thở không khí Thiên Chúa, dạy cho chúng ta các thói quen của Thiên Chúa, làm cho chúng ta nhận biết Người. Và thái độ không yêu, từ chối thương mến, khiến chúng ta xa Thiên Chúa tới độ những gì nghe nói về Người chẳng còn có thể tác động đến chúng ta nữa.

Thiên Chúa đã không tạo nên chúng ta để khỏi ở một mình, Người tạo nên chúng ta vì sự sống-tình yêu của Người bùng vỡ thành các tình yêu. Người yêu thương chúng ta vì Người là tình yêu chứ không phải vì chúng ta dễ thương, đáng mến. Chính Người biến chúng ta thành “dễ thương”, ban cho chúng ta các khả năng trở nên một kẻ Người luôn luôn có thể yêu hơn nữa. Để hiểu rõ điều này, cần phải đọc Ê-dê-ki-en 16. Có một cái gì trong đó làm ta phát khóc vì xấu hổ và vì yêu mến, nhưng vị ngọt tình yêu ấy nhận chìm nỗi xấu hổ và mọi nghi hoặc. Sau khi đọc nó, ta sẽ biết Thiên Chúa là Sự Sống-Tình Yêu đến độ nào. Khi nghĩ đến nó, ta sẽ củng cố nhiều xác tín giúp ta sống thực sự: ta sẽ hiểu tình yêu là tất cả, giải thích tất cả, động lực của tất cả, mục đích của tất cả. Được Tình Yêu tạo dựng, chúng ta chủ yếu được kêu gọi để trở thành những hữu thể-mến thương. Tại sao phải lang thang xa chân lý-mặt trời này?

Chúng ta có thể thoáng thấy tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa bằng cách nhìn ngắm Đức Giê-su. Người được Cha thán phục: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 17,5), thường xuyên hướng về Cha: “Chúa Cha ở trong tôi và tôi ở trong Chúa Cha” (Ga 10,38) và say mê ao ước làm đẹp lòng Cha nhờ Thánh Thần: “Tôi hằng làm những điều đẹp ý Chúa Cha” (Ga 8,29). Đấy chẳng phải là một cái gì đó cần phải sống giữa chúng ta sao? Chúng ta quá rụt cổ vào trong cuộc sống của mình, rất ít đi ra với tha nhân, rất ít thán phục nhân cách của họ, các mạo hiểm của họ, không mấy thích làm họ đẹp ý, vui lòng. Rốt cục là bại liệt bởi muôn ngàn nỗi sợ bị phiền nhiễu, bị ăn lấy, hay bởi những sáng suốt đáng buồn, tàn nhẫn: y là thế đó, ả là thế kia, vậy mà anh muốn tôi cho họ rất quan trọng, phải thương mến à?

Dĩ nhiên, không thể như Cha, Con, Thánh Thần đối với nhau thế nào thì loài người chúng ta cũng đối với nhau thể ấy. Tuy nhiên, sự sống-tình yêu của Các Đấng vẫn là mẫu mực cao cả, khuyến khích chúng ta nghĩ rằng dù có các dị biệt lớn lao, chúng ta vẫn có thể sống hợp nhất. Đừng để mình bị cám dỗ muốn tất cả phải giống nhau hoàn toàn (như kiểu các chế độ và lãnh đạo độc tài). Chính Đức Giê-su cũng đã nhìn chúng ta như một nhân loại ba ngôi: Ước gì họ nên một như Cha và Con là một (x. Ga 17,21). Tuy nhiên Người biết chúng ta lắm đấy! Và Người không mắc thói quen ảo tưởng. Phải chăng chúng ta dám nghĩ mình thực tế hơn Người?

Chúng ta có đủ lý do để tin Người và thực hiện ước vọng hiệp nhất của Người. Vì “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất”: không gì có thể thoát khỏi quyền của Đấng từ nay là Chủ tể của toàn thể thụ tạo, Đấng từ nay ngang hàng với Đức Chúa “toàn năng, tạo thành trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình”, Đấng “đã được tôn lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại mà cả trong thế giới tương lai… đã được Thiên Chúa đặt làm đầu toàn thể Hội Thánh, thân thể của Người” (Ep 1,21-23, bài đọc 2). Và vì “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”: Sự hiện diện của Chúa phục sinh, vốn đầy khắp mọi chốn không gian, cũng bao trùm toàn bộ thời gian. “Ta là An-pha và Ô-mê-ga, là Đấng Đầu Tiên và là Đấng Cuối Cùng, là Khởi Nguyên và Cùng Tận” (Kh 22,13). Sứ mệnh lớn lao, kế hoạch đầy tham vọng Đức Giê-su giao cho môn đệ hôm nay chắc chắn sẽ thành tựu. mục lục

Lm. Phêrô Phan Văn Lợi

ĐỨC KITÔ SỐNG LUÔN MÃI CÙNG CHÚNG TA MỘT CÁCH THÂM SÂU

Việc Chúa Giêsu bị bắt giữ, bị đánh đòn, vác thập giá, bị đóng đinh một cách tàn nhẫn và chết nhục nhã trên thập giá là một trải nghiệm cay đắng hầu như không thể chịu nổi và cũng không thể hiểu nổi đối với các môn đệ của Chúa Giêsu. Các môn đệ của Chúa Giêsu đã cảm nhận một sự mất phương hướng sâu sắc; nó phá hủy chỉ trong vài giờ những hy vọng và ước mơ lớn lao nhất trong cuộc đời mà họ tất cả đều ấp ủ trong lòng. Họ đã mất đi một người mà họ yêu quý và ngưỡng mộ trong một cuộc hành quyết tàn bạo. Thầy Giêsu của họ đã chết, đã được chôn cất trong mộ đá niêm phong (Mt 27:62-66). Họ đã tận mắt chứng kiến mọi việc đó (Mt 27:57-61). Thế là hết! Mọi giấc mơ huy hoàng lung linh vốn vẫn còn là hiện thực trong cuộc rước Thầy vào Thành Thánh Giêrusalem dăm ngày trước thì hôm nay đã lung lay và sụp đổ tan tành trong u uất!

