LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VN (CN 33 TN_A)
Lời Chúa: Cn 31,10-13.19-20.30-31; 1 Tx 5,1-6; Mt 25,14-30
TÀI NĂNG ĐỂ LÀM GÌ? - Lm. Yuse Mai Văn Thịnh, DCCT
LÀM CHO NHỮNG YẾN BẠC SINH LỢI GẤP ĐÔI - Phêrô Phạm Văn Trung
NHỚ NGÀY THANH TOÁN SỔ SÁCH - Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
HÃY LÀM NHỮNG YẾN BẠC SINH LỢI - Lm. Đaminh Pham Tĩnh, SDD
PHẦN RIÊNG - Thomas Aq. Trầm Thiên Thu
CƠ HỘI THÀNH TÀI - Lm. Jos DĐH.
PHƯƠNG CÁCH SỬ DỤNG TẶNG VẬT CHÚA BAN - Bs. Nguyễn Tiến Cảnh, MD
Qua dụ ngôn các nén bạc, Chúa muốn nhắc chúng ta nhớ rằng: mỗi người sinh ra trong trần gian này đều được Chúa ban cho những ân huệ đặc biệt và khác nhau. Không ai giống ai. Mỗi người là một cá thể thật quan trọng và đều có một chỗ đứng riêng biệt trong trái tim yêu thương và chương trình của Thiên Chúa. Bổn phận của chúng ta là nhận ra vị trí của mình để ý thức hơn trong việc quản lý và sinh lợi cho Chúa, chứ không cho riêng mình, những hồng ân mà mình đã nhận.
Người nhận đuợc một nén ít hơn người được năm nén, đó là điều rõ ràng; nhưng đối với Chúa thì một nén là tất cả những gì mà ông ta cần. Điều quan trọng không nằm ở chỗ nhận nhiều hay nhận ít, nhưng ở chỗ là biết dùng tài năng đó như thế nào?
Bổn phận của chúng ta là sinh lợi không cho mình mà là cho chủ. Nhưng, người có một nén đã chọn việc đem chôn giấu đi, rồi sau đó lý luận và đổ thừa cho chủ. Trong câu chuyện không hề có một chi tiết nào nói ông chủ là người hà khắc; thế mà ông ‘một nén’ này đã không nhận ra sự sai lầm của mình. Ông tuởng là ông đã biết ý của chủ; tình thực ông đã sai, khi chỉ biết nghĩ đến sự an toàn cho chính bản thân rồi làm theo ý mình; còn gán cho chủ nhận định sai lầm của ông: “…, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi.” Sai lầm của ông được nhiều người trong chúng ta tái lập trong cuộc sống. Xin anh chị em cùng suy xét.
Thật vậy, chúng ta thường suy nghĩ và vấp phải lối sai lầm này, đó là thay vì phát huy ân huệ đã đuợc trao ban, chúng ta lại dùng những gì đã lãnh nhận để đầu tư vào ‘cái tôi’ và làm cho nó ‘trương phình’ lên, phình đến độ chúng ta thay quyền Chúa làm chủ đời mình. Phải chăng ‘cái tôi’ và tham vọng đã làm thay đổi vị trí của Chúa trong cuộc sống chúng ta. Thay vì làm vinh danh Chúa được cả sáng thì bằng mọi cách và dưới mọi phuơng tiện, chúng ta làm để mình được tôn vinh. Như vậy, có nghĩa là Chúa đã bị chôn vùi trong chính cái tôi của mình.
Dựa vào kinh nghiệm khi làm việc, chúng ta có thể nhìn thấy một số hiện tuợng không mấy tốt đẹp vẫn thuờng xẩy ra cho một số người; đó là khi đuợc trọng dụng và kính phục thì họ rất hăng say trong các công tác. Việc nào cũng có mặt, công tác nào cũng tham gia. Họ không chỉ cống hiến tài năng và tiền của mà còn khuyến khích và kêu gọi các thành viên trong gia đình cùng tham gia. Nhưng khi gặp chuyện bất bình, bị chạm vào ‘cái tôi’, họ không chấp nhận sự góp ý của người khác, bèn lập bè tạo phái, rồi tìm những sơ hở của người khác và buông ra những lời chỉ trích thật nặng nề và thiếu tình bác ái. Thậm chí, họ còn có ý nghĩ là chỉ mình họ mới có đủ khả năng để hòan tất tốt đẹp những công tác mà hiện nay chính họ không muốn đụng ngón tay vào nữa.
Trong dụ ngôn hôm nay, khi trao những nén bạc cho các gia nhân ông chủ đã không ban cho họ một lịnh truyền hay lời chỉ dẫn nào rõ ràng. Điều này có nghĩa là ông tôn trọng tự do của họ. Dù được tự do; nhưng người nhận hai nén và năm nén đã không lạm dụng tự do để làm giầu cho bản thân, bởi vì họ biết rằng sẽ có một ngày ông chủ sẽ đến tra vấn về những gì mà họ đã nhận.
Cùng một cách thức như thế, chúng ta cũng được mời gọi hành xử tự do với vốn liếng đã được trao ban. Sự tự do này khiến chúng ta liều lĩnh chấp nhận mọi thua thiệt để trung tín với những đòi hỏi triệt để của Tin Mừng. Liều lĩnh trong niềm tin vào Thiên Chúa là một trong những đức tính cần thiết mà chúng ta cần có. Liều lĩnh để làm chứng về tình yêu của Thiên Chúa là một ơn gọi vô cùng cao quí mà Chúa đã mời gọi. Đây còn là một đòi hỏi vô cùng cần thiết cho thế giới bị tục hoá mà chúng ta đang sống hôm nay.
Thưa anh chị em,
Trong cuộc đời của Thánh An-Phong-Sô, đấng sáng lập Dòng Chúa Cứu Thế, Cha của chúng tôi, chỉ tha thiết một điều và chỉ có một điều này mà ngài đã đeo đuổi trong suốt cuộc đời là: “Hãy yêu mến Chúa Giê-su”. Và đó cũng là tâm huyết và mục tiêu trong cuộc sống của các Thánh Tử Đạo Việt Nam mà chúng ta nhớ đến nhân dịp mừng lễ hôm nay.
Không ai trong chúng ta có thể phủ nhận gương can đảm, chấp nhận mọi khổ hình mà cha ông chúng mình đã trải qua. Sử sách đã ghi lại bao nhiêu loại cực hình khác nhau đã đuợc dùng để tra tấn các ngài như: nhẹ thì gông cùm, giam tù, bỏ đói; nặng hơn một chút là cho voi dầy, phơi nắng và ném xuống sông; quyết liệt hơn thì bị chặt đầu, bị thắt cổ hay bị đốt cháy; man rợ và hiểm độc nhất là bị phân thây ra từng mảnh hay là tùng sẻo… Chỉ cần tuởng tượng những cực hình nói trên cũng khiến cho con người ngày nay run sợ hãi hùng.
Tất cả các cực hình đó không nhắm đến các nỗi thống khổ về phần xác; nhưng tất cả đuợc áp dụng để thử lòng trung tín với Chúa của các ngài. Vì thế, thật là thiếu sót, nếu chúng ta chỉ nhấn mạnh đến những nét hào hùng, những tấm gương can đảm, những cực hình mà cha ông chúng ta đã phải gánh chịu mà quên đi động lực chính đã giúp tổ tiên mình đi đến cùng; đó chính là lòng yêu mến Chúa Giê-su của các ngài. Vì yêu mến mà cha ông chúng ta đã từ khước tất cả và chấp nhận chết cho tất cả.
Thật vậy, sự hiểu biết giáo lý hay những tín điều về Thiên Chúa của các ngài thật nông cạn. Các ngài cũng không có những suy tư cao siêu về thần học. Nhưng khi trở thành tín hữu ‘một nén’, các ngài đã yêu Chúa bằng tất cả con người của các ngài. Đỉnh cao của tình yêu nơi các ngài được thể hiện qua việc chấp nhận cái chết không vì phần thưởng đã dành sẵn cho những ai trung tín với Chúa mà thôi; nhưng qua hành vi tự hiến các ngài đã noi gương Chúa Giê-su, Đấng đã hiến thân để bày tỏ lòng mến tuyệt vời của Thiên Chúa cho nhân lọai. Tiến ra pháp truờng bằng niềm tin và lòng mến cho nên tâm hồn cha ông của chúng ta rất thư thái và bình an, miệng các ngài vang lên những lời tha thứ và trên môi là nụ cuời hân hoan của niềm vui sắp đuợc đoàn tụ với Chúa Giêsu, Đấng mà các ngài cả đời yêu mến và trông đợi.
Hôm nay chúng ta cũng được mời gọi sống trọn vẹn và sống cho đến giây phút cuối cùng bằng lòng mến. Đó chính là tâm huyết của cuộc sống. Và đó cũng là phương thức làm giàu các ân huệ và khả năng mà Chúa đã trao ban để sinh lợi cho Chúa, không cho sự an toàn của bản thân mình. Rồi, cũng giống như cha ông mình, các bậc tiền bối đã sống trọn vẹn lòng mến vì danh Chúa Kitô, mỗi người chúng ta đến lúc đó, sẽ nhận đuợc Lời Chúa phán rằng: “Hỡi con yêu dấu, con đã trung tín trong việc nhỏ mà ta đã trao phó, thì giờ đây ta sẽ đặt con trông nom việc lớn hơn. Hãy vào mà hưởng niềm vui với Ta.”
Ước gì ai ai cũng được như vậy. Amen. Về mục lục.
Lm. Yuse Mai Văn Thịnh, DCCT
LÀM CHO NHỮNG YẾN BẠC SINH LỢI GẤP ĐÔI
Hôm nay trong dụ ngôn những yến bạc, Chúa Giêsu thúc giục chúng ta hãy sẵn sàng đón ông chủ trở lại. Chúa Giêsu là Ông Chủ đã thực hiện cuộc hành trình khi Ngài lên trời. Sau một thời gian dài, Chúa Giêsu sẽ trở lại vào lúc chúng ta chết hoặc vào lúc Ngài đến lần thứ hai. Bất cứ khi nào Ngài trở lại, chúng ta sẽ đứng trước Ngài với những yến bạc Ngài đã giao cho chúng ta. Trong dụ ngôn, các yến bạc không được giao cho mỗi người đầy tớ bằng nhau. Tại sao? Chúa Giêsu nói rằng mỗi đầy tớ được giao số yến bạc “tuỳ khả năng riêng mỗi người” (Mt 25:15). Vì vậy, mỗi người đầy tớ chỉ nhận được số lượng yến bạc phù hợp với khả năng của mình - không quá nhiều khiến cho những yến bạc bị lãng phí, không sử dụng hết và không quá ít để người đầy tớ không cảm thấy thất vọng vì mình không được đánh giá cao. Hai người đầy tớ đầu tiên làm lợi số yến bạc khác nhau nhưng không có sự khác biệt trong lời khen của người chủ dành cho họ. Ông chủ khen người đầy tớ đã sinh lợi năm yến bạc hoàn toàn giống như người đã sinh lợi hai yến: “Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” (Mt 25:21,23). Tại sao? Vì cả hai đều siêng năng như nhau tùy theo khả năng của mình. Phần thưởng mà họ nhận được là như nhau vì họ đều tận tâm như nhau mặc dù họ có những khả năng khác nhau.
Tiếc thay người đầy tớ thứ ba không làm gì cả và phải gánh chịu hậu quả. Anh ấy cũng đã nhận được một yến bạc tùy theo khả năng của mình. Ông chủ đã mong đợi anh ấy sinh lợi một yến, một và chỉ một, theo khả năng của anh ta mà thôi. Nhưng anh ta không siêng năng và không cố gắng gì, kể cả việc giao một yến bạc đó cho người khác sinh lợi giùm mình, như ông chủ nói: “đáng lý anh phải gởi số bạc của tôi vào ngân hàng để khi tôi đến, tôi thu được cả vốn lẫn lời chứ” (Mt 25:27). Anh ta hoàn toàn trái ngược với người vợ xứng đáng, có giá trị vượt xa ngọc trai trong bài đọc thứ nhất theo sách Châm ngôn: “Tìm đâu ra một người vợ đảm đang? Nàng quý giá vượt xa châu ngọc. Chồng nàng hết dạ tin tưởng nàng, chàng sẽ chẳng thiếu chi lợi lộc. Suốt đời, nàng đem lại hạnh phúc chứ không gây tai hoạ cho chồng. Nàng tìm kiếm len và vải gai, rồi vui vẻ ra tay làm việc… Nàng tra tay vào guồng kéo sợi, và cầm chắc suốt chỉ trong tay. Nàng rộng tay giúp người nghèo khổ và đưa tay cứu kẻ khốn cùng… Duyên dáng là giả trá, sắc đẹp là phù vân. Người phụ nữ kính sợ Chúa mới đáng cho người đời ca tụng. Hãy để cho nàng hưởng những thành quả tay nàng làm ra. Ước chi nơi cổng thành nàng luôn được tán dương ca tụng do những việc nàng làm” (Cn 31:10-13.19-20.30-31). Bài đọc đưa ra danh sách những việc làm tốt đẹp của người vợ. Người vợ ấy giống như một người đầy tớ đã nhận được năm yến bạc và sinh lợi thêm năm yến bạc một cách “tài giỏi và trung thành”. Sự siêng năng tùy theo khả năng của cô đã trở nên gương mẫu để hôm nay cô được đọc cùng với dụ ngôn những nén bạc.
Chúng ta hoặc là những đầy tớ tài giỏi và trung thành hoặc là những đầy tớ tồi tệ, biếng nhác và vô dụng. Thiên Chúa mong đợi chúng ta siêng năng sử dụng những ân huệ mà chúng ta đã nhận được. Thiên Chúa không mong đợi chúng ta đạt được những kết quả giống như người hàng xóm của mình, hoặc giống như những vị đại thánh khác; điều Thiên Chúa mong đợi nơi chúng ta là cố gắng “hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn” (Mt 22:27) sinh ra hoa trái cho Nước Trời ngay bây giờ. Chúng ta đừng chần chừ, lãng phí thời gian tìm xem khi nào Chúa Giêsu sẽ đến lần thứ hai, rồi mới vội vã đi mua dầu. Lúc đó mọi sự đã trở nên quá trễ: “Người ta đóng cửa lại” rồi! (Mt 25:10). Vì thế Thánh Phaolô nhắc nhở giáo đoàn Tessalônica trong bài đọc thứ hai: “Thưa anh em, về ngày giờ và thời kỳ Chúa đến, anh em không cần ai viết cho anh em. Vì chính anh em đã biết rõ: ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm. Khi người ta nói: ‘Bình an biết bao, yên ổn biết bao!’, thì lúc ấy tai hoạ sẽ thình lình ập xuống, tựa cơn đau chuyển bụng đến với người đàn bà có thai, và sẽ chẳng có ai trốn thoát được. Thưa anh em, anh em không ở trong bóng tối, để ngày ấy như kẻ trộm bắt chợt anh em. Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về đêm, cũng không thuộc về bóng tối” (1 Tx 5:1-5). Tuy nhiên, không biết khi nào Chúa Giêsu sẽ trở lại không phải là một cái cớ để ngần ngại không làm gì cả, như Thánh Phaolô khuyên bảo: “Vậy chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ” (câu 6). Hiện tại là một thời gian chờ đợi thấp thỏm nhưng cũng đầy cơ hội lý thú. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta những khả năng. Ngài tin tưởng và giao phó cho chúng ta sử dụng những khả năng ấy tùy theo cách chúng ta chọn lựa. Chúng ta phải tìm ra và quyết định cách tốt nhất để sử dụng khả năng của mình cho Nước Trời.
Dụ ngôn cũng muốn chúng ta biết rằng những gì chúng ta nhận được từ Thiên Chúa không phải là ít ỏi nhưng vô cùng lớn lao. Một yến bạc, vừa là đơn vị đo trọng lượng, vừa là tiền tệ và giá trị của nó bằng khoảng 6.000 ngày lao động, hai mươi năm lương công nhật. Cứ tạm tính theo thời giá hiện nay ở Việt Nam, một ngày công lao động khoảng 200 ngàn đồng; vậy một yến bạc bằng khoảng một tỉ hai trăm triệu đồng. Rõ ràng ông chủ đang giao cho những người đầy tớ một số tiền rất lớn. Những người đầy tớ nhận được một điều rất lớn lao vào thời của họ. Những gì Chúa ban cho chúng ta đều lớn lao và vô giá. Chúng ta đã nhận được rất nhiều từ Chúa, nhưng rất thường khi chúng ta coi đó là điều tất nhiên, không cần phải tỏ lòng biết ơn hay làm gì để đáp lại. Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng các yến bạc chính là ân sủng: sự sống, vẻ đẹp, các đức tính tốt trong tâm hồn mà Thiên Chúa ban cho chúng ta: “Mọi sự đều bắt đầu bằng ân sủng của Thiên Chúa – mọi sự luôn bắt đầu bằng ân sủng chứ không phải bằng nỗ lực của chúng ta – với ân sủng của Thiên Chúa, Đấng là Cha và đã ban cho chúng ta rất nhiều điều tốt lành, ủy thác những tài năng khác nhau cho mỗi người chúng ta. Chúng ta sở hữu một khối tài sản lớn không phụ thuộc vào những gì chúng ta sở hữu mà phụ thuộc vào con người chúng ta: cuộc sống chúng ta đã nhận được, những điều tốt đẹp bên trong chúng ta, vẻ đẹp không thể xóa nhòa mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta khi tạo dựng chúng ta theo hình ảnh Ngài… Tất cả những điều này làm nên mỗi người chúng ta quý giá trong mắt Ngài, mỗi người chúng ta đều vô giá và độc nhất trong lịch sử! Đây là cách Chúa nhìn chúng ta, cách Chúa cảm thấy chúng ta như thế nào” (Thánh lễ Chúa nhật 15 tháng 11 năm 2020, tại Vương cung thánh đường Thánh Phê rô). Chính vì thế “Nếu lòng tốt không được đầu tư thì nó sẽ bị mất, và sự vĩ đại của cuộc đời chúng ta không được đo bằng số tiền chúng ta tiết kiệm được mà bằng thành quả chúng ta sinh ra. Biết bao người dành cả đời chỉ để tích lũy của cải, chỉ quan tâm đến cuộc sống thoải mái chứ không quan tâm đến những điều tốt đẹp họ có thể làm. Tuy nhiên, thật trống rỗng biết bao khi một cuộc sống tập trung vào nhu cầu của chúng ta và mù quáng trước nhu cầu của người khác! Những ân huệ này nên được sử dụng để làm điều tốt lành ở đời này, phục vụ Thiên Chúa và anh chị em chúng ta” (đã dẫn).
Người đầy tớ thứ ba đã hiểu sai về ông chủ: “Tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi” (Mt 25:24), và vì thế có thái độ sai trái: “Tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu yến bạc của ông dưới đất” (Mt 25:25). Anh ta không vô đạo đức, không phạm phải một tội gì quá quắt; tội lỗi của anh ta là tội thiếu sót, không làm những gì phải làm. Anh ta không phải là “Những người phục vụ tốt, vốn là những người chấp nhận rủi ro. Họ không sợ hãi và quá thận trọng, họ không bám víu vào những gì mình sở hữu mà sử dụng nó một cách có ích” (đã dẫn). Chúng ta có nên để cho sự sợ hãi và quá thận trọng như vậy cản trở mục đích sống của mình không: làm cho tình yêu chúng ta đã nhận được từ Thiên Chúa sinh hoa trái, là chứng tá rõ ràng cho tình yêu của Thiên Chúa? Đức Thánh Cha Phanxicô tiếp tục: “Chúa yêu cầu chúng ta hãy quảng đại, chiến thắng nỗi sợ hãi bằng lòng can đảm của tình yêu, vượt qua sự thụ động trở thành đồng lõa. Ngày nay, trong những thời điểm bất ổn này, chúng ta đừng lãng phí cuộc đời chỉ nghĩ đến bản thân mình, thờ ơ với người khác hoặc tự lừa dối mình khi nghĩ: “Bình an biết bao, yên ổn biết bao!” (1Tx 5:3)… Vậy thì chúng ta phục vụ như thế nào, thì mới như Chúa muốn chúng ta phục vụ?” (đã dẫn). Giống như những người đầy tớ trong dụ ngôn, không được bảo phải làm gì với các yến bạc của mình, Thiên Chúa tôn trọng tự do và năng lực sáng tạo của mọi người, không ra lệnh buộc chúng ta tuân theo một bản kế hoạch chi tiết cho từng giờ từng phút, nhưng Ngài mong muốn chúng ta giống như Chúa Giêsu: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:28).