Thế nhưng điều kinh ngạc lại đã xảy ra, mà còn vô cùng kinh ngạc hơn những phép lạ mà Thầy Giêsu quyền năng đã từng thực hiện khi Ngài còn sống với họ: họ tận mắt nhìn thấy, tận tay sờ vào Chúa Giêsu còn sống đến với họ (Mt 28:9). Không có gì trong lịch sử dân tộc Do Thái hoặc đức tin Do Thái giáo của họ, từ các tổ phụ Abraham, Isaac, Giacóp, các thủ lãnh tầm cỡ như Môsê, hoặc các tiên tri vĩ đại như Êlia, Êlidê, Isaia… đã chuẩn bị cho họ những gì đang xảy ra. Thật ra, họ, và cả các tổ phụ, các thủ lãnh, các tiên tri đã không hiểu hết, mà cũng không thể hiểu hết những gì đã được Sách Thánh nói về việc này và mường tượng ra được những gì sẽ xẩy ra một cách cụ thể như bài đọc thứ nhất trích sách Công vụ Tông đồ mô tả: “Ngài lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Ngài vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: trong bốn mươi ngày, Ngài đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa” (Cv 1:3).

Hôm nay Thánh Mátthêu tường thuật cuộc gặp gỡ cuối cùng của Chúa Giêsu với các môn đệ của Ngài và những lời cuối cùng của Chúa Giêsu khép lại Tin mừng. Các Tông đồ được “bà Maria Mácđala và một bà khác cũng tên là Maria” (Mt 28:1) kể lại lời Thầy: “Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Galilê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó” (Mt 28:10), các ông lại tuân theo, dù không biết mình sẽ gặp điều gì khác nữa. Galilê là nơi bắt đầu tất cả câu chuyện và dường như Galilê sẽ lại đánh dấu một khởi đầu mới. Thật khó để tưởng tượng hành trình sắp tới của họ như thế nào, nhưng đó hẳn là một chuyến đi đáng nhớ. Đó là chuyến hành trình cuối cùng, với đầy những cuộc trò chuyện dài tập trung tìm hiểu ý nghĩa của những sự kiện đã xảy ra, khiến tâm trí khó hiểu, và tự hỏi điều gì sẽ xảy ra tiếp theo. Khoảnh khắc cuối cùng này được ở cùng với Chúa Giêsu sẽ là một thời điểm quan trọng đối với các Tông đồ. Họ đã mất tất cả mọi thứ trong những sự kiện thảm khốc xảy ra trước đó, và họ đang trên đường khám phá xem điều gì sẽ xảy ra tiếp theo: “Mười một môn đệ đi tới miền Galilê, đến ngọn núi Chúa Giêsu đã truyền cho các ông đến” (Mt 28:16).

Gặp lại Chúa Giêsu tại Galilê, phản ứng của các môn đệ có phần khác xưa, không còn là cung cách ứng xử đối với một con người phàm trần: khi nhìn thấy Chúa Giêsu, họ bái thờ Ngài. Chúa Giêsu “đã trỗi dậy từ cõi chết” (Mt 28:7), Ngài đã Phục Sinh, dù vẫn là con người nhưng toàn bộ con người của Ngài, kể cả thân xác, không còn lệ thuộc “cái thân phải hư nát này” mà đã “mặc lấy sự bất tử” (1 Cr 15: 54). Thầy Giêsu của họ đã chết thật, thế mà bây giờ họ lại thấy Thầy hiện diện rõ ràng ở đây! Họ bán tín bán nghi: “có mấy ông lại hoài nghi” (Mt 28:7). 

Việc tôn thờ không đi đôi với sự nghi ngờ. Trên thực tế, nhiều người cảm thấy nghi ngờ, nhưng họ vẫn không thừa nhận điều đó. Ở đây sự hoài nghi của mấy môn đệ không có nghĩa là không tin mà chỉ là chưa nhận thức đủ rõ ràng về một tình huống phát sinh từ một hoàn cảnh bất thường, thậm chí không thể có thật được. Sự hiểu biết của các môn đệ về thế giới và về cách thế mà Thiên Chúa đã thực hiện công trình Cứu độ của Ngài không như những gì họ vẫn tưởng nghĩ. Chúng ta cần phải thừa nhận nhiều khi chính mình cũng nghi ngờ nhiều điều Giáo Hội, khi tiếp bước các Tông Đồ theo lệnh truyển của Chúa Kitô Phục Sinh, giảng dạy ngày nay. Vì thế, tất cả chúng ta, giống như các môn đệ xưa, đều phải nỗ lực để hiểu được công việc lạ lùng của Thiên Chúa trong Chúa Kitô, và cần quyết tâm cố gắng, bằng mọi cách có thể, tìm hiểu càng sâu sắc càng tốt về Chúa Kitô tử nạn và sống lại, qua các giáo huấn của Giáo Hội, trong tâm tình tĩnh nguyện suy ngẫm nhằm đạt tới mức chiêm niệm, như Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai đưa chúng ta ra khỏi sự bất an và thiếu hiểu biết đó: “Tôi cầu xin Chúa Cha vinh hiển là Thiên Chúa của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ban cho anh em thần khí khôn ngoan để mặc khải cho anh em nhận biết Ngài. Xin Ngài soi lòng mở trí cho anh em thấy rõ, đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Ngài kêu gọi, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh, đâu là quyền lực vô cùng lớn lao Ngài đã thi thố cho chúng ta là những tín hữu. Đó chính là sức mạnh toàn năng đầy hiệu lực” (Ep 1:17-19). Nhờ sức mạnh toàn năng đó, chúng ta có thể tập trung vào Chúa Kitô vinh quang, là Đấng đã được “tôn lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai. Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Chúa Kitô và đặt Ngài làm đầu toàn thể Hội Thánh” (Ep 1:21-22).  