Chúng ta đừng chôn giấu bất cứ một khả năng nào của chúng ta. Nếu đã lỡ chôn giấu những yến bạc nào thì bây giờ là lúc chúng ta cần phải đào chúng lên và làm cho chúng sinh sôi nảy nở để có thể nghe Chúa phán với chúng ta: “Khá lắm! Hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” (Mt 25:21,23). Chúng ta hãy nghe theo lời khuyên của Đức Thánh Cha Phanxicô: “Thưa anh chị em, hãy nhìn xem, người nghèo là trung tâm của Tin Mừng; chính Chúa Giêsu đã dạy chúng ta nói chuyện với người nghèo; chính Chúa Giêsu đã đến vì người nghèo. Hãy đưa tay ra giúp đỡ người nghèo. Bạn đã nhận được nhiều thứ rồi mà lại để anh chị em mình chết đói sao?” (Kinh truyền tin, Chúa nhật 15 tháng 11 năm 2020, tại quảng trường Thánh Phêrô). Về mục lục.
Phêrô Phạm Văn Trung
Thánh Máctinô Porres (1579-1639, mừng ngày 3-11) là con của một hiệp sĩ Tây Ban Nha với một nàng hầu lai da đen người Pérou. Máctinô trải qua thuở thiếu thời trong sự hất hủi của mọi người vì thân phận con hoang và vì màu da đen đúa. Lúc 15 tuổi, cậu nhập dòng Đa-minh như một trợ sĩ. Thầy rất đạo đức và thích làm những việc khiêm tốn đến độ được biệt danh là “thầy chổi”. Nhờ biết cạo gió, Máctinô đã giữ chức y tá của nhà dòng. Thầy phụ trách công việc với một đức nhẫn nại vô bờ và bác ái cao độ. Có lần thấy một bệnh nhân giận dữ với mình, thầy đã êm ái nói với anh ta: “Anh giận phải lẽ lắm, nhưng cơn giận có thể khiến bệnh tình của anh thêm nặng. Hãy dùng món ăn anh thích này đi và để tôi thoa bóp chân cho anh nhé!” Thầy vừa làm việc vừa lần hạt Mân côi, thức đêm để cầu nguyện rồi ngủ trên cái cáng dùng khiêng xác chết. Được tu viện giao nhiệm vụ phát của bố thí, thầy làm mọi cách để cứu giúp những kẻ nghèo, đôi lúc còn nhịn ăn để cho họ. Có lần tu viện mắc nợ, Máctinô đã đề nghị cha bề trên bán mình đi để trang trải. Máctinô cũng đã từ chối không lãnh chức vụ Linh mục để có thể tiếp tục làm đầy tớ mọi người. Ngày nay, Máctinô là một trong những vị thánh được bình dân yêu mến cầu khẩn nhất từ Đông sang Tây, từ Âu sang Á.
1. Sự tín nhiệm vô cùng của Chủ: tình yêu.
Dụ ngôn “các yến bạc” mà câu chuyện thánh Máctinô đã minh họa, là dụ ngôn cuối cùng trong ba dụ ngôn “cánh chung” được Mát-thêu gộp chung quanh chủ đề “Thời cùng tận”. Thời gian của lịch sử con người, mà sẽ có lúc chấm dứt, là thời gian “Chủ vắng mặt” : nhân loại bị thử thách, y như các tôi tớ được chủ trao phó lắm trách nhiệm nặng nề. Vâng, cuộc sống của chúng ta diễn ra trong khung cảnh một Thiên Chúa có vẻ vắng mặt và như thể “rút lui” để thụ tạo Người có sáng kiến. Điều đó chứng tỏ một niềm tin tưởng mênh mông và kính trọng khôn tả. Người giao cho chúng ta : “kẻ thì năm yến, kẻ hai yến, kẻ một yến”. Vào thời Đức Giê-su, một “yến” là một thỏi bạc hay vàng trị giá sáu ngàn quan tiền. Thành thử một yến thôi cũng đủ là một gia tài nhỏ : tương đương với tiền công sáu ngàn ngày làm việc (x. Mt 20,2). “Chủ giao phó cho họ của cải mình!” : ở thế gian này, chúng ta phải quản lý các của cải không thuộc chúng ta, nhưng thuộc Đấng Sáng Tạo. Như thế, ý nghĩa sâu sa của dụ ngôn trước hết chẳng phải là sử dụng đúng các “năng khiếu cá nhân” (dẫu áp dụng luân lý này có thể có ích). Đây đặc biệt nói về việc chúng ta tích cực cộng tác vào Nước Thiên Chúa : Người đã giao phó cho ta Vương quốc Người, tài sản Người, những hồng ân phải làm cho sinh lợi…
Và thế là hai người trước đã làm lợi gấp đôi số yến bạc nhận được, riêng anh cuối cùng thì đào lỗ mà chôn… Phải chống lại cám dỗ muốn so sánh mình với người. Đây không nói đến các yến bạc của ai khác, nhưng đến trách nhiệm của riêng tôi, đến Nước Trời đã được giao phó cho tôi, dĩ nhiên qua các “hồng ân tôi đã nhận lãnh”. Ai nấy đều có vị trí và trách nhiệm “của mình”: “Có nhưng ân huệ khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí… Người thì được ban ơn nói lời khôn ngoan... kẻ khác được ban ơn nói lời hiểu biết... người thì được ơn phân định các thần khí… Các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể” (1 Cr 12,4-12). Đến điểm suy niệm này, tôi nên tự hỏi đâu là vai trò duy nhất của tôi, đâu là các yến bạc mà chỉ mình tôi có thể làm cho sinh lợi. Trước mắt Thiên Chúa, không ai có thể thay thế tôi trong nhiệm vụ vốn là của tôi, với những khả năng, đức tính, ơn huệ Người đã ban tặng. Phải chăng tôi sẽ “làm lợi” chúng như các tôi tớ tốt lành, như thánh Máctinô, kẻ mà xét theo loài người thì quả là được giao quá ít ỏi, nhưng đã làm lợi biết bao nhiêu, hay tôi đem “chôn vùi” chúng như tên đầy tớ xấu?
“Sau một thời gian lâu dài…”. Thời gian Chủ vắng mặt thì lâu. Đó là thời gian thử thách lòng trung tín và không dễ chịu đựng. Đẩy cho tới cùng, ta có thể tưởng tượng rằng Thiên Chúa “thôi trở lại”, Người “đã chết”, không hiện hữu; ta có thể bắt đầu tổ chức tất cả đời mình “như thể chẳng hề có Thiên Chúa”. Đó đã là ý nghĩa của nhiều dụ ngôn khác trong Mt (24,37-44; 24.46-51; 25,1-13). Nhưng “…ông chủ các đầy tớ trở về và yêu cầu họ thanh toán sổ sách”. Đức Giê-su lại bảo chúng ta chớ nên ngủ trong ảo tưởng “Thiên Chúa vô hữu”. Dù muốn hay không muốn, điều ấy đâu tùy thuộc chúng ta ! Ngoài ra, chẳng có gì tồi tệ hơn là “vô trách nhiệm”. Thiên Chúa tôn vinh chúng ta khi đòi chúng ta “thanh toán sổ sách”, như đối với những kẻ trưởng thành đầy ý thức trách nhiệm. Và thế là người được giao năm yến đến trình bày công việc lẫn thành quả của mình, sau đó tới lượt người được giao hai yến. Văn phong cố ý long trọng. Đây không phải là một ông chủ bình thường: người ta gọi ông là “Chúa”… và, vì thời gian quản lý đã chấm dứt, nên các tôi tớ được cho vào “hưởng niềm vui của Chủ mình” như các trinh nữ khôn trong dụ ngôn trước được đi vào phòng tiệc cưới “với Chú rể”.
2. Thái độ nghi ngờ của đầy tớ: tội lỗi.
Nhưng chúng ta chờ phần tiếp giai thoại. Với một nghệ thuật kể chuyện sành sỏi, Đức Giê-su kéo dài sự mong ngóng. Người lặp lại cũng một chuyện đối với hai tôi tớ đầu. Óc tò mò của thính giả bị kích thích: người ta chờ đợi… Cái gì sắp xảy đến với tôi tớ thứ ba mà ta biết là đã đem “chôn” yến bạc của ông chủ? Dẫu sao thì hắn cũng phải phép, đúng luật: xem ra không thể quở trách hắn được điều gì ; đã chẳng trộm yến bạc giao nhận, hắn lại còn tuyệt đối “bảo tồn” nó. Tuy nhiên, trước đó hắn đã thưa với chủ: “Thưa ông, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi”. Theo Đức Giê-su, tội xấu xa nhất chính là chỗ đó: xuyên tạc hình ảnh Thiên Chúa, xem Người như một bạo vương khó gần và nguy hiểm! Tất cả mối tương quan với Thiên Chúa bị sai lệch khi ta khởi sự nghi ngờ Người: đấy đã là cám dỗ lớn lao con rắn từng gợi lên cho hai ông bà nguyên tổ (x. St 3,1-5). Cám dỗ căn bản của chúng ta cũng là thế: không coi Thiên Chúa như một “người cha” đầy tình yêu, như một vì Thiên Chúa “giao ước”… nhưng như một kẻ cạnh tranh đáng kinh hãi, chỉ biết nghĩ đến mình và sợ con người được hạnh phúc! Làm sao chúng ta có thể đi đến một biếm họa như thế, trái với tất cả mạc khải Thánh Kinh như vậy? “Vì thế tôi đâm sợ, mới đem chôn dấu yến bạc của ông dưới đất. Của ông vẫn còn nguyên đây này!” Vâng, đúng là hoàn toàn bất biết mối tương quan đích thực nối kết Thiên Chúa với con người. Như thế, tên đầy tớ này đã không bị kết án vì từ chối phục vụ hay vì bê trễ biếng nhác, nhưng vì đã có về Thiên Chúa một ý tưởng hoàn toàn trái ngược với bản chất đích thực của Người: y “đâm sợ” Thiên Chúa… nên đã tự đặt “trong quan hệ phải phép tối thiểu” với Người. Y rất giống đám “thợ giờ thứ nhất” tố cáo gia chủ bất công (x. Mt 20,12)… hay giống “đứa con cả” tự thấy phải lẽ với cha mình (x. Lc 15,29-30). Tôi, tôi chính trực, còn Ngài thì không! Cuối cùng, con người “đầy sợ hãi” ấy thiếu cái chủ yếu: y không yêu chủ, cho dẫu tự phụ đã phải phép về phía mình. Chúng ta nhận ra đó là thái độ của Biệt phái (Pha-ri-sêu) và kinh sư.
Nhưng chớ quên: Đức Giê-su không xử phạt những con người. Kết án Biệt phái thì quá dễ! Điều Đức Giê-su muốn loại bỏ, đó là một thái độ đối với Thiên Chúa vốn luôn có thể là thái độ của chúng ta. Chúng ta có thể tìm sự an ninh của mình trước hết, ngay cả khi giữ Lề luật tỉ mỉ, như tên đầy tớ tưởng mình phải phép vì đã giao lại cho chủ cũng số tiền đã nhận. Tuy nhiên y đã gây thất vọng cho chủ vốn trông đợi y hết sức nhiều. Ông đã mong chờ một sự dấn thân mạo hiểm đối với bản thân ông: ông đã chờ mong “đức tin”, đức tin liều lĩnh! Chúng ta phải quan tâm đến các quyền lợi của Thiên Chúa, đặt cược tất cả cuộc sống chúng ta cho Người, giúp của cải Người sinh lợi.
Chôn vùi các yến bạc của ta, đó là ám ảnh chuyện an toàn và tránh né mạo hiểm. “Đức tin” là việc hoàn toàn khác! Tin Mừng muốn được rắc gieo, tung vãi. Làm môn đệ Đức Giê-su, đó là “khiến Nước Trời đã giao được sinh lợi”. Ai chỉ nghĩ tới chuyện “bảo tồn” cái đã nhận là làm cho nó ra cằn cỗi. Tin Mừng đã chẳng được ban cho ta để “giữ” nó như một thứ kho tàng vô ích: chúng ta có trách nhiệm làm cho nó sinh hoa kết quả… vì Ông Chủ, một ngày nào đó về lại, sẽ đòi chúng ta thanh toán sổ sách. Khi “đi xa”, Đức Giê-su đã giao cho ta trách nhiệm vốn là của Người: làm cho Vương quốc Thiên Chúa trị đến. Nếu không chu toàn, ta phải hoàn toàn gánh chịu hình phạt được trình bày với những kiểu nói khuôn đúc cuối dụ ngôn. Tính cách nghiêm trọng của các đe dọa này là do cái được mất rất to lớn. Ai nấy tạo nên cuộc phán xét cho riêng mình. Không người nào có thể viện cớ để chẳng “trả lại” gì cho Thiên Chúa cả! Về mục lục.
Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
HÃY LÀM NHỮNG YẾN BẠC SINH LỢI
Bạn có biết tại sao người nhận một yến bạc lại hoàn lại cho ông nguyên vẹn số bạc, không bị sứt mẻ gì không? Là bởi vì anh ta sợ: "Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. Vì thế, tôi đâm sợ, mới đem chôngiấu yến bạc của ông dưới đất” (Mt 25:24-25). Anh ta sợ lỡ đem số bạc ấy đi làm ăn, đầu tư, chơi stock, lỡ bị thua lỗ thì lấy gì mà hoàn trả lại cho chủ! Vì thế cho nên đem số bạc ấy đi chôn xuống đất là an toàn nhất. Thế nhưng anh ta đã lầm! Sự sợ hãi đã đẩy anh ta vào một hoàn cảnh đau khổ và khốn cùng, anh ta đã bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, [anh ta] phải khóc lóc nghiến răng (Mt 25:30).
Bạn thân mến, cũng như anh đầy tớ vô dụng, lười biếng và tồi tệtrong dụ ngôn Những Nén Bạc, có không ít lần, vì sợ cho nên tôi đã đem chôn dấu những yến bạc của Thiên Chúa trao cho tôi quản lý, tôi đã không làm cho nó sinh lợi bởi vì:
• Tôi sợ bị người ta đóng đinh, sợ bị người ta chỉ trích, sợ bị người ta tẩy chay… cho nên khi đứng trên bục giảng, tôi đã không dám nói đến những tệ nạn xã hội, ví dụ như nạn bạo lực trong gia đình, xì ke ma tuý, say sưa, cờ bạc, gian dối, lừa lọc, làm hôn thú giả, trốn thuế, ngoại tình, xem phim ảnh bậy bạ trên internet, TV…
• Tôi sợ phí thời giờ, sợ họp hành, sợ không có thời giờ đi chơi, sợ người này phê bình, chỉ trích, sợ phiền toái…chonên tôi không tham gia vào các Hội đoàn, vào những công việc chung của giáo xứ, không dám cống hiến tài nấu ăn, tài cắm hoa, tài đánh đàn, dạy học…cho giáo xứ, cho trường giáo lý Việt ngữ...
Bạn thân mến, những lúc chúng mình sợ hãi, khi tôi và bạn tính toán không muốn đem tài năng, khả năng và của cải vật chất, là những yến bạc của Chúa giao phó để phục vụ, để cho đi… là khi ấy bạn và tôi đang chôn vùi đi những yến bạc của Chúa đấy! Hãy đào bới lên ngay đi! Xin hãy mau mau đem ra đầu tư, làm cho nó sinh lợi ra cho Chúa! Xin đừng bao giờ chôn vùi những yến bạc của Thiên Chúa, bởi vì:
• Ông chủ đã ban thưởng cho người nhận năm yến cũng như cho người nhận hai yến y như nhau, không hơn không kém. Cả hai được khen thưởng không phải là vì họ đã làm cho những yến bạc sinh lợi ra nhiều, nhưng là vì họ đã vâng lời, đã chăm chỉ làm việc và đã tỏ lòng trung thành với ông chủ. “Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ítmà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãyvào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” (Mt 25:23).
• Ông chủ là người rất hào phóng và rộng rãi, ông không lấy lại một xu nào nhưng đã cho các đầy tớ cả vốn lẫn lời “Hãy lấy yến bạc khỏi tay nó mà đưa cho người đã có mười yến… Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa” (Mt 25:28-29).
Thiên Chúa giao tài sản của Ngài cho tất cả mọi ngườitrên thế gian này, trong đó có tôi và có cả bạn. Kẻ ít người nhiều, ai ai cũng nhận từ Thiên Chúa những yến bạc. Kẻ nhận được năm yến thì phải lo làm sao cho sinh ra được năm yến khác. Người nhận được hai yến cũng vậy, và kẻ nhận một yến cũng thế, tất cả mọi người chúng ta đều phải có bổn phận và nhất là phải cố gắng làm cho sinh lời chứ đừng chôn dấu! Chôn dấu những yến bạc của Thiên Chúa là thiếu khôn ngoan, nếu không muốn nói là vô cùng dại dột! Để cho công việc đầu tư, làm ăn, làm cho những yến bạc sinh lời, tôi xin mạn phép gửi đến bạn một vài lời đề nghị:
• Thứ nhất, bạn hãy ngồi xuống và liệt kê ra tất cả những yến bạc tức là những khả năng, những năng khiếu, những gì mà Chúa ban cho bạn, ví dụ như tài năng về âm nhạc, về hội họa, về máy vi tính, về nghệ thuật trang trí, về cắm hoa, nấu ăn, may vá, làm bánh, cắt cỏ, làm vệ sinh, sửa chữa ống nước, sửa điện… Bạn có bao nhiêu tài
năng thì đó chính là bấy nhiêu yến bạc của Chúa trao cho bạn quản lý đấy!
• Thứ hai, bạn hãy đem những yến bạc của Chúa giao phó để kinh doanh ngay ngày hôm nay bằng cách tham gia ca đoàn, trường giáo lý & việt ngữ, ban bảo trì…để những nén bạc của bạn được sinh lời ra nhiều hơn!
• Thứ ba, bạn hãy cảm tạ Chúa mỗi ngày vì Ngài đã thương, đã tin tưởng tín nhiệm và giao cho bạn quản lý những tài sản của Ngài. Và xin ghi nhớ, tất cả những gì bạn đang có dù là những tài sản về mặt tri thức hay về mặt vật chất hoặc về mặt tinh thần… tất cả đều thuộc về Chúa và là của Chúa, bạn và tôi chẳng có gì cả, chúng mình chỉ là những tên đầy tớ [vô duyên bất tài và] vô dụng [mà thôi]! (Lc 17:10).