“Được trao toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28:18), chính Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh đã truyền cho các Tông đồ, và cũng là cho mỗi người chúng ta hôm nay: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28:19-20).

Giờ đây những lời từ biệt của Chúa Giêsu với các môn đệ của Ngài trở thành một lệnh truyền mà chúng ta thường nghe, nhất là trong Lễ Khánh Nhật Truyền Giáo, tại các nhà thờ, các buổi hội thảo truyền giáo…“Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.” Trong tất cả các tác giả sách Tin mừng, Thánh Mátthêu nói nhiều đến việc dạy bảo những người trở thành môn đệ của Chúa Giêsu làm theo mọi điều Ngài đã truyền. Điều này tuân theo chỉ dẫn của chính Chúa Giêsu: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành” (Mt 5:17-19) và “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa! lạy Chúa! " là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7:21), trong đó Ngài nhấn mạnh sự cần thiết phải làm theo những gì Ngài dạy chứ không chỉ đơn thuần là nói suông. Hành động của chúng ta phản ánh niềm tin của chúng ta. Những lời tuyên bố về đức tin rất quan trọng trong cộng đoàn, nhưng đức tin không có hành động thích hợp thì “như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành” (Mt 7:26-27).  

Thánh Mátthêu kết thúc sách Tin mừng của mình với câu nói có lẽ là một trong những câu nói an ủi nhất trong Kinh thánh: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20). Tin mừng mở đầu bằng một lời khẳng định tương tự: “Tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là "Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (Mt 1:23). Lời này nhắc chúng ta nhớ đến con người của Chúa Giêsu trong cuộc sống trần gian của Ngài – Đấng đã chia sẻ không gian, thời gian, lịch sử với con người, sống và hiện diện với họ, đồng thời cho con người thấy Thiên Chúa là như thế nào. Giờ đây, trước khi trở về cùng Chúa Cha, Chúa Giêsu, với tư cách là Chúa của tất cả, hứa sẽ ở với chúng ta, với Hội thánh, luôn mãi, cho đến khi mọi sự hoàn tất. Sự hiện diện liên tục, lâu dài này của Chúa Giêsu là một nguồn an ủi sâu xa cho tất cả các môn đệ của Ngài.

Cốt lõi đời sống của mỗi môn đệ Chúa Kitô là sống theo những lời dạy của Chúa Giêsu với tư cách là nhân chứng cho Ngài trong môi trường sống hàng ngày của họ. Và nền tảng sâu xa nhất của đời sống này chính là lời Chúa Giêsu hứa ở trên: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” Lời hứa này hướng các môn đệ Chúa Kitô tới một tương lai còn nhiều việc cần làm. Nói cách khác, câu chuyện về “Chúa Giêsu lịch sử” của Mátthêu chưa kết thúc ở đây mà hướng chúng ta đến một kỷ nguyên mới trong sứ mệnh phổ quát của Giáo hội, một Giáo hội thực hiện các nỗ lực của mình dưới sự bảo vệ của Chúa Kitô phục sinh, một “Hội Thánh là thân thể Chúa Kitô, là sự viên mãn của Ngài, Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (Ep 1:23). mục lục

Phêrô Phạm Văn Trung

LÀM CHỨNG CHO CHÚA KITÔ PHỤC SINH: BÁC ÁI – THA THỨ & LẠC QUAN

Sau  khi  sống  lại  từ  cõi  chết,  và  trước  khi  về  trời,  Chúa Giêsu đã trao cho các môn đệ của Ngài, trong đó có tôi và có bạn, một nhiệm vụ hết sức quan trọng và khá là nặng nề, đó là "Phải nhân danh [Ngài]mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” (Lc 24:47).

Tuân theo mệnh lệnh của Chúa, các Tông Đồ, và các môn đệ đã cố gắng làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh trong mọi hoàn cảnh và trong mọi nơi, mọi lúc. Có thể nói việc làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh của họ rất đa dạng và phong phú. Ngoài việc rao giảng về Đức Giêsu Kitô Phục Sinh bằng lời nói ra, các ngài còn làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh qua nhiều cử chỉ, hành động và những thái độ thật tuyệt vời khác nữa, ví dụ như:

• Các ngài đã làm những việc bác ái, giúp đỡ cho người túng cực thiếu thốn và cho những người lâm vào cảnh bất hạnh: “Khi nạn đói xảy ra dưới thời hoàng đế Cơ-lau-đi- ô. Các môn đệ mới quyết định là mỗi người tuỳ theo khả năng, sẽ gửi quà giúp đỡ anh em ở miền Giu-đê. Và họ  đã làm việc ấy: gửi đến cho hàng kỳ mục qua tay ông Ba- na-ba và ông Sao-lô” (Cv 11:28-30).

• Các ngài đã tha thứ cho kẻ thù. “Họ ném đá ông Tê-pha- nô, đang lúc ông…quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng: ‘Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này.’ Nói thế rồi, ông an nghỉ” (Cv 7:59-60).

• Các ngài đã lạc quan, vui vẻ chấp nhận hy sinh, chịu sỉ nhục và chịu bách hại vì danh Ngài: “Họ cho gọi các Tông Đồ lại mà đánh đòn và cấm các ông không được nói đến danh Đức Giê-su, rồi thả các ông ra. Các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giê-su” (Cv 5:40-41).

Bạn thân mến, để có thể tiếp tục sứ mạng rao giảng và làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh, bạn và tôi cũng hãy cố gắng noi gương bắt chước các ngài:

• LÀM VIỆC BÁC ÁI: Rộng rãi, quảng đại giúp đỡ về mặt vật chất cho Giáo Hội, cho các dòng tu trong việc mở mang, xây dựng và bảo trì các bệnh viện, trường học, trại mồ côi, trại tị nạn, trung tâm dạy nghề, những cơ quan bác ái…Bởi vì nhờ và qua những nơi này, các linh mục, các tu sĩ nam nữ và các nhà truyền giáo mới có dịp đem Tin Mừng của Chúa đến cho tha nhân. Không có những cơ sở vật chất lo cho việc giáo dục, chữa lành và giúp đỡ cho những người nghèo đói…thì khó lòng mà người ta biết đến Tin Mừng của Chúa Giêsu Phục Sinh lắm! Tiền bạc là một tên đầy tớ rất tốt trong việc truyền giáo, bạn là chủ của nó, bạn hãy sai bảo nó đi truyền giáo thay cho bạn nhé!

• SỐNG THA THỨ: Khi tha thứ và bỏ qua những lỗi lầm và những yếu đuối bất toàn của vợ, của chồng, của con cái, của các Giám Mục, của các linh mục, của các tu sĩ, của bạn bè…thì lúc đó, bạn và tôi đang làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh, Đấng đã tha thứ cho những kẻ ngược đãi, hành hạ và giết Ngài: “Lạy Cha, xin Cha tha cho họ, vì họ không biết những việc họ làm!” (Lc 23:34).

• SỐNG VUI VẺ, LẠC QUAN: Trong mọi hoàn cảnh, trong những biến cố vui hay buồn, nhất là trong thời kỳ kinh tế khủng hoảng, lạm phát gia tăng, nạn trộm cướp, bắn giết gia tăng, rồi tình trạng luân lý đạo đức suy đồi, phá thai, xì ke ma túy lan tràn... mà bạn và tôi vẫn sống lạc quan, tin tưởng, vui vẻ, không than vãn, không càm ràm, không than trời trách đất…nhưng luôn tin tưởng, phó thác, và xác tín rằng, Thiên Chúa là Đấng quyền năng vô cùng, Ngài để những sự ác xảy ra như vậy để thế giới này, trong đó có bạn và tôi, phải cảnh tỉnh, bớt kiêu căng, bớt ngạo mạn, bớt hống hách, và phải kính sợ Thiên Chúa.

Để có thể chu toàn nhiệm vụ làm nhân chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh, thánh Phaolô khuyên chúng ta phải cậy dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa (2 Tm 1:8). Chúng mình phải cậy dựa vào sức mạnh của Chúa bởi vì Ngài đã khẳng định “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được!” (Ga 15:5). Sức mạnh của Thiên Chúa ở đâu?  Xin thưa, sức mạnh và ơn trợ giúp của Thiên Chúa ở trong việc cầu nguyện, trong cuốn Kinh Thánh và ở trong các Thánh Lễ Misa; vì thế nếu bạn và tôi siêng năng cầu nguyện, thường xuyên đọc Lời Chúa, tham dự thánh lễ và rước Mình Thánh Chúa, thì chúng mình sẽ có đủ sức để chu toàn sứ vụ làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh.

Xin Chúa Kitô Phục Sinh, qua lời chuyển cầu của Đức Mẹ Lavang, ban cho bạn và những người thân yêu của bạn sự bình an, sức khỏe và xin Ngài gìn giữ mọi người khỏi những hiểm nguy hồn xác. Và khấn xin Chúa gia tăng nghị lực, ban thêm niềm tin cho mỗi người chúng ta, để trong mọi hoàn cảnh, dù vui hay buồn, dù may mắn hay bất hạnh, lúc khỏe cũng như lúc đau yếu, bạn và tôi vẫn luôn tin cậy, phó thác vào bàn tay quan phòng của Chúa. mục lục

Lm. Đaminh Phạm Tĩnh, SDD

THẦY Ở VỚI ANH EM

“Chúa về trời là niềm hy vọng sự sống đời sau, cho con dự phần vinh quang ngàn đời bằng cuộc sống hôm nay dựng xây thế giới. Chúa về trời là Thiên Đàng rộng mở từ nơi thế trần, từ nơi tâm hồn của mỗi người, bằng đón nhận tin yêu và sống tin yêu” (Khúc ca “Chúa Về Trời” – Lm. Thái Nguyên). Chúa Giêsu đã về trời nhưng Ngài không cách xa con người. Ngài vẫn ở với chúng ta như lời Ngài đã hứa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).