Chúng mình cầu nguyện cho nhau để bạn và tôi luôn luôn chăm chỉ và siêng năng, nỗ lực đem những yến bạc của Chúa trao cho để đi đầu tư, để được sinh sôi nảy nở thật nhiều. Bạn cứ mạnh dạn đem ra đầu tư đi, không lỗ đâu! Nhưng chắc chắn sẽ lời lãi. Và trong ngày sau hết, Thiên Chúa sẽ mỉm cười và âu yếm nói với chúng mình rằng: “Khá lắm! hỡi [những] đầy tớ tài giỏi và trung thành!… Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ [các ngươi]” (Mt 25:21). Lúc đó bạn và tôi tha hồ mà nghỉ ngơi dưỡng sức! Đừng bao giờ đem những yến bạc của Thiên Chúa giao cho mà chôn dấu xuống đất. Không ổn đâu nhé! Về mục lục.
Lm. Đaminh Pham Tĩnh, SDD
Nén Đời Chúa Trao Ai Cũng Một
Trách Nhiệm Con Nhận Là Phần Riêng.
Dụ ngôn “những yến bạc” được Chúa Giêsu kể trong Mt 25:14-30 (≈ Lc 19:12-27) là “chuyện đời” rất cụ thể: Khi chủ nhân sắp đi xa, ông gọi đầy tớ đến mà giao phó của cải. Ông trao cho người này năm yến, người kia hai yến, người khác một yến, tuỳ khả năng riêng mỗi người. Rồi ông ra đi xa, và ông không hẹn ngày trở về.
Mỗi người đều nhận phần riêng là “yến bạc” cuộc đời – chỉ một mà thôi. Vấn đề là trách nhiệm – nhận ít thì trách nhiệm ít và bị đòi ít, nhận nhiều thì trách nhiệm nhiều và bị đòi nhiều. (Lc 12:48) Được giao nhiều hay ít không phải để phân bì, mà phải ý thức và chu toàn. Tác giả sách Giảng Viên xác định: “Càng nhiều khôn ngoan, càng nhiều phiền muộn; càng thêm hiểu biết, càng thêm khổ đau.” (Gv 1:18) Nhận nhiều nén thì sướng hay khổ?
Theo lời kể của Thánh Mátthêu, người đã lãnh năm yến lấy số tiền ấy đi làm ăn buôn bán, và gây lời được năm yến khác. Người đã lãnh hai yến gây lời được hai yến khác. Còn người đã lãnh một yến thì đi đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ.
Sau một thời gian lâu dài, ông chủ về tính sổ với các đầy tớ và thanh toán sổ sách với họ. Giờ G đã điểm. Chủ nhân về tính sổ. Trước tiên, người đã lãnh năm yến tiến lại gần, và đưa năm yến khác. Người đã lãnh hai yến cũng tiến lại và đưa hai yến khác. Chủ nhân nói với hai người này: “Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!”
Và người đã lãnh một yến cũng tiến lại và nói: “Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. Vì thế, tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu yến bạc của ông dưới đất. Của ông đây, ông cầm lấy!” Chủ nhân thẳng thắn và nghiêm nghị nói: “Hỡi đầy tớ tồi tệ và biếng nhác! Anh đã biết tôi gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, đáng lý anh phải gởi số bạc của tôi vào ngân hàng, để khi tôi đến, tôi thu được cả vốn lẫn lời chứ! Vậy các ngươi hãy lấy yến bạc khỏi tay nó mà đưa cho người đã có mười yến. Vì phàm ai đã có thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có thì ngay cái đang có cũng sẽ bị lấy đi. Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng.”
Chủ nhân nói chí lý nên anh ta câm miệng. Nơi tối tăm mà anh ta phải vào chẳng phải là hang động âm u hoang vắng, thiếu ánh sáng, cũng chẳng phải là chốn Luyện Hình, mà chính là Hỏa Ngục – vương quốc ma quỷ. Thật đáng sợ vì phải ở đó đời đời!
Là đầy tớ của Chủ nhân Thiên Chúa, mỗi chúng ta đều được Ngài trao cho đồng đều: Nhân vị, nhân phẩm, nhân quyền, quyền tự do – và có thể thêm một vài năng khiếu nào đó. Mỗi người được Ngài trao cho số nén, loại nén, và kiểu nén khác nhau, vấn đề quan trọng là chúng ta có sinh lời hay không, tức là thể hiện vì công ích – lợi ích cho chính mình và tha nhân. Chỉ làm lợi cho mình là ích kỷ. Muốn lên Thiên Đàng một mình cũng là ích kỷ.
Chúng ta như bức tượng được điêu khắc gia tạo ra, bức tượng không có quyền than phiền bất cứ điều gì đối với tác giả. Chắc chắn không ai là kẻ bất tài, người này có tài này, người khác có tài khác; người này giỏi trong lĩnh vực này, người khác giỏi trong lĩnh vực khác. Không có nông dân thì chúng ta lấy gì mà ăn? Không có thợ xây thì chúng ta lấy gì mà ở? Có bất cứ tài gì (dù là tài vặt) cũng là để cộng tác với Thiên Chúa chứ không phải là để vinh danh mình. Hơn người khác về lĩnh vực nào đó thì đừng ảo tưởng mình được Thiên Chúa “ưu tiên” hơn hoặc “cưng” hơn.
Mặc dù là một vĩ nhân nhưng Pythagore (570-495 trước công nguyên) vẫn khiêm nhường. Và ông cảnh báo: “Đừng thấy bóng mình to lớn mà tưởng mình vĩ đại.” Ông là một thiên tài vĩ đại (triết gia, nhạc sĩ, chính trị gia, nhà đạo đức học, nhà toán học, nhà siêu hình học,...), nhưng ông rất sợ thói kiêu ngạo. Chúng ta chẳng là gì mà dám tự tôn hoặc khinh người khác, vì ai chỉ có một thứ duy nhất: Tội lỗi. Và rất nhiều thứ này!
Ông Gioan đã minh định: “Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban.” (Ga 3:27) Bất kỳ cái gì chúng ta lãnh nhận không phải để sở hữu riêng mà phải thực hiện vì công ích. Đức khiêm nhường là bài học phải học suốt đời, và chỉ có thể học được ở Trường Học Thầy Giêsu, đúng như lời Ngài khuyên: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường.” (Mt 11:29) Người khiêm nhường dễ dàng sinh lời “nén trách nhiệm” mà Thiên Chúa đã giao. Trách nhiệm là phần việc riêng phải làm xong, bổn phận làm không tốt thì phải chịu hậu quả.
Mức độ trưởng thành của một con người dựa vào tinh thần trách nhiệm của họ đối với người khác và với chính mình. Nữ chính khách Anna Eleanor Roosevelt (1884-1962) nói: “Về lâu về dài, chính chúng ta sẽ định hình bản thân con người chúng ta và cuộc sống của chúng ta. Quá trình đó không bao giờ kết thúc cho tới khi ta chết. Rốt cuộc thì chúng ta luôn phải gánh chịu mọi trách nhiệm về chính sự lựa chọn của mình.” Thật chí lý với nhận định của triết gia Elbert Hubbard (1856-1915, Hoa Kỳ): “Responsibility is the price of freedom.” (Trách nhiệm là cái giá của sự tự do.)
Thiên Chúa toàn năng và thấu suốt mọi sự, Ngài trao cho mỗi người phần việc riêng theo ơn gọi của mình, đó là “yến bạc” mà ai cũng phải cố gắng hoàn thành một cách xuất sắc nhất. Trách nhiệm có liên quan các vấn đề khác: [1] Nhân phẩm, [2] Công ích, [3] Bổ trợ, [4] Liên đới. Đó là bốn nguyên tắc chính trong Giáo huấn Xã hội của Giáo hội Công giáo. Công ích là ích lợi chung, đồng thời cũng là trách nhiệm chung của mọi người – bất kể ai, dù có niềm tin tôn giáo hay vô tín ngưỡng.
Giáo huấn Xã hội Công giáo cho biết: “Công ích được hiểu như là những điều kiện xã hội cho phép mọi người đạt đến trọn vẹn tiềm năng con người và nhận ra nhân phẩm của mình.” Trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay, nguyên tắc công ích cho thấy nhu cầu về các cơ cấu quốc tế để có thể thúc đẩy sự phát triển cá nhân và gia đình vượt ra khỏi ranh giới quốc gia và khu vực. Sự thiếu vắng cảm thức về công ích là dấu chỉ chắc chắn về sự xuống cấp của xã hội. Cảm thức cộng đồng bị xói mòn sẽ dẫn đến các dạng suy thoái về công ích, từ đó có thể dẫn tới các hệ lụy khác.
Thánh Phaolô cũng đề cập công ích: “Đấng cung cấp hạt giống cho kẻ gieo, và bánh làm của ăn nuôi dưỡng, tất sẽ cung cấp dư dật hạt giống cho anh em gieo, và sẽ làm cho đức công chính của anh em sinh hoa kết quả dồi dào. Anh em sẽ được sung túc mọi bề để làm mọi việc thiện cách rộng rãi. Những việc chúng ta làm sẽ khiến người ta dâng lời cảm tạ Thiên Chúa. Thật thế, việc phục vụ cho công ích này không những đáp ứng nhu cầu của của các người trong dân thánh, mà hơn thế nữa, còn là nguồn phát sinh bao lời cảm tạ dâng lên Thiên Chúa. Việc phục vụ này là một bằng cớ cho họ tôn vinh Thiên Chúa, vì thấy anh em vâng phục và tuyên xưng Tin Mừng của Đức Kitô, và vì thấy anh em có lòng quảng đại, sẵn sàng chia sẻ với họ và với mọi người.” (2 Cr 9:10-13) Thực hiện công ích cũng là thực thi Đức Ái – nhân đức cần thiết.
Nền tảng của xã hội là gia đình – nơi công ích được thể hiện rõ nét. Kinh Thánh nói: “Tìm đâu ra một người vợ đảm đang? Nàng quý giá vượt xa châu ngọc. Chồng nàng hết dạ tin tưởng nàng, chàng sẽ chẳng thiếu chi lợi lộc. Suốt đời, nàng đem lại hạnh phúc chứ không gây tai hoạ cho chồng. Nàng tìm kiếm len và vải gai, rồi vui vẻ ra tay làm việc.” (Cn 31:10-13) Hậu phương là sức mạnh của tiền tuyến. Người vợ âm thầm làm việc, với biết bao việc “không tên,” nhưng các “việc nhỏ” đó lại rất cần thiết để duy trì hạnh phúc gia đình, tạo nên Tổ Ấm thực sự.
Thiên Chúa quan phòng và tiền định, Ngài phú cho nữ giới có tính cách đặc biệt: “Nàng tra tay vào guồng kéo sợi, và cầm chắc suốt chỉ trong tay. Nàng rộng tay giúp người nghèo khổ và đưa tay cứu kẻ khốn cùng.” (Cn 31:19-20) Tính cách đã đặc biệt rồi, mà cái tâm cũng khác lạ: Hy sinh, nhịn nhục, chịu đựng,… Nàng dịu hiền vì nàng là phụ nữ. Quả thật, nét dịu dàng rất cần ở phụ nữ, ca dao đã đặt vấn đề như lời nhắc nhở nữ giới: “Có ai bán cái dịu dàng, tôi mua một gánh tặng nàng làm duyên.”
Nữ giới cần dịu dàng, nam giới cần cứng rắn. Trái ngược nhau nhưng không đối lập, mà để bổ túc lẫn nhau. Nét duyên dáng rất cần, nhưng đừng yểu điệu quá hóa kiểu cách, phản tác dụng. Kinh Thánh nói: “Duyên dáng là giả trá, sắc đẹp là phù vân. Người phụ nữ kính sợ Đức Chúa mới đáng cho người đời ca tụng. Hãy để cho nàng hưởng những thành quả tay nàng làm ra. Ước chi nơi cổng thành nàng luôn được tán dương ca tụng do những việc nàng làm.” (Cn 31:30-31) Nét duyên dáng tâm linh mới thực sự cần thiết, nhất là đối với các phụ nữ là Kitô hữu – cả giáo dân và nữ tu. Loại nào cũng có dạng “chảnh” của loại đó, đừng tưởng bở!
Thiên Chúa ban cho người ta những thứ cần thiết để sống. Ai cũng có nhân vị, nhân phẩm, và nhân quyền. Ngày nay, cả đời và đạo không còn nhìn nữ giới bằng “nửa con mắt” như trước, theo kiểu “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô,” nhưng đã có tầm nhìn sâu rộng hơn về vị trí của họ. Kinh Thánh nói: “Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của Người. Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may. Hiền thê bạn trong cửa trong nhà khác nào cây nho đầy hoa trái, và bầy con tựa những cây ôliu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn.” (Tv 128:1-3)
Hình ảnh gia đình hạnh phúc được mô tả rõ nét, phụ nữ có vị trí nhất định, khó có thể thay thế. Thánh Vịnh 128 rất quen thuộc vì thường được dùng làm đáp ca trong các lễ cưới, đặc biệt là lễ Thánh Gia. Gia đình là hình ảnh của Giáo Hội luôn đầy tràn hồng ân của Thiên Chúa. Thánh Vịnh gia xác định và cầu chúc: “Đó chính là phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người. Xin Chúa từ Sion xuống cho bạn muôn vàn ơn phúc. Ước chi trong suốt cả cuộc đời bạn được thấy Giêrusalem phồn thịnh, được sống lâu bên đàn con cháu.” (Tv 128:4-6)
Đó là niềm hạnh phúc đáng mơ ước, vì hạnh phúc đó chính là nhờ hồng ân của Thiên Chúa. Có một câu nhắc nhở người ta thường nói: “Đừng ngủ quên trên chiến thắng!” Lời cảnh báo rất cần thiết, bởi vì con người dễ ảo tưởng mà tự mãn. Khi nghèo, người ta biết thương nhau, nhưng khi giàu, người ta dễ xa nhau. Ma quỷ rất mưu mô và xảo quyệt, nó tìm cách giành lấy linh hồn của chúng ta nên nó dùng chính sự kiêu ngạo để gài bẫy chúng ta. Được người ta khen ngợi khi chúng ta làm được điều gì đó “hay ho” một chút, chúng ta rất dễ “lên mặt,” cứ tưởng mình là “cái rốn” của vũ trụ, cứ tưởng mình có cả một bụng chữ, rồi coi thường người khác. Cụ thi hào Nguyễn Du đã khuyến cáo: “Có tài mà cậy chi tài, chữ TÀI liền với chữ TAI một vần.” (Truyện Kiều, câu 3247-3248) Và cụ nhắn nhủ: “Chữ TÂM kia mới bằng ba chữ TÀI.” (Truyện Kiều, câu 3252) Những mẫu tự T mang ý nghĩa khác nhau, T tốt và T tồi. Cái Tôi luôn đáng ghét!
Về ngoại hình đối với nữ giới (kể cả nam giới), khi thấy mình có ngoại hình chỉ “coi được” một chút là đã “chảnh” lắm rồi, cộng thêm “giỏi” một chút nào đó nữa thì mức độ càng tăng thêm. Thậm chí ngay cả khi làm công việc đạo đức, từ thiện, công ích,… người ta cũng “dám” lấy ngoại hình của mình mà “đè bẹp” người khác. Chính mình “chảnh” mà lại không nghĩ là mình “chảnh,” và họ quên rằng “sắc đẹp là những cánh hoa hồng sẽ bị thời gian tỉa dần.” Vì nông cạn mà ảo tưởng, thật là nguy hiểm vô cùng! Hãy đọc lại và ghi nhớ câu Kinh Thánh này: “Duyên dáng là giả trá, sắc đẹp là phù vân.” (Cn 31:30) Nam giới cũng vậy thôi!
Người ta nói: “Lỗ nhỏ làm đắm thuyền.” Thật vậy, TẬT NHỎ có thể dẫn tới TỘI TO. Những cái đơn giản dẫn tới những cái phức tạp, những cái nhỏ dẫn đến những cái lớn, những cái xa dẫn tới những cái gần, hoặc ngược lại, tiệm tiến và lung khởi. Thánh Phaolô căn dặn: “Thưa anh em, về ngày giờ và thời kỳ Chúa đến, anh em không cần ai viết cho anh em. Vì chính anh em đã biết rõ: ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm. Khi người ta nói: ‘Bình an biết bao, yên ổn biết bao!’ thì lúc ấy tai họa sẽ thình lình ập xuống, tựa cơn đau chuyển bụng đến với người đàn bà có thai, và sẽ chẳng có ai trốn thoát được.” (1 Tx 5:1-3)
Ý tưởng tỉnh thức thường xuyên xuất hiện trong Phúc Âm bất kỳ thời điểm nào, đặc biệt vào thời điểm cuối năm Phụng Vụ, Mùa Vọng và Mùa Chay. Người khôn ngoan là người sống tỉnh thức, sống vì công ích, và công ích có liên quan đức ái – một trong ba nhân đức đối thần quan trọng trong đời sống Kitô hữu. Thánh Phaolô giải thích: “Thưa anh em, anh em không ở trong bóng tối, để ngày ấy như kẻ trộm bắt chợt anh em. Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về đêm, cũng không thuộc về bóng tối. Vậy chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy TỈNH THỨC và SỐNG TIẾT ĐỘ.” (1 Tx 5:4-6)
Có lần Chúa Giêsu vừa so sánh vừa xác định: “Con cái thế gian khôn ngoan hơn con cái sự sáng.” (Lc 16:8) Cái “khôn ngoan” ở đây không phải là một lời khen, mà là một lời cảnh báo và chê trách. Khôn ngoan ở đây là khôn ranh, ranh ma, ranh mãnh, mưu mô, xảo quyệt. Ngôn ngữ bình dân ngày nay gọi là “đểu,” họ không “đểu giả” mà “đểu thật” đấy. Cẩn tắc vô áy náy!
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin gia ân tăng lực để chúng con ý thức sống tích cực và sinh lời phần Ngài đã giao phó cho chúng con, xin cho chúng con biết Ngài và biết mình để có thể đè bẹp “cái tôi” của chúng con, xin biến sự vô dụng của chúng con thành hữu ích cho chúng con và tha nhân. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen. Về mục lục.
Thomas Aq. Trầm Thiên Thu
Tương lai của mỗi người vô cùng phong phú: kẻ yếu hèn sẽ nói hạnh phúc là điều không thể! Người sợ hãi sẽ nói, tình yêu thật là điều tôi chưa nghe, chưa hiểu! Với người dũng cảm, mỗi ngày, mỗi giây phút trong đời, đều là cơ hội. Bạn có tin vào tương lai không, hãy hành động, đó là cơ hội, vì ngay cả khi tiền tài của bạn tựa non cao, giầu sang cùng phú quý, cũng chẳng mua được “tình”? Cuộc sống hiện tại, đúng là cơ hội dành cho ta: thành đạt, có danh có phận, có quả phúc. Đã gọi là cơ hội, không thể chậm trễ, ví như: trâu chậm uống nước đục; trăng đẹp sao sáng về đêm khuya, nhưng không phải đêm nào cũng có “sao băng”. Được sinh ra làm người, lẽ nào bạn không có ước mơ, ít là ước muốn làm người tốt, người hữu ích?
“Các con hãy coi chừng người đời, họ sẽ nộp các con cho công nghị, và sẽ đánh đập các con nơi hội đường của họ”. Đó là sự thật, là một tương lai đáng sợ cho những ai sống hời hợt, khi theo Đức Giêsu làm môn đệ! Vì tinh thần thì lanh lẹ, xác thịt lại yếu đuối: bạn chấp nhận là hèn yếu, hay mang trái tim “thỏ đế”, là hiền nhân quân tử, hoặc vì yêu, vì tín thác Đấng là Thầy là Chúa ở trong bạn? Câu trả lời của mỗi người phải là: có hay không mùa đông mới biết, giầu nghèo, 30 Tết mới hay! Các Thánh tử đạo Việt Nam có cơ hội để chọn lựa, có tự do minh chứng về một tình yêu thật, các ngài không để vụt tắt điều kỳ diệu được nên giống Thầy: thử thách càng to, hạnh phúc càng lớn.
Con người tự nhiên lý luận rằng: luyện mãi thành tài, miệt mài tất giỏi, câu thành ngữ có sức thuyết phục tới đâu, tuỳ thời gian, mức độ và hoàn cảnh mỗi người sẽ tự trả lời. Về phương diện siêu nhiên, con người yếu đuối mỏng giòn, ai đủ bình chân như vại khi nghe Đức Giêsu nói: “các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền, và vua chúa, vì Thầy, để làm chứng cho họ, cho dân ngoại được biết”. Cha ông chúng ta có cơ hội để thăng quan tiến chức, được ăn sung mặc sướng, không phải đau đớn thể xác, không phải chết, nhưng tại sao các ngài từ chối ? Các ngài còn cảm thấy vui, khi nói: đối với tôi, bị bắt vì đạo Chúa là một hồng ân. (Phêrô Tự). Tôi thà chết chứ không bao giờ chịu đạp lên Thánh giá, vì tôi biết đạo Chúa là đạo thật. (Têphanô Vinh).
Hãy học cách lắng nghe, cơ hội có thể gõ cửa rất khẽ khàng. (Frank Tyger). Các thánh tử đạo chắc chắn không phải vì dốt, vì dại khờ, không biết né tránh khổ đau sự chết, lịch sử ghi nhận các ngài vì yêu, vì ước muốn được nên Một Tình Yêu Ba Ngôi. Xã hội văn minh, không ai lấy dạ tiểu nhiên để đo lòng người quân tử, nhất là đụng đến các vị anh hùng dân tộc. Ra khỏi gia đình, bạn sẽ nghe rất nhiều âm vang khác lạ: đừng bao giờ hỏi cha mẹ đã nuôi dạy, đã đầu tư cho bạn thế nào, nhưng hãy tự suy xét, bạn có thương yêu cha mẹ, đã sống chữ hiếu chữ thảo đến đâu rồi? Tiếng nói của các chuyên gia vẫn vô cùng thiết thực: hoàn cảnh sống của bạn có thể nghèo, hèn, có thể bẩn, hôi, nhưng bạn không được hèn nhát, vì tổ tiên dòng tộc của các bạn là anh hùng quân tử.
Là con cháu của các thánh tử đạo, là môn đệ của Đức Giêsu, dù điều kiện, hoàn cảnh, của ta không thuận lợi, nhưng cơ hội vẫn rộng mở: giầu 30 tuổi chớ mừng, khó 30 tuổi xin đừng vội lo. Cơ hội để thành tài, trở nên người hữu ích, là có thật, như lời Chúa Giêsu nói: “khi người ta bắt nộp các con, các con đừng lo nghĩ phải nói gì, vì chưng, không phải các con nói, nhưng chính Thánh Thần của Cha nói trong các con”. Cơ hội tiếp nối truyền thống của tiền nhân, là có sức mạnh và tình yêu Chúa, là để Thánh Thần mách bảo đường đi nước bước, dẫn đến chân lý vẹn toàn. Tình yêu thật, khôn ngoan thật, cũng là cơ hội “thành nhân, thành người hùng tài” theo truyền thống đức tin như Chúa Giêsu diễn tả: “vì Danh Thầy, các con sẽ bị người đời ghen ghét, nhưng ai bền đỗ đến cùng, người ấy sẽ được cứu độ”.
Các thánh tử đạo Việt Nam không giầu tiền của, không bận tâm đến lý lẽ thế gian, nhưng các ngài có sức mạnh của tình yêu, có đủ ý chí tự do, hầu chứng minh với con cháu: thành người, thành danh, thành tài, là nhờ bởi tình yêu Đức Kitô. Nếu thế gian cho rằng: không gì quý hơn mạng sống, ở trong Đức Kitô, hẳn người tín hữu sẽ đủ khôn để nói: không gì quý hơn sự thuỷ trung với ơn gọi nên người tốt, nên muối men cho gia đình, xã hội. Chí khí trung kiên của tiền nhân đã thể hiện được tính anh hùng, các ngài sẽ còn hiệp thông và chuyển cầu cho con cháu biết liên đới sống mầu nhiệm đức tin: không hổ thẹn với trời đất, không vô ơn với bậc sinh thành. Cho dù khó khăn gian khổ còn đó, nhưng kinh nghiệm và phúc lộc của tiền nhân vẫn đang nhắc bảo: bao lâu bạn chưa bỏ cuộc, cơ hội thành người hữu ích, thành môn đệ Đức Kitô là sự thật. Amen. Về mục lục.
Lm. Jos DĐH
PHƯƠNG CÁCH SỬ DỤNG TẶNG VẬT CHÚA BAN
Bài Phúc Âm hôm nay là dụ ngôn cuối cùng trong ba dụ ngôn của Đức Giêsu mà Mátthêu đã kể lại. Mỗi dụ ngôn đều có một ý nghĩa đặc biệt đòi hỏi mọi Kitô hữu phải chuẩn bị cho ngày vinh quang của Đức Kitô trên Vương quốc Nước Trời. Bài Tin Mừng nói về ông chủ, đám bày tôi với những tài năng khác nhau (Mt 25:14-30) cho thấy việc chúng ta làm hàng ngày phải theo thiện chí, và khả năng mà Chúa ban cho. Những việc thiết thân nhất thì chúng ta không thể bỏ qua được. Sứ điệp Chúa muốn gửi cho chúng ta là tinh thần trách nhiệm đối với Thiên Chúa và loài người với nhau để đạt được vương quốc nước Trời.
LÝ DO CHÚA KỂ DỤ NGÔN
Dụ ngôn Chúa kể dựa theo cách sinh hoạt thường ngày trong cuộc sống của chúng ta. Người không ca tụng hay kết án bất cứ thái độ nào, nhưng qua cách chúng ta sống để dạy chúng ta phải sống sao cho hợp với mục đích của vương quốc nước trời.
Dụ ngôn nêu ra một vài thắc mắc. Chuyện có vẻ cổ võ cách sống kiểu tư bản chủ nghĩa, mong cho được giàu sang, lắm tiền nhiều bạc. Thứ đến là cách tính toán sổ sách khi ông chủ trở về. Và như vậy thái độ của ông chủ đối với gia nhân rõ ràng là có khen thưởng và luận phạt.
Theo câu chuyện, Chúa Giêsu muốn làm nổi bật khả năng khác nhau của con người đối với tặng phẩm Chúa ban để đạt Nước Trời. Hai người đầu tiên, vì hiểu rằng họ có tặng phẩm là do lòng quảng đại của Chúa nên đã cố gắng làm theo ý Chúa đúng như cách sống hàng ngày của họ. Đối với tên thứ ba, Thiên Chúa đã hành sử đúng như hắn nghĩ: “Thưa ngài, tôi biết ngài hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi…” (Mt 25:24).
ĐẦY TỚ NGHÈO NHƯNG CẨN THẬN
Tên đầy tớ thứ ba này đúng là quá “cẩn thận” và “chắc ăn”. Hắn xem ra có vẻ ngay thẳng và lương thiện. Vì không thông minh đủ như hai tên kia nên được chủ cho số tiền vốn ít nhất. Tuy nhiên phải công nhận, nếu hắn không phải là người đứng đắn thì ông chủ đã không tin tưởng mà trao cho hắn tiền. Hai tên đầy tớ thứ nhất và thứ hai là những tên thông minh, có óc thương mại, biết nhìn thị trường chứng khoán mà đầu tư để sinh lời gấp đôi. Tên thứ ba luôn luôn sống trong sợ hãi vì biết ông chủ có tính tham lam và đòi hỏi, chỉ thích tiền, không ưa nhân viên làm liều để thất bại… cho nên để chắc ăn đã đem chôn dấu số tiền ông chủ đưa. Theo truyền thống Do Thái, chôn tiền là phương cách an toàn nhất để khỏi bị ăn cắp hay thất lạc. Ở Việt Nam, rất nhiều người cũng hành động giống như vậy, họ không dám mạo hiểm, liều đi vào nơi mà họ không biết hậu quả sẽ thế nào. Vì quá lo lắng và sợ hải, tên này đã trở thành kẻ tội phạm đối với ông chủ. Cuối cùng hắn ta đã mất tất cả. Hắn đã hành động phần nào vì vô ý vô tâm, thiếu thông minh, nhất là quá cẩn thận. Có lẽ ông chủ nên đối sử với hắn một cách hiểu biết, thông cảm thì hay hơn.
TÍNH LUÂN LÝ CỦA CÂU CHUYỆN
Những ai coi cách đối sử của Thiên Chúa với loài người kiểu tiêu cực, nghèo nàn hay bủn xỉn thì cũng sẽ đối sử với đồng loại của mình như vậy. Những người như thế sẽ khó có thể được nhìn thấy vương quốc Thiên Chúa. Đây chính là sự nghèo nàn và mù lòa của tên đầy tớ thứ ba! Hắn đã chẳng dám làm gì cả chỉ vì sợ hãi đã làm hắn tê liệt để rồi không thể tiếp cận được với những người cần phải giúp đỡ đang ở quanh hắn. Trọng điểm của Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô là phải vượt qua mọi sợ hãi để trở thành cần mẫn, đáng tin cậy và sáng tạo để thực hiện ước muốn của Thiên Chúa, không trở thành tên đầy tớ thứ ba “vô tích sự và vụng về lại lười biếng”! Để là môn đệ Chúa Kitô, chúng ta phải dám hy sinh mạng sống mình, chấp nhận cái chết để được “sống”. Nếu chúng ta liều mạng vì một Chúa Kitô toàn vẹn thì chúng ta không thể nhìn thấy kết quả, có lẽ chúng ta phải liều hơn nữa để cam kết với một Giáo Hội bất toàn thì chúng ta mới có thể nhìn thấy. Nếu chúng ta coi niềm tin của chúng ta là cần phải được bảo vệ thì có lẽ nó không được hoàn hảo, và chắc chắn nó sẽ không phát triển và trưởng thành nếu mục đích chính của nó chỉ là “ hành động khi chắc ăn”.
Bài Tin Mừng Chúa Nhật tuần sau là cuộc phán xét sau cùng, sẽ cho chúng ta thấy quang cảnh đối ngược với tên đầy tớ thứ ba. Nó sẽ giúp chúng ta thấy được sự thật sâu thẳm nhất nơi tâm can chúng ta khi chúng ta vượt qua nỗi sợ hãi để cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, tiếp đón kẻ khách lạ, đem áo quần cho kẻ trần truồng, viếng thăm kẻ ốm đau và tù tội.
YẾU TÓ BẤT NGỜ CỦA DỤ NGÔN HÔM NAY
Ngay từ đầu, chúng ta thấy ông chủ đã cho mỗi đầy tớ một số tiền coi như tặng phẩm nhưng không. Ông đã chứng tỏ là một người hoàn toàn quảng đại. Tên đầy tớ thứ ba chẳng hiểu gì về ông chủ, nhất là lòng quảng đại của ông. Hình như hắn chỉ dựa vào hành động của ông về một số công bằng khít khao theo nghĩa đen nên hắn đã hành động bủn xỉn dại dột để rồi cuối cùng đã mất hết tất cả.
Áp dụng quan niệm này vào Thiên Chúa, chúng ta rút ra được một bài học rất hay. Khi chúng ta cố gắng hiểu Thiên Chúa và tạ ơn lòng quảng đại của Người vì đã ban cho chúng ta con một người là Đức Giêsu Kitô, chúng ta sẽ cảm nghiệm được sự tự do và lòng tri ân đặc biệt, để chúng ta chấp nhân hy sinh. Để thực hiện ước muốn của Thiên Chúa, chúng ta phải quyết định dám chấp nhận mạo hiểm vì lòng quảng đại bao la, lẽ công bằng, tình thương sót vô bờ bến và sự tin tưởng của Người đối với nhân loại. Dụ ngôn nhấn mạnh đến lòng can đảm dám hành động; nó giúp chúng ta sửa soan đón nhận những tác động vĩ đại của lòng thương sót, lẽ công bằng của Thiên Chúa trong giờ phán xét sau cùng!
KẾT LUẬN: KHO TÀNG PHẢI ĐƯỢC SỬ DÙNG, ĐẦU TƯ VÀ CHIA SẺ
Để kết luận, xin mượn bài giảng của ĐGH Biển Đức XVI tại thánh đường Angelus ngày 16-11-2008 để cùng nhau suy niệm.
“Tài năng” giống như đồng bạc cổ La Mã rất có giá trị, và đặc biệt vì tính phổ thông của câu chuyện dụ ngôn, nó trở thành đồng nghĩa với quà tặng cá nhân mà mỗi người chúng ta được Thiên Chúa kêu gọi phải phát triển. Câu chuyện nói: ông chủ sửa soạn đi du lịch xa nhà lâu ngày, đã gọi các gia nhân lại và tin tưởng trao cho họ tài sản của mình (Mt 25:14). Ông chủ ở đây là Đức Kitô, người làm là các môn đệ, và tài năng là những tặng phẩm mà Đức Giêsu đặt tin tưởng trao cho họ. Những tặng vật này, ngoài những đặc tính tự nhiên của nó, còn tượng trưng cho sự phong phú mà Chúa Giêsu đã truyền lại cho chúng ta làm di sản, vì vậy chúng ta phải làm sao để nó phát triển và sinh lời: Lời Chúa trong Tin Mừng, nơi Phép Thanh Tẩy đã canh tân chúng ta trong Chúa Thánh Linh. Khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta ca tụng Thiên Chúa, chúng ta là con cái Người, hiệp nhất với con một Thiên Chúa; sự tha thứ mà người đã ban cho tất cả chúng ta; Mình Thánh Chúa đã hy sinh; Máu Chúa đã đổ ra. Gọn một lời, Vương Quốc Thiên Chúa chính là Thiên Chúa, hiện tại và sống động giữa chúng ta hằng ngày!
Đây là một kho tàng mà Chúa Giêsu đã đặt tin tưởng trao cho các bạn của người vào giờ phút cuối cùng của cuộc sống ngắn ngủi nơi dương thế. Bài dụ ngôn hôm nay nhấn mạnh đến tính thiên hướng nội tại cần thiết để chấp nhận và phát triển tặng phẩm này. Sợ hãi là một thái độ sai lầm: tên đầy tớ sợ ông chủ, sợ cả lúc ông trở về, đã chôn đồng tiền xuống đất nên nó chẳng sinh lời gì cả. Điều này xẩy ra cho những ai, sau khi chịu phép Thánh Tẩy, Rước Lễ và phép Thêm Sức đã chẳng làm gì cả, lại đem những tặng vật đó dấu dưới chăn mền của thiên kiến, của hình ảnh sai lầm về Thiên Chúa, đã làm tê liệt niềm tin và những tác động thiện của họ. Tuy nhiên, câu chuyện cũng nói lên những tác động sinh hoa trái lớn lao do các môn đệ đã sung sướng khi đón nhận những tặng vật mà không đem chôn vì sợ hãi hay ghen ghét, nhưng làm cho nó sinh lời bằng cách cộng tác và chia sẻ. Đúng vậy, Chúa đã ban cho chúng ta gấp cả ngàn lần như vậy!
Kho tàng này phải được chi dùng, đầu tư và chia sẻ cho tất cả mọi người, như thánh Phaolo Tông đồ, nhà hành chánh vĩ đại của Chúa Giêsu về tài năng đã dạy. Bài Tin Mừng Mátthêu hôm nay cũng đã cho chúng ta -về phương diện lịch sử và xã hội- một bài học rất giá trị là khuyến khích lòng can đảm và tinh thấn dấn thân của mọi Kitô hữu. Về mục lục.
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD
LỄ THÁNH CÁC THÁNH TỬ ÐẠO VIỆT NAM
[2 Mcb 7,1.20-23.27b-29; Rm 8,31b-39; Mt 10,17-22]
35 NĂM TUYÊN THÁNH CÁC CHÂN PHÚC TỬ ĐẠO VIỆT NAM - Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
“TẨY TRẮNG ÁO MÌNH TRONG MÁU CON CHIÊN” - Phêrô Phạm Văn Trung
SỨC MẠNH QUẬT KHỞI TRONG MỘT TINH THẦN BẤT BẠI - Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng
CHẾT VÌ LẼ CÔNG CHÍNH – SỐNG VÌ TÌNH YÊU THIÊN CHÚA - P. Trần Đình Phan Tiến
Ý NGHĨA SỰ TUẪN GIÁO CỦA CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM - Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
HÙNG CA TỬ ĐẠO - Thomas Aq. Trầm Thiên Thu
LÒNG MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI NƠI CÁC THÁNH TĐVN - Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
TỬ ĐẠO TRONG THẾ KỶ 21 - Tu sĩ Jos. Vinct. Ngọc Biển, S.S.P
GIỌT MÁU ĐÀO - Thomas Aq. Trầm Thiên Thu
TỬ ĐẠO VÀ SỐNG ĐẠO - (Thế Kiên Dominic)
35 NĂM TUYÊN THÁNH CÁC CHÂN PHÚC TỬ ĐẠO VIỆT NAM
Đọc lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam, khởi đi từ những bước chân thừa sai của các nhà truyền giáo. Sách Khâm Định Việt Sử ghi lại sự đặt chân của giáo sĩ Inikhu vào năm 1533 trên đất Việt, làng Ninh Cường và Trà Lũ. Tiếp theo là Gaspar da Cruz, Alexandre de Rhodes, Pedro Marques v..v…, với dòng thời gian, hạt giống Tin Mừng được gieo vào lòng đất Việt đã âm thầm mọc lên và sinh hoa kết trái. Năm 1659, Tòa Thánh đã thiết lập hai Địa phận Tông Tòa Đàng Trong và Đàng Ngoài. Rồi đến năm 1960, thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII đã thiết lập hàng Giáo phẩm Việt Nam.
Ba trăm năm loan báo Tin Mừng, một trang sử truyền giáo hào hùng, nhưng cũng đầy đau thương và đẫm nước mắt. Từng ngàn giáo dân tử đạo, từng trăm số người đã chết lưu lạc trên núi, trong rừng sâu nước độc! Tuy nhiên, một trang sử mới đã mở ra nhờ sự hy sinh tuyệt vời của các thừa sai, cũng như hàng hàng lớp lớp người tử vì Đạo đã nằm xuống với muôn cực hình cay đắng, khốn khổ. Dòng máu của các ngài đã đổ ra, tuôn trào, tưới gội Hội Thánh Việt Nam, từ các tỉnh phía Bắc đến tận miền sáu tỉnh phía Nam, từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX làm cho Hội Thánh lớn lên và phát triển, không ngừng sinh hoa kết quả tươi tốt, đúng như lời Tertullien đã viết: “Máu tử đạo là hạt giống trổ sinh người tín hữu”.
Đúng, máu các thánh Tử đạo đã đổ chan hòa mặt đất. Những dòng máu thuộc đủ thành phần xã hội: từ người làm nông đến chài lưới, từ thương lái đến lương y; từ học sinh đến thầy đồ; từ lý trưởng, cai tổng, binh lính đến quan văn, quan võ; từ giáo dân, ông trùm, ông quản đến chủng sinh, linh mục, giám mục; từ người ngoại quốc đến người bản địa… Tất cả đều mang trong mình một niềm tin son sắt, một tình yêu nồng cháy, một tinh thần can đảm quật cường, sẵn sàng chịu muôn ngàn thử thách vì danh thánh Chúa Kitô. Dù ngục tù, gươm đao, dù bị róc xương xẻ thịt, các ngài vẫn một lòng trung thành với Đạo Chúa. Dù bị tra tấn, hành hình man rợ, các ngài vẫn một lòng yêu mến Chúa. Các ngài đã yêu đến cùng, yêu đến thí mạng, sẵn sàng tha thứ cho những kẻ đã bách hại mình.