Chúa Giêsu Thánh Thể vẫn ở mãi với chúng ta, Ngài đến và cư ngụ nơi tâm hồn mỗi người. Có Chúa trong tâm hồn, cuộc đời chúng ta sẽ an vui và hạnh phúc. Cảm nhận sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa Giêsu trong chính tâm hồn mình, trong cuộc sống với những biến cố buồn vui, chúng ta sẽ luôn nhận thấy mình là người được yêu. Chúng ta đã đón nhận tình yêu bao la của Chúa và sẽ không ngừng đáp trả tình yêu ấy bằng cách sống trong sự hướng dẫn của Thánh Thần Tình Yêu. Khi yêu ai, người ta rất muốn thực hiện tất cả những gì người yêu ao ước, cả những lời nhắn nhủ yêu thương.

Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã nói cùng với các môn đệ: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,18-20). Chúng ta hãy mau mắn thi hành lệnh truyền của Chúa Giêsu bằng một đời sống đượm nồng tình yêu. Mỗi ngày, chúng ta hãy dành thời gian ở lại bên Chúa Giêsu, trong sự thinh lặng của tâm hồn, hãy lắng nghe, hãy để Lời lên tiếng. Lời Chúa sẽ dẫn chúng ta đi đúng đường để đến với Chúa Cha, đến với anh chị em và tìm thấy chính mình. Chấp nhận để cho Lời lên tiếng cũng đồng nghĩa với việc đón nhận ánh sáng của Lời, ánh sáng chiếu dọi vào nơi tăm tối của tâm hồn, Lời sẽ cho ta thấy sự thật về chính mình, về những ân huệ mình nhận được và cả những điều thiếu sót, những vấp ngã của chính mình. Lời sẽ làm cho chúng ta cất lên lời tạ ơn Thiên Chúa về những ân huệ mình nhận được cách nhưng không, và Lời cũng giục lòng ta sám hối về những tội lỗi đã phạm và ban ơn giúp ta can đảm canh tân đời sống. Chúng ta không chỉ nỗ lực sống thánh thiện nhưng còn có trách nhiệm giúp đỡ anh chị em mình sống thánh thiện nữa.

Để có thể giúp người anh chị em tuân giữ mọi điều Chúa Giêsu truyền dạy, chính ta phải là người đã thấm nhuần những lời dạy dỗ yêu thương của Chúa. Thiên Chúa là Cha giàu lòng xót thương, Người luôn sửa dạy ta bởi vì Người yêu thương ta, bao bọc ta cả sau lẫn trước. Đây là lời khuyên nhủ dành cho ta: “Con ơi, đừng coi nhẹ lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Người khiển trách. Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt. Anh em hãy kiên trì để cho Thiên Chúa sửa dạy. Người đối xử với anh em như với những người con. Thật vậy, có đứa con nào mà người cha không sửa dạy? (Dt 12,5-7). Quả thật, chúng ta là con Thiên Chúa, những đứa con được Người yêu thương, săn sóc và dạy dỗ.

Lạy Chúa Giêsu! Chúa đã yêu con và hiến mình vì con. Dõi bước theo Ngài, con không sợ vấp ngã vì có Chúa vẫn hằng ở với con luôn. Chúa đã về trời để dọn chỗ cho con. Con biết rằng Chúa yêu con thật và con cần phải nỗ lực cộng tác với ơn Chúa, sống trong sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa và con có bổn phận để giới thiệu Chúa cho anh chị em con, những người vẫn được Chúa yêu thương mà chưa được nhận biết Chúa. Con xin dâng lên Chúa công cuộc truyền giáo của Giáo hội, xin cho mỗi người Kitô hữu chúng con luôn để Lời Chúa soi sáng và đốt lòng chúng con yêu mến Chúa, yêu thương tất cả anh chị em. Xin cho lửa nhiệt tình truyền giáo cháy lên trong lòng chúng con. Amen. mục lục

Bông hồng nhỏ

CHÚA VỀ TRỜI CÒN CHÚNG TA RA ĐI

Ngay trước khi về trời, Chúa Phục Sinh trao gởi vừa là lời di chúc, vừa là lời hiệu triệu, vừa là mệnh lệnh, để Hội Thánh, tiếp nối sứ mạng của Ngài: "Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con".

1. DANH DỰ.

Như vậy “Hãy đi” là lệnh truyền của Chúa. Ra đi là sứ mạng của từng Kitô hữu. Sứ mạng ra đi bắt nguồn từ lệnh truyền “hãy đi”. “Hãy đi” là ơn gọi Chúa trao. Ra đi là danh dự, một danh dự bao gồm nhiều lý do. Lý do nào cũng lớn:

Được lãnh nhận chính ơn gọi Chúa trao.

Được lãnh nhận sức mạnh của ơn Chúa để thực thi sứ mạng. Vì sứ mạng nào cũng đi liền với ơn ban phù hợp sứ mạng ấy.

Được tham dự vào quyền làm ngôn sứ, quyền mục tử của Chúa Kitô.

Được tiếp nối công trình, đồng thời thực thi chính công việc Chúa đã làm.

Được hiến dâng đời mình như chính Chúa Kitô đã hiến dâng.

Được tham dự vào thừa tác vụ cứu độ của Chúa Kitô. 

Được tham dự vào tình yêu của Chúa Kitô để trao ban tình yêu ấy.

Được đáp trả bằng tình yêu muôn đời Chúa dành cho tôi trung của Chúa.