Cơ mật viện khoáng đại ngày 22 tháng 6 năm 1987 mở ra lúc 12 giờ trưa với sự chủ toạ của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II tại Vatican. Có 28 Hồng Y, 70 Tổng Giám mục và Giám mục tham dự để tuyên thánh Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Kết thúc Cơ Mật Viện, Đức Hồng Y Casaroli, Quốc Vụ Khanh, đã gửi điện tín cho Đức Hồng Y Giuse Maria Trịnh Văn Căn đang là Tổng Giám mục Hà Nội, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam lúc đó để thông báo cho biết Đức Thánh Cha đã nghị quyết phong thánh cho Các Chân Phước Tử Đạo Việt Nam.
Theo lời Đức Ông Vinh Sơn Trần Ngọc Thụ, cáo thỉnh viên án tuyên thánh này thì: Theo thông lệ, khi xin nhật kì phong thánh, bao giờ cũng phải dự tính sẵn 3 ngày, để đề phòng trường hợp Tòa Thánh đã có chương trình xếp đặt nào khác thì mình cũng phải thay đổi theo. Lễ Phong Thánh Việt Nam đã xin vào ngày 29 tháng 6 năm 1988, lễ hai Thánh Phêrô và Phaolô, nhưng người ta khuyến cáo không nên, vì sẽ bị hai Thánh Quan Thầy quá lừng danh của Thủ đô Roma lấn át mất. Đã có dự tính chuyển sang Chúa Nhật 26 tháng 6, nhưng cũng không ổn, vì hôm đó Đức Thánh Cha đi công du bên Áo quốc. Chỉ còn Chúa Nhật 19 tháng 6, nghĩa là xếp trước cuộc công du của Đức Thánh Cha một tuần lễ, vì trước sau ngày đó không còn cách nào khác. Đây là lí do duy nhất và dễ hiểu, chứ không hề có chuyện nghĩ tới, hay là mảy may muốn kỉ niệm Ngày Quân Lực VNCH như người ta đã cố tình gán ghép.
Toàn thể Giáo Hội Việt Nam vui mừng khi nghe tin Đức Thánh Cha nghị quyết tuyên Hiển thánh cho Các Chân Phúc Tử Đạo Việt Nam.
Hà Nội khi đó nhận định, việc tuyên thánh này sẽ làm cho mối liên lạc giữa chính quyền và Giáo hội Công giáo tại Việt Nam, cũng như mối quan hệ giữa Việt Nam và Vatican thêm căng thẳng. Đài tiếng nói Việt Nam đọc lệnh của chính phủ, cấm người Công giáo cử hành lễ tuyên thánh này. Các Giám mục lẫn giáo dân Việt Nam cũng không được chính quyền cho phép sang Vatican dự lễ. Trong khi đó, 8.250 giáo dân VN từ 27 nước trên 4 lục địa Á châu, Âu châu, Mĩ châu và Úc châu….Từng đoàn người tuốn về các ga xe lửa và sân bay Ý Đại Lợi. Thêm vào đó, 560 linh mục, tu sĩ nam nữ tới Roma, cùng với nhiều người từ Pháp, Tây Ban Nha đã đến Vatican để dự lễ vì trong số người được tuyên thánh có đồng hương và đồng bào của họ.
Khởi đi từ Chúa nhật ngày 19 tháng 6 năm 1988, ngày Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nâng 117 vị chân phước tử đạo Việt Nam lên hàng hiển thánh. Giáo Hội đã chọn ngày 24 tháng 11 để cả hoàn vũ cùng mừng kính Các Ngài đến nay tròn 35 năm.
Con dân Việt Nam muôn phương hân hoan vui sướng và hãnh diện tri ân Các Ngài đồng thời hô vang: "Vạn vạn tuế các Thánh Tử Đạo Việt Nam, vạn vạn tuế các Thánh Tử Đạo anh hùng".
Làm sao kể lại cho hết tất cả là 117 vị Tử Đạo hiển thánh và 1 vị Á thánh, trong đó 8 vị Giám Mục, 50 Linh Mục, 59 Giáo dân, trong số đó một phụ nữ là Thánh Anê Lê Thị Thành mẹ của sáu người con.
Ngày 05 tháng 3 năm 2000, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tuyên phong thầy giảng Anrê Phú Yên lên bậc Chân Phước.
Hiện nay, hơn 10 ngàn hồ sơ tuyên thánh của các tín hữu Công giáo Việt Nam đang được lưu giữ trong văn phòng của Thánh Bộ Tuyên Thánh ở Rôma.
Ngoài ra từ năm 2012, cuộc điều tra tuyên Thánh cấp giáo phận cho Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp bắt đầu được tiến hành.
Ngày 26 tháng 3 năm 1997, Hội Thân hữu Thầy Văn (Les Amis de Van) tại Belley-Ars, Pháp đã bắt đầu mở án tuyên chân phước và tuyên thánh cho thầy Marcel Nguyễn Tân Văn.
Ngày 22 tháng 10 năm 2010, tại Rôma, Hội đồng Tòa Thánh về Công lý và Hòa bình đã bắt đầu tiến trình xin tuyên chân phước và tuyên thánh cho vị Tôi tớ Chúa là Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận.
Chúa nhật ngày 29 tháng 10 năm 2023, tại Nhà thờ Chính Tòa Hà Nội, phiên khai mạc cuộc điều tra án phong chân phước và phong thánh cho Tôi tớ Chúa, Đức cha François Pallu đã diễn ra.
Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam, xin giúp chúng con trung thành với Đức tin đã lãnh nhận, yêu mến Chúa, và Giáo hội bằng tinh thần cộng tác, hiệp thông và đồng trách nhiệm trong sứ mạng loan báo Tin Mừng trên quê hương đất nước chúng con. Amen. Về mục lục
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
“TẨY TRẮNG ÁO MÌNH TRONG MÁU CON CHIÊN”
Trong lễ kính các Thánh Tử đạo Việt Nam hôm nay, chúng ta nhớ về tất cả các nhân chứng “mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế” (Kh 7: 9), các Kitô hữu, giám mục, linh mục, tu sĩ dòng Đa Minh, Hội Thừa Sai Paris, giáo dân, phụ nữ và trẻ em, những người đã bị giết bằng những cách thức khủng khiếp nhất trong hàng loạt cuộc đàn áp ở Việt Nam vào thế kỷ 17 đến thế kỷ 19. Có hàng ngàn người - có người nói lên đến trăm ngàn người - đã hiến mạng sống vì Đức Tin, trong đó có 117 vị đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II chính thức phong thánh vào năm 1988. Xin được kể đến Cha Anrê Dũng Lạc, một linh mục Việt Nam, Cha Théophane Vénard - Ven, một linh mục quê nước Pháp, và Đức Cha Melchior Garcia Sampedro – Xuyên, một giám mục quê Tây Ban Nha:
* Thánh Anrê Dũng Lạc là một linh mục địa phận, tên là Trần An Dũng (Lạc), sinh năm 1795 ở miền Bắc Việt Nam, bố mẹ là người ngoại đạo. Năm 12 tuổi, cậu cùng gia đình chuyển ra Hà Nội để bố mẹ tìm việc làm. Một thầy giảng ở đó đã chu cấp cho cậu thức ăn, chỗ ở và giúp cậu được học hành. Dũng được rửa tội và chọn tên là Anrê. Lớn lên cậu trở thành thầy giảng, dạy giáo lý đức tin cho người khác, và cuối cùng được chọn để học làm linh mục. Thầy Anrê được thụ phong linh mục năm 1823. Cha Anrê được biết đến như một nhà giảng thuyết hiệu quả và là tấm gương thánh thiện cho những người mà Cha phục vụ. Khi nhà vua bắt đầu đàn áp những người theo đạo Thiên Chúa, Cha Anrê đã bị bắt hai lần, nhưng các giáo hữu lo tiền để chuộc Cha ra. Lần thứ ba bị bắt, có giáo hữu định cầm cố cả cơ nghiệp lấy tiền mà chuộc Cha và viết thư cho Cha rằng: “Lạy cha! Cha chịu tử vì đạo thì được một mình Cha lên Thiên Đàng, nhưng nếu Cha còn ở lại thì bổn đạo chúng con được nhờ, xin Cha nghĩ lại”. Người nhà quan cũng đã nói rằng: “Hễ khi có tiền, thì chúng tôi bỏ người vào võng mà võng ra”. Thế nhưng, Cha cấm và nói: “Tôi bị bắt lần này là lần thứ ba, thì quyết vâng ý Đức Chúa Trời định cho tôi làm vậy, đừng chuộc tôi làm gì”. Cha bị xử trảm vào ngày 21 tháng 12 năm 1839 ở bãi ngoài cửa ô Cầu Giấy.
* Thánh Gioan Théophane Vénard Ven, Linh mục Hội Thừa sai Paris, sinh ngày 21/11/1829 tại miền Tây Nam nước Pháp. Thuở nhỏ đã có lòng ao ước làm linh mục nên được cha mẹ gởi vào học Latinh với cha xứ, sau đó, học tại tiểu chủng viện, đại chủng viện và được chịu chức linh mục năm 1852. Cha được sai đi phục vụ địa phận Tây đàng ngoài. Ngày 13/07/1854, thuyền cha cập bến cửa Cấm. Sau vài tháng học tiếng Việt, cha tháp tùng Đức cha đi kinh lý khắp nơi và dạy ở chủng viện. Khi quân lính vây làng, thì từ đầu tháng 03/1857, Cha Ven bắt đầu những ngày tháng lưu lạc, rày đây mai đó không lúc nào yên ổn. Ngày 30/11/1860, nhân lúc cha đang giảng tuần đại phúc tại Bút Sơn, Kim Bảng, viên cai đội đem người đến bắt Cha, nhốt cha vào cũi giải xuống Phủ Lý rồi điệu về Thăng Long. Khi quan ra lệnh: “Hãy đạp lên Thánh Giá anh sẽ thoát chết”. Cha đáp: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo Thập Giá, sao tôi làm như thế được? Tôi thiết nghĩ, sự sống đời này đâu quá quý đến độ tôi phải mua nó bằng cái giá bội giáo”. Ngày 23/12/1860, Cha Ven bị điệu ra xử trảm.
* Thánh Melchior Garcia Sampedro - Xuyên sinh ngày 26/04/1821 tại Arrojo, tỉnh Oviedo, nước Tây Ban Nha. Gia đình ngài thuộc dòng dõi quý tộc, nhưng đã sa sút đến chỗ nghèo khổ. Năm 21 tuổi, thầy Sampedro học thần học ở Chủng viện Oviedo. Ba năm sau, thầy xin vào dòng Đa Minh để được đi truyền giáo. Sau năm tập, thầy tuyên khấn và chuẩn bị thụ phong linh mục ngày 29/05/1847. Đến Manila, cha Sampedro xin và được cử đến Việt Nam vào tháng 02/1849. Từ nay cha có tên mới là Xuyên. Tháng 03/1850 cha Xuyên được Đức cha Sanjurjo - An đặt làm Giám đốc chủng viện ở Cao Xá. Tháng 7, cha được chọn làm đại diện giám tỉnh. Cha Xuyên cho in nhiều tập sách giáo lý nhỏ cho giáo hữu và quan tâm truyền giáo cho lương dân. Năm 1852, Đức cha An đã chọn cha Sampedro làm giám mục phó. Lễ tấn phong được cử hành long trọng ngày 16/09/1855 tại Bùi Chu. Đức cha Xuyên nhiệt tình trong sứ vụ mới. Riêng năm 1855, địa phận Trung có 35.349 trẻ em được rửa tội. Cuộc bách hại gia tăng, Đức cha Sanjurjo - An chịu tử đạo ngày 20/07/1857. Còn Đức cha Xuyên, dù bị ra giá cao cho ai bắt được, vẫn lén lút đi thăm các họ đạo vào ban đêm. Đề phòng giáo phận sẽ không có chủ chăn, Đức cha Xuyên đã chọn cha Valentino - Vinh làm giám mục phó. Lễ tấn phong của vị giám mục gậy tre mũ giấy được cử hành âm thầm vào ban đêm tại nhà một giáo dân ở Ninh Cường. Ngày 08/07/1858 tại Kiên Lao, Đức cha Xuyên bị bắt cùng hai chú giúp lễ Nguyễn Tiệp và Mai Hiến. Sau 20 ngày trong ngục, Đức cha lãnh án lăng trì ngày 28/07/1858. Trên đường ra pháp trường Bảy Mẫu, một tay cầm sách nguyện, tay còn lại Đức cha giơ cao ban phép lành cho dân chúng. Tuy nhiên cũng có kẻ lấy bùn ném vào ngài. Sau khi hai cậu Tiệp và Hiến đón nhận phép lành của Đức cha, rồi đưa cổ chịu chém, lý hình xô vị giám mục nằm sấp trên chiếu có phủ vải, rồi họ cột chân tay căng vào bốn cọc ở bốn phía, và thêm hai cọc ở dưới nách để nạn nhân khỏi cựa quậy. Đức cha thụ án “xử bá đao”, thi thể được chôn dưới một hố sâu. Thủ cấp thì bêu nơi công cộng ba ngày. Về sau các giáo hữu đưa thi hài Đức cha về an táng tại Phú Nhai. Năm 1888, thi hài của ngài được dời về quê hương Oviedo, nhưng tay phải thì để lại Bùi Chu, còn tay trái được đưa về Manila.
Cuộc bắt đạo kéo dài từ năm 1745 đến năm 1862, qua hai đời chúa: Trịnh Doanh (1740-1767), Trịnh Sâm (1767-1782), và bốn đời vua: Cảnh Thịnh (1782-1802), Minh Mạng (1820-1841), Thiệu Trị (1841-1847), Tự Đức (1847-1883). Cuộc bách hại lâu dài và lan rộng như vậy nhắc nhở chúng ta rằng những người trở lại đạo và thực hành đức tin Công giáo đã làm như vậy với sự hiểu biết đầy đủ về những nguy hiểm mà họ phải đối mặt. Dù sao thì việc họ chọn đi theo Chúa Giêsu cũng cho thấy một đức tin sâu sắc mà nhiều người trong chúng ta khó có thể tưởng tượng được. Phần lớn người Công giáo chúng ta ngày nay không phải mạo hiểm mạng sống của mình khi theo Chúa Kitô, nhưng tuy nhiên, đức tin của chúng ta đang gây tranh cãi và các giá trị của niềm tin mà chúng ta cần phải sống thường bị coi thường. Chúng ta hãy ngắm nhìn các Thánh Tử đạo Việt Nam và cầu nguyện với các ngài để chứng tá Đức tin của các ngài truyền cho chúng ta sự hứng khởi đón nhận những rủi ro nho nhỏ hàng ngày mà chúng ta gặp phải khi sống đức tin của mình, biết rằng phần thưởng cho việc chọn Chúa Giêsu sẽ lớn hơn nhiều so với bất kỳ cuộc bách hại nào chúng ta trải qua trong cuộc đời này.
Như Thánh Théophane đã viết cho gia đình ở quê nhà Pháp, không lâu trước khi ngài chịu tử đạo:
Tất cả chúng ta đều là những bông hoa được trồng trên trái đất này, được Chúa hái vào thời điểm thuận tiện của Ngài: một số sớm hơn một chút, một số muộn hơn một chút . . . Cầu mong cha con chúng ta gặp nhau trên thiên đường. Con, chú sâu bướm tội nghiệp, đi trước. Tạm biệt.
Công cuộc truyền giáo trong Giáo hội nói chung, và tại Việt Nam cách riêng, cho chúng ta một cái nhìn rõ ràng về mọi thứ ở trần gian này diễn ra như thế nào trước khi Chúa Kitô đến lần cuối cùng và sự thật cứu độ của Ngài - khác xa với khu vườn địa đàng thần thoại mà trí tưởng tượng của phàm nhân nghĩ ra. Đúng là luôn có một sự cao quý nào đó trong mọi nền văn hóa, ngay cả những nền văn hóa ngoại giáo nhất, vì Con người, dù ở xa Chúa Kitô, cũng không bao giờ đánh mất phẩm giá cũng như nhận thức của mình về những nguyên tắc cơ bản nhất của luật luân lý. Nhưng nói một cách thành thật, trong một nền văn hóa không có Chúa Kitô có nhiều thứ vô cùng tàn ác, một biểu hiện của nó là những kiểu tra tấn và hành quyết rất ghê sợ. Các vị tử đạo Việt Nam đã phải chịu đựng những điều gần như ngoài sức tưởng tượng. Chẳng hạn, án xử tử mà người dân Việt Nam thường gọi là “tùng xẻo” – nghĩa là đánh một tiếng trống “tùng” thì xẻo một miếng thịt. Đó là một hình phạt được quy định trong Luật Gia long gọi là “lăng trì” hay “xử bá đao”. Điều 1 Luật Gia Long có đoạn nói: Lăng trì là một hình phạt ghê khiếp nhất trong các hình phạt. Quy tắc của xử tội này là người ta khoét 1 tấc thịt trên thân thể tội nhân, róc cho đến khi hoàn toàn hết thịt, liền sau đó, cắt mổ bụng, moi tạng phủ cho đến khi chết hẳn, rồi sau đó cắt lấy tay chân và cắt những khớp xương, đập nát xương sống. Lăng trì là loại cực hình ghê rợn nhất, phạm nhân sẽ vô cùng đau đớn nhưng không thể chết một cách nhanh chóng bởi đao phủ không chỉ có nhiệm vụ xẻo thịt mà còn phải giữ cho tử tội không chết trước khi đạt được số nhát xẻo theo quy định. Trong một số tài liệu, thông thường nạn nhân phải chịu khoảng 3.000 nhát dao thì mới có thể “được” chết. Điều này hoàn toàn có thật nơi rất nhiều nạn nhân, bị xẻo từ từ cho đến chết trước mắt những người chứng kiến. Các thánh sau đây đã chịu án “phân thây” này:
* Thánh Gioan Du (Joseph Marchand), sinh năm 1803 tại Passavaut, Besancon, Pháp, Linh Mục Hội Thừa sai Paris, địa phận Ðàng Ngoài, bị xử hình bá đao ngày 30/11/1835 tại Thợ Ðúc dưới đời vua Minh Mạng.
* Cha thánh Gioan Tân (Jean Charles Cornay), sinh năm 1809 tại Loudun, Poitiers, Pháp, Linh Mục Hội Thừa sai Paris, địa phận Tây Ðàng Ngoài, bị xử lăng trì ngày 20/09/1837 tại Sơn Tây dưới đời vua Minh Mạng.
* Thánh Augustinô Phan Viết Huy, sinh năm 1795 tại Hạ Linh, Bùi Chu, binh Sĩ, Giáo dân dòng ba, bị xử lăng trì ngày 12/06/1839 tại Thừa Thiên dưới đời vua Minh Mạng.
* Thánh Nicôla Bùi Đức Thể, sinh năm 1792 tại Kiên Trung, Bùi Chu, Giáo dân, binh sĩ, bị lăng trì ngày 12/06/1839 tại Thừa Thiên dưới đời vua Minh Mạng.
* Thánh Giuse Melchor Xuyên (Garcia Sampedro), sinh năm 18211 tại Cortes Asturias, Tây Ban Nha, dòng Ða Minh, Giám mục thừa sai người Tây Ban Nha, bị xử lăng trì ngày 28/07/1858 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Tự Ðức.
Điều này không làm các vị tử đạo lo sợ, sâu xa trong tinh thần của họ. Khi cha Vénard được dẫn đi tử đạo, tên đao phủ hỏi vị linh mục rằng ngài sẽ cho hắn cái gì để cái chết của ngài được nhanh chóng. Théophane bình tĩnh trả lời, “càng lâu càng tốt.”