Được nên “bạn hữu” của Chúa Kitô: “Thầy không gọi anh em là tôi tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15,15).

Được lãnh nhận ơn cao vời, nguồn mạch sự sống và sức sống của đời Kitô hữu là chính Chúa Thánh Thần.

Tất cả mọi người, không phân biệt già trẻ, trai gái, sang hèn… đều được mời gọi “hãy đi”. Vì thế, Kitô hữu hãy ý thức trong từng nhịp sống, qua tất cả mọi sinh hoạt, mọi suy nghĩ, mọi hành động… là chu toàn sứ mạng ra đi, "Giảng dạy cho muôn dân tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền". Từ đó “làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy”. 

Ra đi như thế, Kitô hữu là cánh tay nối dài của Chúa Kitô vươn tới mọi người, mọi môi trường, mọi hoàn cảnh sống, nhờ đó Chúa Kitô tiếp tục ở lại trong mọi người, giữa trần thế. 

Đó là danh dự lớn lao của người Kitô hữu. Danh dự này chắp cánh cho ước mơ sống vĩnh cửu trong Nhà Cha, nơi Chúa Kitô đã dọn sẵn (Ga 14,2-4) cho những ai trung thành hoàn thiện ơn gọi đời mình. 

Trong sứ mạng ra đi thực hiện lệnh truyền của Chúa, có thể nói, các Kitô hữu thay mặt Chúa hiện diện giữa lòng đời với anh chị em và vì anh chị em. 

Bởi thế, trên hết mọi sự, Kitô hữu hãy ý thức thật cao, thật sâu sứ mạng ra đi của mình. Nhưng chỉ có thể ý thức sứ mạng, họ rời ánh mắt tâm linh hướng về Chúa Kitô, chiêm niệm cuộc đời, hành vi, suy tư của Chúa Kitô… 

2. BÀI HỌC "RỬA CHÂN".

Nơi Chúa Kitô, bài học cho sự ra đi được thể hiện qua hành vi cao đẹp của Chúa trong nhà tiệc ly. Đó là hành động RỬA CHÂN:

Ra đi là quỳ xuống “rửa chân” cho anh chị em. Nghĩa là phục vụ anh chị em đến quên mình như Chúa Kitô. 

Ra đi là chấp nhận bỏ lại đàng sau mọi ổn định, an nhàn của cuộc sống. 

Ra đi là chấp nhận đối diện với tình trạng chông chênh, bấp bênh, thiếu thốn, mất mát…

Ra đi là bỏ lại đàng sau mọi thứ vướng bận, cồng kềnh của sự đời, của vật chất, của những gì không thuộc về Thiên Chúa, để từ đây dám chấp nhận hiến thân và tín thác hoàn toàn cho Chúa.

Ra đi là loại trừ mọi tính toán riêng tư, ích kỷ có nguy cơ làm cản trở bước chân đời tông đồ.

Ra đi là can đảm bước ra khỏi những lề thói, những não trạng, những nếp nghĩ, nếp sống… cũ mòn, có nguy cơ kéo đời sống thiêng liêng của ta ì ạch, mệt mỏi, ương lười…

Ra đi là tước bỏ cách sống thụ động, tìm an nhàn, an phận, để bảo đảm sự nhanh nhẹn nhất cho bước chân lên đường. Bởi con đường mà người được sai đi không phải là con đường ngắn, nhưng là con đường kéo dài tận cuộc đời. Trên con đường cuộc đời của người được sai đi, không phải toàn gấm hoa, nhưng chắc chắn sẽ đong đầy gai góc và nước mắt. Vì thế mới phải tước bỏ nhiều để có thể bền chí trước mọi thực tế thương đau.

Ra đi là tự trút bỏ ý riêng để theo ý Chúa. Bởi chỉ có thể trút bỏ hoàn toàn ý riêng, đi tìm ý Chúa, ta mới hiểu được ý Chúa trên suốt hành trình ra đi của mình. Nếu không, ta cũng sẽ bị Chúa quở trách như đã từng quở trách tông đồ Phêrô: “Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh là của loài người, chứ không phải tư tưởng của Thiên Chúa” (Mt 16,23).

Sứ mạng của người ra đi chỉ trở nên xứng đáng với ơn gọi của Đấng sai đi, khi sứ mạng đó luôn luôn được đặt trong tương quan và gắn bó mật thiết với chính Đấng sai đi. 

Người sống sứ mạng ra đi chỉ trở nên xứng đáng với Đấng trao ban ơn gọi khi người ra đi chấp nhận dấn thân đến cùng, dấn thân đến hao mòn, đến quên mình, đến không còn gì cho mình, mà chỉ dành cho Đấng đã sai mình như tông đồ Phaolô đã từng thốt lên: “Tôi sống nhưng không phải là tôi, mà là Chúa Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). mục lục

Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng

LỜI NGUYỆN CỦA CHÚA GIÊSU TRƯỚC GIỜ RA ĐI

Chúa Nhật CN Tuần 7 Phục Sinh_A

Lạy Chúa! Xin Chúa đừng ẩn mặt xa chúng con. Xin đoái thương nhận lời chúng con khẩn cầu, để chúng con tin tưởng Đấng Cứu Thế đang ngự trị giữa uy linh của Chúa thế nào, thì chúng con cũng cảm thấy Người ở với chúng con cho đến ngày tận thế như vậy theo như lời Người đã hứa. Chúa nhật này chú trọng đến lời nguyện của Chúa Giêsu với Chúa Cha, đặc biệt cho các Tông đồ trước giờ Chúa về trời.