Chúng ta hẳn kinh ngạc về việc này, nhưng một người luôn hướng mắt về thiên đàng, thì sự đau khổ về thể xác sẽ không đáng kể nữa, và nỗi sợ hãi được tình yêu biến đổi. Đó là một điều đáng suy ngẫm trong cuộc sống hàng ngày nhiều khó khăn của chúng ta. Như một trong các vị tử đạo, Thánh Phaolô Lê Bảo Tịnh (1793 - 1857), khi còn là thầy ở chủng viện, bị giam cầm lâu ngày trong lao tù tại Hà Nội, vì thương nhớ Chủng viện Kẻ Vĩnh, nên ngày 24-4-1843 đã gửi thư cho các cha và anh em chủng sinh:
Tôi, Phaolô, đang bị xiềng xích vì Chúa Kitô, từ chốn lao tù xin gửi lời kính thăm anh em. Nguyện xin Cha nhân ái và Chúa giàu lòng khích lệ đến an ủi anh em trong bất cứ hoàn cảnh nào. Chớ gì phép lành của Chúa sẽ là sương sa thấm gội và vun trồng việc học hành, gia tăng mức tiến cả về tu đức, cả về kiến văn, để anh em mau đạt tới chỗ hoàn hảo, thành tài. Có như thế qua anh em, người bên lương sẽ được chúc phúc và họ sẽ được bảo toàn hương thơm tốt lành của anh em.
Thánh nhân chia sẻ:
Nhà tù ở đây thực là hình ảnh của địa ngục: trước những hình thức tra tấn dã man – gông cùm, xiềng xích – có thêm hận thù, trả thù, vu khống, nói năng tục tĩu, cãi vã, hành động xấu xa, chửi thề, cũng như đau đớn và thống khổ.
Nhưng ngài kết luận, với niềm hy vọng và thậm chí với một mức độ hạnh phúc nội tâm nào đó mà chỉ có đức tin trọn vẹn của Công giáo mới có thể mang lại:
Giữa những cực hình thường làm người khác khiếp sợ, nhờ ân sủng của Thiên Chúa, tôi tràn đầy niềm vui và hân hoan, vì tôi không cô đơn – Chúa Kitô ở cùng tôi. Thầy của chúng ta mang toàn bộ sức nặng của thập giá, chỉ để lại cho tôi chút nhỏ nhất, cuối cùng. Ngài không chỉ là người đứng xem trong cuộc chiến đấu của tôi mà còn là một thí sinh, người chiến thắng và vô địch trong toàn bộ trận chiến. Vì vậy, trên đầu Ngài đội mão triều thiên chiến thắng, và các thành viên của Ngài cũng được chia sẻ vinh quang với Ngài.
Giữa những khó khăn, giông bão và thậm chí cả những cuộc bách hại, chúng ta ghi nhớ trong tâm trí tấm gương cao cả của đội quân tử đạo mặc áo trắng này, vì “Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta?” (Rm 8:31). Thiên đàng đang chờ đợi, và chúng ta phải kết thúc cuộc hành hương cùng với Đấng Cứu Độ, dù cuộc hành hương đó có thể dẫn đến đâu, cùng với sức mạnh của Chúa Thánh Thần, như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II công bố trong bài giảng Lễ tuyên thánh 117 vị tử đạo Việt Nam, ngày 19 tháng Sáu năm 1988: “Thánh Thần, Thần chân lý, Ngài sẽ là sức mạnh thay cho sự yếu đuối của anh em. Anh em sẽ làm chứng bằng sức mạnh của Ngài. Chính sự kiện anh em phải làm chứng cho Chúa Kitô chịu đóng đinh thập giá, lại chẳng cần đến sự khôn ngoan và sức mạnh vượt trên sức mạnh loài người sao? Khi Thánh Tông đồ viết rằng thập giá “là sự ô nhục đối với người Do Thái và điên rồ đối với người Hi Lạp” (1 Cr 1,23), lại chẳng phải là nói về Chúa Kitô sao? Đã xảy ra như thế vào thời các Tông đồ. Cũng lặp lại như thế trong những thời kỳ khác nhau của lịch sử, ở những nơi chốn và thời điểm khác nhau. Cũng xảy ra như thế vào thời bách hại tôn giáo chống lại các Kitô hữu Việt Nam. Do đó, cần phải có sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa để loan báo mầu nhiệm tình yêu này của Thiên Chúa, nghĩa là ơn cứu chuộc trần gian nhờ thập giá: mầu nhiệm vĩ đại nhất, đồng thời là điều không thể hiểu được về mặt nhân loại. “Bởi vì cái điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn sự khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh mẽ hơn sức mạnh loài người” (1 Cr 1,25). Chính vì thế Thánh Tông đồ viết: “Chúng tôi rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đinh thập giá”: Chúa Kitô mà cụ thể trong mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài, chính là “sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1 Cr 1,23-24). Vâng. Như của lễ toàn thiêu, kết hợp với hy tế thập giá của Chúa Kitô. Thật vậy, cách riêng với các ngài, thưa Các Vị Tử đạo Việt Nam, các ngài đã loan báo đến cùng Chúa Kitô chịu đóng đinh thập giá, là sự khôn ngoan và sức mạnh của Thiên Chúa. Chúng ta hướng về Chúa Kitô, nhờ Chúa Kitô, chúng ta đạt đến ơn cứu độ của Thiên Chúa.”
Lạy Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, cầu cho chúng con! Về mục lục
Phêrô Phạm Văn Trung
SỨC MẠNH QUẬT KHỞI TRONG MỘT TINH THẦN BẤT BẠI
Đọc lại lịch sử buổi đầu của Hội Thánh Việt Nam, tôi thấy rất giống bối cảnh lịch sử Hội Thánh hoàn vũ thuở bình minh. Ngày ấy, Hội Thánh tiên khởi rất mới mẽ, rất non nớt.
Sau khi Chúa Giêsu về trời (khoảng đầu thập niên 30), các thánh tông đồ và các Kitô hữu đầu tiên vâng lệnh Chúa lên đường tiếp nối sứ mạng của Chúa. Tin Mừng chỉ mới ở giai đoạn khởi đầu, Đức tin của các Kitô hữu còn chưa kịp trưởng thành, thì năm 64, Hội Thánh bị bách hại dữ dội.
Càng bị bách hại, càng nếm trải đau khổ và sự chết bao nhiêu, đức tin ấy càng cho thấy nó có một sức mạnh lạ lùng bấy nhiêu.
Và sự khẳng định đức tin, bằng những dòng máu đỏ thắm, nơi chính các Kitô hữu càng rực sáng, đáng quý trọng.
Có đọc lại lịch sử, có cảm nhận hết những thương đau mà các Kitô hữu đầu tiên phải chịu, ta mới thấy hết sức mạnh không thể lay chuyển của đức tin. Một dức tin dù mới mẽ, lại kiên trung đến phi thường, mới chính là phép lạ không thể hiểu nổi đối với lý trí con người.
Chẳng hạn cuộc bắt bớ của hoàng đế Neron, bạo vương khét tiếng, độc ác kinh hoàng, từng giết vợ, mẹ và con mình. Để giập tắt dư luận lúc đó đang đổ thừa cho hoàng đế đốt thành Rôma, ông đã đổ lỗi cho các Kitô hữu.
Ông ra lệnh bắt bớ khắp thành. Các Kitô hữu phải chịu vô vàn những hình phạt tinh vi. Đó là những gì rùng rợn và nhục nhã nhất chụp xuống trên Hội Thánh nhỏ bé này.
Giết người bằng mã tấu, bằng gươm, bằng những hình khổ dã man như: đâm, chém, phanh thây, treo thập giá… vẫn chưa lấy làm đủ, ông còn tạo ra những trò tiêu khiển như lột trần họ, rồi bỏ vào hầm thú dữ đói để nhìn ngắm cảnh tượng thú dữ rượt đuổi, còn họ thì chạy vòng khắp hang cùng với sự hoảng loạng, sợ hãi và la hét rợn trời cho đến khi thú dữ nhai sạch xác họ.
Có khi ông cho họ mặc da thú vật để cho chó cắn xé. Hoặc ông buộc chặt cả một tập thể vào các thập giá, tẩm dầu, để đêm đến đốt lên cháy sáng như những ngọn đuốc…
Sự tàn độc vô độ của ông lớn đến nỗi, dù bị vu oan đốt thành Rôma, một tội ác nặng nề, nhưng dần dần người ta nhận ra việc khử trừ các Kitô hữu không phải vì lợi ích của đất nước, mà chỉ vì sự độc ác của một con người.
Chính trong thời hoàng đế Neron, năm 64, thánh Phêrô và năm 67, thánh Phaolô bị giết. Tất cả cùng chịu đóng đinh thập giá.
Cũng vậy, những cuộc bắt bớ trên đất Việt cũng gần giống như thế. Nhiều vị Thánh Tử đạo Việt Nam bị hiểu lầm, thậm chí bị vu oan. Chẳng hạn trường hợp thánh Phaolô Hạnh. Sống ở Chợ Quán, Sài Gòn và làm nghề buôn bán.
Thánh nhân là thanh niên nổi tiếng về sự quen biết những tay anh chị trong giới gian hồ. Một lần, chứng kiến một phụ nữ bị đàn em bóc lột không thương tiếc. Thánh nhân bỗng xúc động ra tay can thiệp, làm áp lực buộc chúng trả lại tất cả những gì đã lấy của nạn nhân.
Hành động nghĩa hiệp khiến Phaolô Hạnh phải trả giá: Họ tố cáo anh ngoài tội là Kitô hữu, còn tiếp tay với quân đội Pháp. Thánh nhân bị bắt, bị cầm tù, sau cùng bị trảm quyết tại Chí Hòa ngày 28.5.1859.
Trường hợp Cha Thánh Luca Vũ Bá Loan còn đáng thương và cảm động hơn. Có hai tên tội phạm đang chờ xét xử. Họ bàn tính với nhau đến bắt Cha Loan để lập công chuộc tội. Thế là họ đan tâm nộp Cha cho quan huyện Phú Xuyên, nhưng quan không chịu nhận, họ phải đưa Cha về Thăng Long. Sau cùng, ngày 5.6.1840, thánh Luca Loan bị chém đầu.
Các thánh Tử đạo Việt Nam, cách chung, tuy được đối xử tôn trọng hơn và cũng không bị hành hình để làm trò tiêu khiển như các thánh Tử đạo của Hội Thánh tiên khởi.
Nhưng các hình phạt mà các thánh Tử đạo Việt nam phải chịu, vẫn là những hình phạt dã man, rất đáng sợ, rất đớn đau, và đáng thương tâm vô cùng. Vì muốn các ngài phải bỏ đạo, vua chúa, quan quyền đã ra lệnh đánh đập, không phải một lần, nhưng nhiều lần đến nỗi rách cả da thịt, ứa đầy máu, có lúc tưởng đã chết dưới những làn roi của những con người không một chút lương tâm.
Có khi những vết thương do bị đánh đòn còn chưa kịp lành, các thánh Tử đạo Việt Nam đã bị lôi ra tiếp tục tra tấn. Các vết thương cùng những trận đòn tàn nhẫn ấy chồng lên nhau càng nhân lên sự đau đớn gấp bội.
Đến lúc kết thúc cuộc đời, có khi vì tuổi già, sức yếu; hoặc không thể chịu nỗi cảnh áp bức của nhà tù, một số vị đã chết rũ tù.
Đa số các thánh Tử đạo Việt Nam bị xử trảm (chém đầu). Có trường hợp, vì lý hình run tay, nên chém rất nhiều nhát, đầu mới lìa cổ.
Một số thánh Tử đạo khác bị thiêu sống (hình phạt thiêu sinh).
Số khác bị xử giảo (dùng dây xiết cổ cho đến chết).
Nhiều vị Tử đạo khác nữa bị xử lăng trì (phanh thây ra làm nhiều mảnh). Ví dụ thánh Augustinô Phan Viết Huy và thánh Nicôlas Bùi Đức Thể, trong ngày xử án, thống đốc Trịnh Quang Khanh và lý hình mang hai vị Anh hùng đức tin ra cửa biển Thuận An. Trên một chiếc thuyền, họ đã trói cả hai vào cột chèo, thay vì chặt làm đôi (chặt ngang lưng), lý hình chặt đầu trước, sau đó chẻ thân thể làm bốn và quăng xuống biển làm mồi cho cá.
Một bản án lăng trì khác dành cho thánh Sampedro Xuyên, một Giám mục thừa sai đến từ Tây Ban Nha, thật kinh hoàng. Ngày 28.7.1858, sau khi đến pháp trường Bảy Mẫu, lý hình xô Đức cha Xuyên nằm sấp trên chiếu có phủ vải sẵn, trói chân tay thật căng vào bốn cọc ở bốn phía, thêm hai cọc ở dưới nách để nạn nhân khỏi cựa quậy. Năm lý hình cầm rìu, lần lượt thi hành nhiệm vụ. Họ chặt từng chân, từng cánh tay rồi mới chặt đầu. Máu tuôn lai láng đọng thành vũng.
Trong số các vị hiển thánh và chân phước được Hội Thánh tuyên phong, có một trường hợp bị xử vô cùng thương tâm. Thánh Marchand Du, linh mục thừa sai người Pháp, phải thụ án bá đao (xẻo đủ một trăm miếng thịt).
Ngày 30.11.1835, cha được đưa ra pháp trường. Người ta cột chặt thân thể cha vào cọc và nhét đá vào miệng để cha không kêu la vì đau đớn. Dân chúng, những người xem xử án, bị đuổi lùi ra cách 30 thước.
Sau một hồi trống hiệu, lý hình lột da trán cha Du, lật xuống để che mắt, rồi cắt từng mảnh thịt bên ngực, sau lưng, tay chân. Quá đớn đau, vị Anh hùng đức tin của chúng ta giẫy giụa quằng quại, ngước mắt lên trời cao rồi gục đầu xuống nhắm mắt lìa đời.
Nhưng lý hình vẫn tàn nhẫn tiếp tục xẻo đủ 100 miếng thịt như đã định. Cuối cùng, lý hình chặt đầu cha, rồi chẻ thân mình làm bốn và ném xuống biển, mất xác. Còn đầu của cha được đưa đi bêu ở nhiều nơi, rồi trả về kinh đô, bị bỏ vào cối giã nát và đem rắc xuống biển.
Đã nói đến các thánh Tử đạo, không thể không nhắc đến ĐỨC TIN mà các vị ấy đã tuyên xưng bằng chính máu đào và bằng chính sự sống của mình.
Một đức tin kiên trung, quá lạ thường mà mãi mãi người đời sau vẫn cứ đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, khi chiêm ngưỡng các thánh Tử đạo Việt Nam.
Bởi mấy trăm năm, dòng lịch sử của Hội Thánh Việt Nam đã cho ta cảm nhận trọn vẹn một chân lý thật lớn lao: Chính bàn tay Thiên Chúa đã hiện diện để nâng đỡ và lèo lái lịch sử Hội Thánh Việt Nam.
Thật giống trường hợp các thánh Tử đạo tiên khởi, Tin Mừng chỉ mới đến quê hương Việt nam khoảng nửa sau thế kỷ XVI, nghĩa là đức tin vừa chớm nỡ, vậy mà ngay sau đó, đã bị bắt bớ, bách hại.
Những cuộc bách hại có lúc căng thẳng, có lúc nhẹ nhàng hơn theo từng giai đoạn, nhưng như thế cũng đủ khiến tinh thần đức tin bị lung lạc, suy yếu.
Vậy mà điều đó đã không xảy ra. Càng ra sức bắt đạo bao nhiêu, càng có nhiều người anh dũng chết cho đức tin bấy nhiêu.
Vua quan, một mặt ra sức bắt đạo dữ dội, mặt khác ra sức ngăn chặn sự phát triển của đạo, thì lại vô tình làm cho đức tin càng được dồn nén, càng được nung nấu, càng được khẳng định, nếu có dịp sẽ cháy bùng lên, và nhanh chóng lang tỏa mãnh liệt hơn bất cứ lúc nào.
Các thánh Tử đạo không phải là những người quá khích tự đi tìm cái chết vì đạo, mặc dù điều đó có thể xảy ra. Các thánh càng không quá khích đến độ tự đi tìm cái chết để như một cách trả thù, một phương thế ngạo ngễ vua chúa.
Trước sau như một, các ngài yêu mến quê hương, vẫn tỏ lòng tùng phục và kính trọng các cấp chính quyền. Không bao giờ các thánh Tử đạo quên cầu nguyện cho vua quan. Dường như đối với các thánh, phải tìm mọi cách để các cấp chính quyền từ vua, quan, đến quân gặp được chân lý của Tin Mừng.
Không quá khích đã vậy, ngược lại các Kitô hữu còn có thể chạy trốn cuộc bách hại. Nghĩa là các ngài vẫn tìm mọi cách để cố giữ gìn mạng sống của mình. Nhưng khi bị bắt, các ngài làm chứng tới cùng, theo Chúa Giêsu cho tới khổ nạn và chết.
Như vậy, các thánh Tử đạo là những người khôn ngoan, tỉnh táo, vẫn rất yêu quý mạng sống của mình. Chấp nhận chết là vì hết cách, là bước cuối cùng, chỉ vì lòng yêu mến Chúa và muốn bảo toàn đức tin mà thôi.
Từ thái độ sống đến cái chết của các thánh Tử đạo nói riêng, và của các Kitô hữu nói chung, chứng minh cho mọi người thấy rằng, chỉ có Thiên Chúa là trên hết, là cao cả, là tuyệt đối, vượt trên tất cả mọi sự quý giá. Dẫu là sự sống, điều mà mỗi người chỉ có một duy nhất mà thôi, mất là hết, mất là chấm dứt sự hiện diện đời đời, vẫn không thể sánh bằng Thiên Chúa, Đấng là nguồn cội, là tất cả của vũ trụ.
Từ sự hiểu biết về chân lý cao cả ấy, các thánh Tử đạo có một thái độ chọn lựa dứt khoát: Tin nơi Thiên Chúa đến cùng, dù phải hiến dâng cả mạng sống của mình.
Thánh Gioan Phaolôi II, trong bài giảng lễ tuyên thánh cho các thánh Tử đạo Việt Nam ngày 19.6.1988 không bỏ qua hình ảnh kiên trung ấy: "Máu các Tử đạo là nguồn ân sủng cho anh em trước tiên, để anh em thăng tiến trong đức tin. Giữa anh em đức tin của tổ tiên vẫn tiếp tục và còn truyền tụng sang nhiều thế hệ tương lai. Đức tin này tồn tại để làm nền tảng xây dựng sự kiên trì cho tất cả những người là Việt Nam thuần túy sẽ trung thành với quê hương đất nước, nhưng đồng thời vẫn là người tín hữu của Chúa Kitô" (số 6).
Đúng như lời Đức Thánh Cha, Hội Thánh Việt Nam thật hạnh phúc vì được thừa hưởng một kho tàng quý giá vô cùng. Kho tàng ấy không phải trả giá bằng tiền của, nhưng đáng giá máu của hàng trăm ngàn người Công giáo Việt Nam: KHO TÀNG ĐỨC TIN.
Một kho tàng lớn lao, quý báu vô ngần và vững chãi như núi đá ngay từ những ngày đầu, đã qua suốt gần năm trăm năm và còn tiếp tục mãi về sau, chắc chắn sẽ không dễ gì mai một, càng không dễ gì lay chuyển.
Bởi thế, sự khôn ngoan của loài người là hãy nhìn vào tấm bia vàng đã sống hàng trăm năm ấy mà tiếp tục vung bồi, tiến tục dựng xây chứ đừng có thái độ thù nghịch, đừng có ác cảm.