Bài đọc 1 (Cv1:12-14) lấy từ chương mở đầu sách Công Vụ Tông Đồ. Sau khi Chúa về trời, các môn đệ trở lại Jerusalem để cầu nguyện. Maria và một số phụ nữ khác cũng có mặt ở đó. Họ liên tục cầu nguyện trong 9 ngày. Bài đọc này được trình bày như một câu truyện, mỗi chữ đều được nhấn mạnh và nói lên một đặc tính. Nơi xẩy ra là núi Oliu, giữa chỗ Chúa lên trời và việc chọn Mátthia thay thế cho Giuđa. Nếu là một sứ điệp thần học thì Luca muốn truyền đạt cho các tông đồ qua ba sứ điệp này là hiệp nhất và cùng nhau cầu nguyện. Ngoài ra, Luca giữ Jerusalem làm nơi hội họp và là trung tâm của Hội Thánh lúc đó đang xuất hiện. Chúa Giêsu cũng nói với các Tông đồ lúc Người lên trời là họ phải là chứng nhân cho Chúa giữa thế gian, và Jerusalem phải tiếp tục là trung tâm điểm của sứ mệnh của các Tông đồ.

Luca nhắc đến tên các Tông đồ như đã nói trong Tin Mừng Luca (Lc 6:12-16). Một tên sót lại lúc đó là Juda. Chúng ta có thể đoán Phêrô nghĩ là Juda cần phải thay thế để cho sứ mệnh chung được tiếp tục. Maria mẹ Chúa Giêsu cũng hiện diện tại đó ở lầu trên với các Tông đồ khi họ cầu nguyện và xin ơn được nhận định sáng suốt. Sự hiện diện của Mẹ quả là quan trong và hợp lý khi cộng đồng Kitô Giáo khởi đầu, bởi vì Mẹ đã từng hiện diện lúc Chúa Giêsu chào đời tại Bêlem cho đến lúc Chúa chết trên thập giá ở đồi Cavary, và là khuôn mẫu của tình môn đệ Chúa Kitô. Luca cũng nhắc đến những “anh em” của Chúa Giêsu cũng có mặt trong phòng cầu nguyện cùng với những phụ nữ khác. Vì trong Tin Mừng Luca chúng ta thấy những người đàn ông và phụ nữ này đều có mặt hầu như qua nhiều hành trình mục vụ của Chúa Kitô (x. Lc 8:1-3, 19-21 và 23: 49,55). Một cách tổng quát, tất cả như một, chủ đề của bài đọc này là các Tông đồ cùng nhau hành động, cùng nhau làm việc, cùng nhau cam kết, cùng nhau nhận định và cùng nhau suy nghĩ sáng suốt trong từng lời cầu nguyện.

Bài đọc 2 (1 Pr 4:13-16) là những lời nói có vẻ mệnh lệnh. Phêrô khuyên độc giả phải can đảm. Khẳng định này nghe có vẻ chõi tai, tương phản nhau một cách khác thường. Nói là nếu bạn đau khổ vì phạm tội ác thì là nỗi đau của ban. Còn nếu bạn đau khổ vì Chúa Kitô thì bạn đã vinh danh Chúa. Phải chăng Phêrô có ý nói chúng ta nên vui mừng khi chia sẻ đau khổ của Chúa Giêsu, vì chúng ta sẽ không bị hổ thẹn. Tuy nhiên nên nhớ là chớ xâm phạm đến quyền lợi và danh dự của người khác. 

Thư này thánh Phêrô viết cho Kitô hữu Rôma là thành phần thiểu số hiện sống ở những thị trấn thuộc Tiểu Á đang trong tình trạng nhớ quê hương. Thư viết có mục đích giúp những tín hữu này sống phù hợp với lối sống của Kitô giáo thường là đối nghịch với cách sống và văn hóa của dân ngoại. Tư tưởng của tác giả về đau khổ là tư thưởng thần học của thánh Phaolô: Khi người Kitô hữu chịu phép rửa, họ được dìm sâu vào sự đau khổ, cái chết và sống lại của Chúa Giêsu Kitô (x. Rm 6), họ sẽ có sức mạnh để đối đầu với mọi truy nã mà họ sẽ gặp phải.

Thư này cũng có mục đích chúc lành cho những ai bị nhục mạ và chịu đau khổ vì Chúa Kitô. Tuy nhiên người Kitô hữu, việc của mình, không phải tự nhiên đi tìm kiếm đau khổ khi không cần thiết. Tác giả nêu ra nhiều hình thức đau khổ như giết người và ăn cắp là những thứ có thể phát sinh ra đau khổ. Kitô giáo chỉ nói về đau khổ công chính và tự nhiên. Một người phải đau khổ và một người phải hy sinh vì từ chối chống lại sự thèm muốn xác thịt của mình thì xứng đáng được Thiên Chúa vinh danh và có Chúa Thánh Thần hiện diện trong đời sống của họ.