Và chúng ta, những người Công giáo Việt Nam, hãy noi gương cha ông của mình mà sống đức tin và làm chứng cho đức tin cách ngoan cường trong cuộc đời hôm nay, để "đức tin của tổ tiên vẫn tiếp tục và còn truyền tụng sang nhiều thế hệ tương lai".
Mừng lễ các thánh Tử đạo Việt Nam, nêu cao bài học mà các ngài để lại, không phải là khơi lên máu nóng tìm đến cái chết, mà chính là sống hiến thân từng giây phút của đời mình cho Thiên Chúa và tha nhân.
Bởi thế, sống ơn Tử đạo hôm nay là biết chết đi những yếu đuối tầm thường, để can đảm làm chứng cho đức tin bằng sự hy sinh trong bổn phận, trong từng lời kinh nguyện, trong tất cả nếp nghĩ, nếp sống.
Chính khi hiến thân sống ơn Tử đạo, ta làm được điều mà các thánh Việt Nam đã làm: yêu quê hương, xây dựng quê hương, nhưng cũng biết mình là con cái của Cha trên trời.
Bởi một lẽ không thể sai sót được: ĐỨC TIN LÀ MỘT NỀN TẢNG VỮNG CHẮC: "Thần Linh chính là Thần Linh chân lý. Ngài sẽ là mãnh lực trong thân xác yếu hèn của con người. Nhờ Ngài là mãnh lực mà anh em mới có thể là chứng nhân. Phải, chính sự kiện anh em là chứng nhân cho Chúa Kitô tử nạn, sự kiện đó há chẳng phải là khôn ngoan, là mãnh lực vượt mức loài người đó ư?" (Đức Gioan Phaolô II - giảng lễ tuyên thánh các Tử đạo Việt Nam ngày số 4). Về mục lục
Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng
CHẾT VÌ LẼ CÔNG CHÍNH – SỐNG VÌ TÌNH YÊU THIÊN CHÚA
Thưa quý vị, thưa các bạn “ Nghĩa cử anh hùng Tử Đạo “ không phải chỉ có ở Nước Việt Nam, mà hầu như tất cả các Nước trên thế giới. Thời Cựu Ứơc, sách Macabe là Đoạn sách trình thuật việc Tử Đạo vô cùng can đảm và trung trinh, biểu lộ sự trung kiên đối với chân lý là Thiên Chúa, bởi một tình yêu chung thủy sắt son của loài thụ tạo đối với Đấng Tạo Thành, mà một người mẹ và bảy người con mà sách Macabe thuật lại.
Vâng, hun đúc từ Thánh Kinh, đến thời Tân Ứơc Vị Tử Đạo đầu tiên để đem lại ƠN CỨU ĐỘ cho nhân loại, Đức Giêsu- Kitô, Đấng vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng không nhất thiết phải duy trì địa vị ngan hàng với Thiên Chúa, đã hạ mình cho đến chết và chết trên Thập giá, để đổ Máu ra cứu chuộc thế nhân.
Vì thế, muôn thế hệ, những ai bước theo Đức Kitô đều sẵn sàng mang trong mình “ Hạt Giống Tử Đạo”. Bởi vì “ Hạt Giống Đức Tin” là “Hạt Giống Tử Đạo”. Vâng, dấu ấn Đức Tin bản thân là “Dấu Ấn Tử Đạo”. Tại sao vậy, thưa quý vị ? Thưa, Bởi vì là :”Đức Kitô là Đầu, là Trưởng Tử của những ai đã an giấc ngàn thu, Người đã chết và sống lại hiển vinh, thì những ai tin vào Người, cũng sẽ được sống lại như vậy ngày sau hết”.
Vâng, vì tin như vậy, tất cả những ai đã được đóng ấn bởi Đức Kitô đều mang sứ vụ “ chứng nhân” cho Người. Vì, Đức Giêsu- Kitô là Đấng đã “chết vì lẽ công chính – sống vì tình yêu Thiên Chúa”. Vâng, tất cả Các Chứng Nhân Anh Hùng Tử Đạo đều có chung một nhiệt huyết ấy. Không phải để “hiếu chiến “, “ gấy chiến” như những “ luận điệu” không tốt, mà là vì “ TÌNH YÊU đáp trả TÌNH YÊU “. Đó là gương các Anh Hùng Tử Đạo mọi thời, các bậc tiền nhân Tử Đạo trung kiên , vạn lần oanh liệt mà Giáo Hội Việt Nam hân hoan mừng kình hằng năm và chọn làm Bổn Mạng Giao Hội Công Giao Việt Nam , không nằm ngoài chân lý ấy.
Mỗi gương Tử Đạo của mỗi Vị thánh khác nhau, có thể nói không trường hợp nào giống trường hợp nào, trải dài thời gian suốt ba trăm năm, một thời gian khá dài. Các vị truyền giáo, hoặc các vị trong nước, nam , phụ , lão , ấu, giáo sĩ, giáo dân, thấy giảng hay người nhà quê, lao động, thợ thuyền, hay binh sĩ, thương nhân. Diễn biến không phải trong thời gian “gang tấc” mà là kéo dài suốt ba thế kỷ. Không phải người nầy bắt chước người kia, mà là một “ niền tin sắt son” chung thủy. Không phải là yếu tố chính trị hay tiền tài, nhưng bị” hiểu lầm” là” gian tặc”, hoặc “tiếp tay” cho ngoại bang xâm lấn bờ cõi.
Trang sử oai hùng của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam được viết lên bằng “ Máu “ cuả các thánh Tử Đạo, nhưng, không hề mang thù hận. Vâng, đây là điều “ mấu chốt”,vì “Máu của các thánh Tử Đao là Hạt giống nảy sinh người Kitô hữu”. Như vậy, “ Máu của các thánh Tử Đạo là Máu của những người chết vì lẽ công chính, nhưng sống cho tình yêu Thiên Chúa“. Như vậy, mặc nhiên không có “thù hận “ vì , chết cho tình yêu tức sự tha thứ. Chúng ta thấy, mặc nhiên trên khắp thế giới, Giáo Hội Công Giáo, trải qua bao nhiêu thế hệ, không bao giờ đòi “ nợ máu” của những tín đồ của mình. Vì, “PHÚC CHO NHỮNG AI BỊ BÁCH HẠI VÌ LẼ CÔNG CHÍNH. NƯỚC TRỜI LÀ CỦA HỌ” (Mt 5,10).
Tất cả Các thánh Tử Đạo đều có lý lịch , lai lịch rõ ràng, chết vào lúc nào, cách nào, bởi ai, đều được ghi nhận chính xác. Vì thế, hồ sơ của mỗi vị đều chính xác đến từng milimet, nói như thế, có thể “ kiện” ra tòa án Quốc Tế, để đòi bồi thường chớ chẳng chơi, nhưng, hoàn toàn không có chuyện nầy. Bởi vì, các ngài đã “ CHẾT VÌ LẼ CÔNG CHÍNH – SỐNG VÌ TÌNH YÊU THIÊN CHÚA”. Amen. Về mục lục
P. Trần Đình Phan Tiến
Ý NGHĨA SỰ TUẪN GIÁO CỦA CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
1- Gian khổ, con đường làm chứng cho Chúa Ki-tô tử nạn
Trong Tin Mừng, Chúa Giê-su Ki-tô đã loan báo cho các Tông đồ và các môn đệ mọi thời rằng ai bước theo Người cách đích thật chắc chắn sẽ phải chịu bách hại: “Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau” (Mc 10,30). Chúa còn cảnh báo: “Hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết” (Mt 10,17-18). Với thói quen trình bày sự thật một cách thẳng thừng và toàn vẹn, Chúa đã chuẩn bị cho môn đệ mình đón nhận điều tồi tệ nhất: “Em sẽ nộp anh cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét.” (Mt 10,21-22).
Đó là vì các môn đệ sẽ phải làm chứng về Thiên Chúa, Đấng tạo dựng đất trời, Đấng luôn đòi hỏi nhân loại nên thánh thiện như Người, nghĩa là yêu thương đến tột độ; và làm chứng về Đức Kitô chịu đóng đinh, “sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1Cr 1,24). Nghĩa là công bố cho mọi người tình yêu vĩ đại của Thiên Chúa, thể hiện qua việc cứu rỗi thế gian nhờ Thập giá Đức Ki-tô, một mầu nhiệm lớn lao và cùng lúc không thể hiểu được đối với loài người.
Để làm được điều ấy, một điều hầu như luôn luôn kéo theo sự bắt bớ, Ki-tô hữu cần có sự khôn ngoan và sức mạnh từ trời cao. Đó là Chúa Thánh Thần: “Khi người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói gì; không phải chính anh em nói, mà là Thánh Thần của Cha anh em nói trong anh em” (Mt 10,19-20).
Điều đó đã xảy ra thời các Tông Đồ. Điều ấy cũng đã lặp lại trong các thời đại khác nhau của lịch sử, ở nhiều lúc và nhiều chỗ khác nhau, trong các cuộc bắt bớ khốc liệt, đặc biệt suốt ba thế kỷ đầu của Giáo hội bên Tây phương.
2- Các Thánh Tử đạo VN, những tay gieo của Thiên Chúa:
Giáo Hội Việt Nam suốt ba thế kỷ đầu của mình cũng đã chịu nhiều cuộc bách hại liên tiếp như thế, với một vài lúc ngưng nghỉ, kể từ năm 1533, nghĩa từ khởi thủy việc rao giảng Tin Mừng ở Đông Nam Á. Đã có hàng trăm ngàn Ki-tô hữu bị đưa tới pháp trường, và nhiều hơn thế là những kẻ đã chết trên núi, trong rừng, nơi những vùng đất độc hại mà họ đã bị đày đến, nơi những thôn làng Công giáo bị quan quân bủa vây, nơi những ngôi nhà thờ bị Văn Thân lùa tín hữu vào đó rồi phóng hỏa. Dù được phong thánh ngày 19-06-1988 chỉ vỏn vẹn 117 vị, trong đó có 8 Giám mục, 50 Linh mục và 59 giáo dân.
Việc sống đạo và chết vì đạo của các ngài đã xảy ra trong những tình thế rất phức tạp.
- Trước tín ngưỡng nhân gian và tam giáo Đông Phương (Khổng, Phật, Lão) thần thánh hóa đủ thứ, từ con người đến động vật và ngay cả núi sông cây cỏ, các vị tử đạo đã rao giảng một Thiên Chúa sáng tạo vạn vật, chủ tể muôn loài, và chẳng có thần linh tối cao nào ngoài Người cả.
- Trước “đạo ông bà” thờ cúng tổ tiên và các anh hùng dân tộc như thần thánh, các vị tử đạo vẫn cổ vũ lòng tôn kính tiên tổ và tiền nhân đúng đạo hiếu dân Việt, nhưng lòng tôn kính này phải đặt sau việc tôn thờ bái lạy Thiên Chúa.
- Trước quan niệm bình dân cho rằng tôn giáo nào cũng dạy ăn ngay ở lành và Công giáo là đạo của phương Tây, các vị Tử đạo cho thấy Công giáo là đạo dành cho hết mọi người và có tính cách siêu việt, mạc khải những điều cao cả từ nơi Thiên Chúa.
- Trước đầu óc phong kiến, coi nhà vua như Thiên tử (con Trời) và hết thảy con dân trong nước đều là thần dân (tôi tớ), các vị tử đạo rao giảng giáo lý: tất cả ai nấy đều là con Trời, và vì vậy đều có phẩm giá như nhau.
- Trước thói tục đa thê hoành hành trong mọi tầng lớp xã hội, từ vua quan đến thứ dân, các vị tử đạo rao giảng nền luân lý đơn hôn (một vợ một chồng) và vĩnh hôn (sống với nhau cho đến chết). Một nền luân lý cao đẹp, có sức nâng cao nhân phẩm và biến đổi xã hội mãnh liệt.
- Trước hoàn cảnh chính trị đất nước phức tạp (các triều đại tranh quyền với nhau, Thực dân Pháp xâm chiếm đất nước, giặc giã nổi lên nhiều chỗ…), các vị tử đạo nhiều lần bị nghi ngờ theo Tây, theo giặc, nhưng các ngài đã luôn chứng tỏ lòng trung thành với đất nước và trung thực với chính quyền. Ngay các vị thừa sai tử đạo cũng đã không bao giờ phục vụ cho quyền lợi của đất nước họ.
Chính đó là những thách thức đối với vua chúa lẫn xã hội đương thời, và trở nên lý do khiến các ngài bị bách hại.
Các thánh Tử Đạo Việt Nam như thế là những người gieo của Thiên Chúa mà Thánh vịnh đã 126 [125] đã ám chỉ: “Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo” (c. 5). Nước mắt và máu của các ngài đã tưới vào hạt giống Tin Mừng, hạt giống ân sủng, để ơn huệ Đức tin có thể trổ sinh dồi dào: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24).
3- Các Thánh Tử đạo VN, những thợ gặt của Nước Trời:
Và từ những đau khổ lẫn tuẫn giáo của các ngài, “mùa gặt của Chúa” đã tới. Thánh vịnh trên tiếp đến gọi các vị Tử đạo là những thợ gặt: “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 126[125], 5-6).
Mùa gặt đó, lúa vàng đó, hoa trái đó chính là sinh lực của Giáo hội VN, là khả năng và lòng kiên nhẫn của Giáo Hội VN để đương đầu với các khó khăn đủ loại và để công bố Tin Mừng suốt bao thế kỷ qua.
Máu các thánh Tử đạo đã là nguồn ân sủng để Ki-tô hữu đất Việt tiến lên trong Đức tin của tiền nhân. Đức tin ấy đã là nền tảng cho sự kiên trì của tất cả những ai đích thực cảm thấy mình là người Việt, trung thành với nước Việt, đồng thời vẫn muốn làm môn đệ chân chính của Đức Kitô.
Đức tin ấy đã kêu gọi Ki-tô hữu kính sợ Thiên Chúa, yêu thương mọi người, tuân phục chính quyền và các định chế của xã hội trong những gì chính đáng vì lòng mến Chúa.
Đức tin ấy đã kêu gọi Ki-tô hữu làm điều thiện, ứng xử như những con người tự do (x. 1Pr 2,13-17), tìm kiếm thiện ích chung của quê hương như một nghĩa vụ chân thành của công dân Ki-tô hữu, trong niềm tự do công bố sự thật của Thiên Chúa, trong sự hiệp thông với các mục tử và các đồng đạo, trong ước vọng sống an bình với mọi người khác để thành tâm xây dựng thiện ích cho tất cả.
Và đó là điều mà chúng ta đã thấy từ thời các chứng nhân Tử đạo cho đến hôm nay trên đất Việt, qua vô vàn chứng nhân Ki-tô hữu Việt Nam khác nữa.
Kết
Các Thánh Tử đạo đã trở nên những của lễ toàn thiêu, kết hợp với hy tế Thập giá của Đức Kitô khổ nạn. Các ngài đã là chứng nhân cho chiến thắng của Đức Kitô trên tử thần, cho ơn gọi của con người là được bất tử! Nhờ thế các ngài đã thông phần vào việc cứu độ trần gian do Người thực hiện, và nay đang được hạnh phúc muôn đời. Đúng như sách Khôn ngoan 3,5-9 đã nói về họ.
Là con cháu, là hoa trái của các ngài, chúng ta cũng được hứa hẹn những điều như thế nếu chúng ta tham gia vào thống khổ và thập giá của Đức Ki-tô, để thông phần vào việc cứu độ trần gian do Người thực hiện. Và như vậy, mùa gặt của các Thánh Tử đạo Việt Nam sẽ kéo dài mãi trong hân hoan qua tất cả chúng ta!
Cảm hứng bài giảng của Thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolô trong Thánh Lễ tuyên Hiển Thánh cho các Chân Phước tử đạo Việt Nam ngày 19-06-1988. Về mục lục
Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
Đức Tin Ngời Sáng Tươi Dòng Máu Đỏ
Tình Mến Sắt Son Thắm Sắc Da Vàng.
Dù là ai, mỗi người cũng chỉ có một cuộc đời, một lần sống, nhưng hơn thua nhau là biết sống khôn ngoan hay không. Vòng luân hồi chỉ là chuyện “không tưởng.” Cuộc sống không quan trọng ở chiều dài mà quan trọng ở chiều sâu. Ai cũng chỉ có một cuộc đời nhưng số phận có thể khác nhau, Kinh Thánh phân biệt số phận của người công chính và số phận của phường vô đạo.
Không thể chọn lựa hoặc rút kinh nghiệm vì chỉ có một lần sống và chỉ có một lần chết. Do đó mà phải nỗ lực sống sao cho có ý nghĩa để cái chết hợp lý và có ý nghĩa. Có điều rất lạ: Trong Nhóm Mười Hai có đến 10 vị Tông Đồ tử đạo, chấp nhận máu đổ ra để minh chứng Đức Tin, trừ người-môn-đệ-Chúa-yêu là Gioan và người phản bội là Giuđa Ítcariốt. Rất phù hợp với Mối Phúc thứ tám: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ.” (Mt 5:10)
Chính Chúa Giêsu còn nói thêm để tái xác định và chứng minh: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế.” (Mt 5:11-12)
Về số phận của những người công chính, Kinh Thánh cho biết: “Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa và chẳng cực hình nào động tới được nữa.” (Kn 3:1) Như vậy là họ được “bay” thẳng về trời, không phải qua Luyện Hình. Ôi, chẳng còn hạnh phúc nào hơn nữa!
Và Kinh Thánh còn cho biết thêm: “Bọn ngu si coi họ như đã chết rồi; khi họ ra đi, chúng cho là họ gặp phải điều vô phúc. Lúc họ xa rời chúng ta, chúng tưởng là họ bị tiêu diệt, nhưng thực ra, họ đang hưởng an bình. Người đời nghĩ rằng họ đã bị trừng phạt, nhưng họ vẫn chứa chan hy vọng được trường sinh bất tử.” (Kn 3:2-4) Trong con mắt của người đời, họ là những người thua thiệt, là dại dột, nhưng thực ra họ lại được chính Thiên Chúa làm gia nghiệp đời đời. Tục ngữ Việt Nam cũng nói: “Cười người hôm trước, hôm sau người cười.” Hai chữ khác nhau, chỉ đổi vị trí là đảo nghĩa ngay: “Cười người” thành “người cười.” Thể chủ động (cười) biến thành thể thụ động (bị cười). Việt ngữ độc đáo quá!