Bài Tin Mừng Phúc Âm hôm nay (Ga 17:1-11a) hầu như toàn thể Lời Chúa Giêsu là nói trực tiếp với Chúa Cha. Đây là những lời rất tự tin và quả quyết nhưng cũng phức tạp. Tuyên xưng với lòng tôn kính nhưng lại có ẩn ý và khó hiểu. Đoạn tin này được đưa ra vào phút chót lúc Chúa Giêsu sắp “giã từ”.  Người muốn các môn đệ có được sức mạnh để hoàn thành bổn phận do Người truyền dạy khi lìa thế gian (Ga 14-17). Chương 17 là một chương dài thuật lại cuộc cầu nguyện của Chúa Giêsu vinh danh Chúa Cha và xin cho các Tông đồ được kiên trì bền chí ở thế gian này. Lời cầu nguyện manh tính thời cánh chung được thể hiện ngay ở câu đầu khi Chúa cho biết “Giờ của Ta đã đến”. Ám chỉ cái chết của mình, Chúa Giêsu xin vinh danh Cha để về với Chúa Cha. Liền theo chương này là diễn tả cảnh Chúa Giêsu bị bắt và bị cực hình đóng đanh trên Thập giá. Đến đây, độc giả phải biết liên kết việc cầu nguyện này với lòng bền vững và sự can đảm phi thường mà Chúa Giêsu sẽ thi hành để chấp nhận ý nguyện của Thiên Chúa Cha là “Người đau khổ và chịu chết.”

Trong khi phần thứ nhất của lời nguyện chú trọng đến việc vinh danh mà Thánh giá ban cho, thì liền đó Chúa Giêsu nói ngay về tương lai của các môn đệ. Chúa nói rõ là Chúa đã làm mọi sự để thể hiện Chúa Cha cho những ai có lòng tin. Và họ là những người ưu tiên được nhận mạc khải của Thiên Chúa. Chúa Giêsu tin tưởng là lúc đó họ đã là thân quyến có liên hệ với Chúa Cha và Chúa Con. Mối liên hệ giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha đã đặt các môn đệ vào một tình trạng liên kết mới với Chúa Cha vì đã thuộc về Người và sống vì Người qua sự cam kết liên tục với Chúa Kitô.

Gần cuối bài Tin Mừng, Chúa Giêsu lại nói rõ là lời nguyện của Chúa có mục đích đem phúc lợi đến cho những ai tin vào Người. Chúa không cầu nguyện cho hết thảy tất cả mọi người, bởi vì thế giới trần gian đã không chấp nhận Người hay sứ điệp của Cha Người. Tin Mừng Gioan nhắm vào một sứ mệnh phổ quát cho toàn thể thế giới về Lời Chúa. Thánh sử Gioan rõ ràng đã nhận ra thế giới cũng là nhà cho nhiều người ác chống đối không chấp nhận tình yêu của Chúa. Tạo sức mạnh cho các môn đệ để thi hành sứ mệnh mà Chúa trao đang ở trước mặt đã được Chúa Giêsu nói đến bằng cách gọi họ là con và thuộc về Chúa Cha, cũng như Chúa Cha là của họ. Những ai tin vào Chúa Con và nhận biết là Chúa Cha đã sai Người đến thế gian cũng là một dấu hiệu vinh danh Thiên Chúa vậy. mục lục

Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD

 

VÀO ĐỜI, RA KHƠI

Hôm nay Con Chúa về Trời
Nghĩa là con phải vào đời từ đây
Vào đời một cách hăng say
Chứ không thụ động như ngày tháng qua
Sống yêu thương, sống thật thà
Sống như chính Chúa Giê-su đã truyền
Là luôn khiêm hạ, dịu hiền
Yêu thương, tha thứ, dấn thân suốt đời
Hôm nay Con Chúa về Trời
Nghĩa là con phải ra khơi lưới chài
Dù cho vất vả đêm ngày
Dù cho giông tố thuyền lay, sóng nhồi
Vững tin Chúa ở cạnh rồi
Con chèo chống vượt sóng đời sớm hôm
Xin thương cứu các linh hồn
Ban Chúa Thánh Thần, lạy Chúa Giê-su! 
mục lục

Viễn Dzu Tử

LỆNH TRUYỀN GIÁO 

(Suy niệm từ Mt 28,16-20)

Mười một Tông đồ tới núi cao 
Đợi chờ Chúa đến; (đúng giờ sao!)
Mừng vui, Chúa tỏ tình thương mến
Chúa bảo: Thầy khao khát biết bao.
 
Trên trời, dưới đất, Thầy cai quản
Cứu độ nhân gian cả xác hồn
Hãy rảo chân rao truyền Chính Đạo
Muôn dân sẽ nhận phúc trường tồn.
 
Thực thi Phép Rửa nhóm tân tòng
Nhận Chúa Ba Ngôi, sống cộng đồng
Thầy ở hằng ngày qua tận thế
Cùng anh em thể hiện truyền thông.
 
Hôm nay mừng lễ Chúa về Trời
Giáo Hội nhắc ta, hết mọi người:
Giữ vững niềm tin mà cộng tác
Tin Mừng rao giảng khắp muôn nơi. mục lục

(Thế Kiên Dominic)

Với mục đích để Lời Chúa được loan truyền và thông tin Giáo hội được lan tỏa, Legio Mariæ sẵn lòng để các tổ chức và cá nhân sử dụng lại tin bài đã đăng trên báo giấy và báo mạng legiomariævn.com của mình.

Tuy nhiên, vì đức công bằng và sự bác ái, xin quý vị vui lòng ghi đầy đủ nguồn như sau: “Theo Đạo Binh Đức Mẹ, website: legiomariævn.com”.

Ngoài ra, nếu chia sẻ bài lên mạng xã hội (Facebook, Twitter…), đề nghị dùng đường dẫn gốc trên website của Đạo Binh Đức Mẹ.

Tin liên quan