Sách Khôn Ngoan nói rõ: “Sau khi chịu sửa dạy đôi chút, họ sẽ được hưởng ân huệ lớn lao. Quả thế, Thiên Chúa đã thử thách họ và thấy họ xứng đáng với Người. Người đã tinh luyện họ như người ta luyện vàng trong lò lửa, và đón nhận họ như của lễ toàn thiêu. Khi đến giờ được Thiên Chúa viếng thăm, họ sẽ rực sáng như tia lửa bén nhanh khắp rừng sậy. Họ sẽ xét xử muôn dân, và thống trị muôn nước. Và Đức Chúa sẽ là vua của họ đến muôn đời. Những ai trông cậy vào Người, sẽ am tường sự thật; những ai trung thành, sẽ được Người yêu thương và cho ở gần Người, vì Người ban ân phúc và xót thương những ai Người tuyển chọn.” (Kn 3:5-9)
Bức tranh cuộc đời của mỗi người đều được vẽ bằng những nét số phận, mỗi người mỗi khác. Cuộc đời của mỗi người cũng là những bài thơ với các thể loại và các vần điệu khác nhau. Cũng vậy, cuộc đời của mỗi người cũng là một bản trường ca với giai điệu khác nhau, âm thể khác nhau, tiết tấu khác nhau, hòa âm khác nhau, kể cả giai kết cũng khác nhau, nhưng ý chính vẫn phải là bản nhạc yêu thương. Với các thánh tử đạo Việt Nam, bản nhạc đời của các ngài là bản hùng ca vô thường, không chỉ viết bằng những nốt nhạc của số phận mà còn viết bằng máu đào, tươi thắm màu tin yêu. Vâng, Chúa Giêsu đã xác định: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15:13)
Tình yêu phải rỉ ra chất hy sinh mới là tình yêu đích thực. Chính cái chết lại khiến người ta hạnh phúc chứ không là đau khổ. Hạnh phúc không chỉ tăng lên theo cấp số cộng, mà còn tăng lên theo cấp số nhân: “Khi Chúa dẫn tù nhân Sion trở về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ. Vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng. Bấy giờ trong dân ngoại, người ta bàn tán: ‘Việc Chúa làm cho họ, vĩ đại thay!’ Việc Chúa làm cho ta, ôi vĩ đại! ta thấy mình chan chứa một niềm vui.” (Tv 126:1-3) Thật là quá đỗi kỳ diệu, ngoài sức tưởng tượng của con người. Chúng ta, dù là người văn hay chữ tốt nhất thế gian, cũng không thể dùng phàm ngôn mà diễn tả hết niềm hạnh phúc lớn lao như vậy!
Đau khổ càng nhiều thì hạnh phúc càng lớn. Tác giả Thánh Vịnh nói: “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng.” (Tv 126:5-6) Đó là hệ lụy chắc chắn. Khi quá vui, vì không còn biết diễn tả bằng cách nào khác, đôi khi người ta phải bật khóc, để những giọt mặn của niềm vui sướng tự do lăn dài, cả hồn xác ướt đẫm nỗi vui mừng khôn tả!
Thấm nhuần giáo huấn của Thầy Giêsu, Giáo hoàng Phêrô cho biết: “Nếu bị sỉ nhục vì danh Đức Kitô, anh em thật có phúc, bởi lẽ Thần Khí vinh hiển và uy quyền, là Thần Khí của Thiên Chúa, ngự trên anh em.” (1 Pr 4:14) Lạ hết sức, “bị sỉ nhục” mà lại là “có phúc.” Những người không có niềm tin Kitô giáo thì không thể hiểu nổi!
Thánh Phaolô tâm sự: “Đức Kitô đã chẳng sai tôi đi làm phép rửa, nhưng sai tôi đi rao giảng Tin Mừng, và rao giảng không phải bằng lời lẽ khôn khéo, để thập giá Đức Kitô khỏi trở nên vô hiệu. Thật thế, lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa.” (1 Cr 1:17-18) Cây Thập Giá là biểu tượng của đức tin, vì thế mà những người bách hại Công giáo rất sợ, họ đã dùng Thập Giá để dụ người ta bước qua, nhưng vô ích đối với những người tin vào Đức Kitô – cụ thể là hàng trăm ngàn các vị tử đạo Việt Nam, đủ mọi lứa tuổi và đủ mọi thành phần – thời các vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức.
Thánh Phaolô dẫn chứng: “Có lời chép rằng: Ta sẽ huỷ diệt sự khôn ngoan của kẻ khôn ngoan, và sẽ vứt bỏ sự thông thái của người thông thái. Người khôn ngoan đâu? Người học thức đâu? Người lý sự của thời này đâu? Thiên Chúa lại đã không để cho sự khôn ngoan của thế gian ra điên rồ đó sao?” (1 Cr 1:19-20) Những câu hỏi nhỏ nhưng không dễ trả lời chút nào, và cũng khó lý giải nếu không có loại tình yêu “khác người.” Thật vậy, “thế gian đã không dùng sự khôn ngoan mà nhận biết Thiên Chúa ở những nơi Thiên Chúa biểu lộ sự khôn ngoan của Người, cho nên Thiên Chúa đã muốn dùng lời rao giảng điên rồ để cứu những người tin.” (1 Cr 1:21)
Thánh Phaolô cho biết: “Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì CÁI ĐIÊN RỒ CỦA THIÊN CHÚA CÒN HƠN CÁI KHÔN NGOAN CỦA LOÀI NGƯỜI, và CÁI YẾU ĐUỐI CỦA THIÊN CHÚA CÒN HƠN CÁI MẠNH MẼ CỦA LOÀI NGƯỜI.” (1 Cr 1:22-25) Hai thái cực trái ngược nhau, vì thế mà người đời không thể hiểu nổi cách lập luận như vậy, nhưng chúng ta may mắn có đức tin Kitô giáo, cho nên chúng ta có thể hiểu cái lý lẽ nghịch-mà-thuận đó – dù mức độ hiểu nhiều hay ít, khác nhau ở mỗi người.
Chúa Giêsu đã từng cảnh báo: “Hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết.” (Mt 10:17-18) Lời tiên báo đó đã và đang xảy ra khắp nơi trên thế giới, kể cả Việt Nam, càng lúc càng có chiều hướng gia tăng. Thật đáng sợ với mưu mô thâm độc, nhưng đừng hốt hoảng, vì Chúa Giêsu căn dặn: “Khi người ta nộp anh em thì anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì. Thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em.” (Mt 10:19-20)
Bị người ngoài bách hại đã đành, những người tin yêu Chúa cũng chẳng yên thân với chính các thân nhân của mình: “Anh sẽ nộp em, em sẽ nộp anh cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.” (Mt 10:21-22) Không hẳn là những người trong gia đình hoặc trong dòng họ sẽ nộp nhau hoặc ra mặt chống đối, nhưng có thể “bằng mặt mà không bằng lòng,” họ bách hại nhau bằng nhiều cách tinh vi: Lườm nguýt, xa lánh, ghen ghét, mỉa mai, gièm pha, khích bác,... Kẻ nào “yếu bóng vía” thì sẽ “lung lay” ngay!
Các thánh tử đạo Việt Nam cũng là con Rồng cháu Tiên, sinh trưởng trên dải đất nhỏ bé hình chữ S, ở một đất nước như chúng ta, có hoàn cảnh sống như chúng ta, hít thở không khí như chúng ta, ăn uống các loại ẩm thực như chúng ta,... thế nhưng các ngài đã viết nên bản Hùng Ca Tin Yêu bằng chính những giọt máu đào của mình. Âm nhạc có những cung bậc khác nhau, cuộc đời của chúng ta cũng tương tự. Chúng ta không viết bản nhạc cuộc đời mình bằng máu tử đạo, nhưng chúng ta có thể viết bằng cách khác: Sống âm thầm chịu đựng đau khổ vì Chúa cũng là một cách tử đạo liên lỉ, có ích lợi cho chính mình và các linh hồn. Cách nào cũng có mức độ khó riêng, chẳng cách nào dễ. Vấn đề là chúng ta có hoàn tất bản tổng phổ cuộc đời mình hay không.
Trên đường lữ hành trần gian và sống cuộc sống gọi là đời thường nhưng lại lắm thứ nhiêu khê hơn chúng ta tưởng. Vì thế, chúng ta luôn cần phải cảnh giác nhiều thứ, cảnh giác không ngừng, cả tinh thần lẫn thể lý. Một trong các thứ cần phải luôn cảnh giác là những người chúng ta giao tiếp hằng ngày, như Thánh Phaolô đã nói: “Chơi với kẻ xấu, người tốt cũng ra xấu.” (1 Cr 15:33)
Thật vậy, người Việt cũng có những cách nói tương tự: “Chọn bạn mà chơi,” hoặc “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng.” Sờ vào bùn đất thì làm sao giữ cho tay không vấy bẩn? Sống trong môi trường ô nhiễm, mấy ai không nhiễm bệnh? Kẻ yếu thì đừng ra gió!
Lạy Thiên Chúa, xin thêm lòng tin cho chúng con (Lc 17:5) để chúng con đủ sức đi trọn đường trần. Lạy các thánh tử đạo Việt Nam, xin nguyện giúp cầu thay cho chúng con, xin giúp chúng con luôn biết noi gương các ngài mà viết cuộc đời của chúng con bằng những nét tin yêu rõ ràng và dứt khoát. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen. Về mục lục
Thomas Aq. Trầm Thiên Thu
LÒNG MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI NƠI CÁC THÁNH TĐVN
Nét son của đạo Công giáo là yêu thương. Ai không sống yêu thương thì người đó không còn xứng đáng gọi là môn đệ của Chúa. Vì xưa Chúa Giê-su đã nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy là các con hãy yêu thương nhau”. Yêu thương làm nên người Công Giáo. Yêu thương là hoàn thiện mình nên giống Thầy Chí Thánh Giê-su.
Các thánh Tử đạo Việt Nam cũng không ngoại lệ. Tất cả các ngài đều có một đời sống gắn bó với quê hương, với xóm làng và đầy tình yêu thương với mọi người từ gia đình đến xã hội. Cụ thể là thánh Simon Phan Đắc Hoà, giáo dân tử đạo. “Là một lương dân, cậu Phan Đắc Hoà đã bị cuốn hút bởi đời sống bác ái yêu thương của một số kitô hữu mà cậu gặp gỡ. Cậu đã xin phép mẹ để được học đạo. Trở thành kitô hữu, lập gia đình, có 12 người con, ông Simon Phan Đắc Hoà luôn sống gương mẫu cho mọi gia đình trong làng. Làm nghề y, ông không bỏ qua một cơ hội giúp người nghèo khó bệnh tật”
Với ông Cai Tả thì yêu thương để xứng với tình Chúa yêu, ông thường châm chước cho những người mắc nợ và nói: “Mình quên nợ người, Chúa quên tội mình “. Với quan Hồ Đình Hy thì: “Đừng làm việc thiện cách máy móc qua lần chiếu lệ, mà phải làm với thiện ý “. Ông từng chăm sóc nuôi nấng một người bệnh bơ vơ, suốt 15 ngày sáng tối thăm hỏi, và khi người bệnh lìa đời, đã tổ chức lễ an táng tử tế. Ông cũng nuôi hai bé gái bị bỏ rơi cho đến khi trưởng thành: một cô xin đi tu, một xin lập gia đình, ông quảng đại lo đến nơi đến chốn.
Chính đời sống đức tin tỏa sáng nhờ có dầu bác ái mà các ngài đã nêu gương sáng cho mọi người, các ngài đã đi vào lòng quan quân, và dân chúng một sự ngưỡng mộ và kính trọng. Mặc cho triều đình nhà Nguyễn ra những chiếu chỉ bách hại, dấu hiệu tình thân giữa bà con chòm xóm đối với người Công Giáo vẫn trước sau như một. Thí dụ trong vụ án linh mục Gioan Đạt, viên cai ngục nói: “Tôi thấy cụ khôn ngoan đạo đức thì muốn kết nghĩa huynh đệ lắm, ngặt vì cụ sắp bị án tử rồi. Tôi xin hứa biếu cụ một cỗ quan tài để biểu lộ lòng tôi quý cụ “.
Và ngày hôm nay trong cứu trợ lũ lụt đồng bào Miền Trung người ta thấy các xứ đạo trong tỉnh Đồng Nai dường như rất nhiệt tình chia sẻ với anh chị em Miền Trung. Nhiều xứ trở thành nơi gói bánh chưng, tập kết quần ào, gạo, mì tôm và nhiều nhu yếu phẩm khác. . . để gửi ra Miền Trung. Đây là những nghĩa cử cao đẹp mà chúng ta đã và đang làm theo gương cha ông chúng ta. Đó cũng là những hành động làm chứng cho tin mừng, là chia cơm sẻ áo, là chia sẻ tiền bạc, vật dụng để những người gặp cảnh hoạn nạn… có thêm cơ hội để sống và sống đúng với nhân phẩm của mình.
Nếu hiểu tử đạo là lời chứng cho tin mừng thì người Công giáo chúng ta hôm nay đang làm chứng về tình yêu thương khi biết cho đi mà không mong đền đáp. Nhưng vượt lên trên tình yêu của đồng loại với nhau, thì tử đạo là đặt Chúa lên trên hết cho mọi chọn lựa. Dầu có bị thiệt thòi, bắt bớ, tra tấn hay tù đầy thì vẫn phải làm chứng cho sự thật, công lý và tình thương.Như thánh Simon Phan Đắc Hoà dầu bị tra tấn dã man vẫn không hề nản chí. Dù nhìn thấy viễn cảnh: đầu rơi, xa lìa những người thân yêu nhất trong gia đình, ông vẫn nhất quyết theo gương Thầy Chí Thánh, sống vì mọi người và một lòng theo thánh ý Thiên Chúa cho tới hơi thở cuối cùng. Ông từng nói:
“Những trận đòn không làm ông nản chí, trái lại ông còn lấy thế làm hạnh phúc, vì được hiệp thông với Đức Kitô chịu đóng đinh”
Ngày nay, chúng ta phải sống trong môi trường xã hội đảo điên, tiền bạc chi phối mọi sinh hoạt đời sống xã hội. Cônglý bị bẻ cong. Người dám nói sự thật bị cô lập. Người lên tiếng cho công lý bị tù đầy.
Điều đáng buồn là nhiều người hôm nay đã chọn gỉai pháp im lặng để an toàn cho bản thân và có đôi khi là cơ hội để thăng tiến. Đây là cách sống phản lại tin mừng của Chúa. Vì tin mừng là muối, là men để thay đổi xã hội nên tốt hơn chứ không phải để cất dấu sẽ làm hư men tin mừng.
Mừng kính các thánh Tử Đạo Việt Nam xin cho chúng ta là con cháu biết kế thừa tinh thần đầy yêu thương và can trường của cha ông để sống và làm chứng cho xã hội hôm nay. Xin đừng vì ích kỷ, lợi lộc bản thân mà im lặng truớc bất công và cái xấu, những giữa cuộc chiến thiện và ác, chúng ta phải can trường để đưa tin mừng xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn khi công lý và tình thương được lan rộng khắp mọi nơi. Amen. Về mục lục
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Hôm nay, chúng ta hân hoan mừng kính trọng thể lễ các thánh Tử Đạo Việt Nam. Các ngài là cha ông, tổ tiên của chúng ta.
Khi mừng lễ các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta được mời gọi noi gương các ngài để can đảm sống chứng nhân đức tin giữa lòng đời trong bối cảnh hôm nay.
Như vậy, cùng một lời mời gọi nên thánh, chung một lý tưởng hoàn thiện, nhưng mỗi thời đại, chúng ta được thúc đẩy thể hiện niềm tin của mình bằng một cung cách khác.
Nhưng trước tiên, chúng ta cần tìm hiểu các thánh tử đạo Việt Nam đã sống đời chứng nhân như thế nào?
Đời sống chứng nhân nơi các thánh tử đạo Việt Nam
Mỗi lần nhắc đến các thánh tử đạo Việt Nam, ấy là mỗi lần chúng ta nhắc đến tấm gương anh dũng, can đảm, kiên trì, trung thành vì đức tin; tính trung thực, lòng yêu mến quê hương, tính liên đới, tấm lòng bác ái, vị tha nơi các ngài. Nhất là tấm gương anh dũng hy sinh chấp nhận cả cái chết để bảo vệ niềm tin vào Đức Kitô.
Điểm nổi bật nơi các thánh tử đạo là: các ngài không chấp nhận bất cứ hình thức nào theo kiểu: thuốc đắng bọc đường để bỏ Chúa. Khi dụ dỗ không được, vua quan thường hay tức giận và vu khống đủ điều xấu xa cho các ngài.
Một trong những tội mà các vua quan thời bấy giờ thường hay gán cho các ngài cũng rất giống tội danh mà các nhà lãnh đạo Dothái đã kết án Đức Giêsu, đó là tội chống chính quyền, sách động dân chúng, phản lại dân tộc. Khi bị ghép cho tội tầy trời như thế, thì chỉ còn nước chết và chết mà thôi!!!
Tuy nhiên, đây là một sự hồ đồ, ngộ nhận nơi vua quan, vì thế các ngài đã không chấp nhận và lại là dịp để chứng tỏ lòng yêu nước cũng như trách nhiệm xây dựng đất nước ngày càng tốt đẹp hơn. Điều này đã được thánh linh mục Khuông từng tuyên bố : “Đạo Giatô không những cấm tín hữu chống lại triều đình, mà còn khuyến khích để họ cầu nguyện và góp phần giúp quê hương an ninh thịnh vượng”.
Các ngài đã phân biệt được đâu là ranh giới của lãnh vực này. Thánh binh sĩ Trần Văn Trung đã chấp nhận cái chết để nói cho vua quan biết lập trường của người Công Giáo: “Tôi là Kitô hữu, tôi sẵn sàng đi đánh kẻ thù của đất nước, nhưng bỏ đạo thì không bao giờ”. Thua keo này họ bày keo khác, sự gán ghép với ý đồ thâm độc cho rằng tổ tiên chúng ta là những người theo đạo Tây, nên đây là tà đạo! Thánh linh mục niên trưởng Vũ Bá Loan đã khẳng khái tuyên bố: “Tôi chẳng theo đạo của nước nào cả, tôi chỉ thờ Chúa Trời Đất, Chúa của muôn dân thôi”.
Khi nói về mẫu gương nổi bật nơi các ngài, chúng ta không thể quên được lòng trung thực được thể hiện qua cung cách lựa chọn của các thánh.
Các ngài đã noi gương Đức Giêsu, Thầy Chí Thánh của mình, yêu thương thật lòng không giả dối, ngụy biện… Chính thánh quan Hồ Đình Hy đã nói: “Đừng làm việc thiện cách máy móc qua lần chiếu lệ, mà phải làm với thiện ý”. Khi nói về tình yêu thương, sự bao dung, tha thứ, thánh Cai Tả nói: “Mình quên nợ người, Chúa quên tội mình”.
Khi được các quan tinh vi gợi ý giả vờ bước qua Thánh Giá để có cớ mà tha cho tội chết. Đây là một cám dỗ khá xảo quyệt và hấp dẫn, có vẻ được lợi cả hai, đời này và đời sau. Nhưng cha ông chúng ta đã không bị vướng vào cạm bẫy này, nên khi bị dụ dỗ và khuyên dụ nhắm mắt bước qua Thánh Giá, thày giảng Nguyễn Cần nói: “Thưa quan, mắt thì nhắm được, chứ lòng và trí khôn không thể nhắm được, nên tôi chẳng làm”.
Nói chung, gương mẫu của các thánh tử đạo Việt Nam là rất nhiều, tuy nhiên, hôm nay, chúng ta chỉ đưa ra hai đặc tính nơi các ngài là:
-
Không chấp nhận sự vu khống cho rằng người Công Giáo là người phản quốc, chống lại dân tộc. Cần phân biệt được đâu là người yêu nước thực sự, đâu là kẻ giả hình…
-
Không chấp nhận sống hai mặt, hai lòng, giả dối để được lợi cho phần xác mà mất linh hồn.
Thiết nghĩ, hai đặc tính trên chính là sức hút và khơi nguồn cảm hứng cho mỗi chúng ta nên thánh trong thời đại hôm nay.
Tử đạo trong thế kỷ 21
Ngày nay, cảnh tượng kinh hoàng như thời các thánh tử đạo của chúng ta phải chịu như máu đổ, đầu rơi; đòn roi tra tấn; hay nhục hình ghê rợn…, không còn diễn ra trên diện rộng nữa, có chăng chỉ là những nơi xa xôi hẻo lánh, hay những người nắm chính quyền thiếu hiểu biết, ấu trĩ, bảo thủ hoặc ngu dốt, nên mới gây ra những hậu quả đáng tiếc, tạo nên sự mâu thuẫn giữa luật và người thi hành luật! Hay khi thi hành đã hành pháp sai mục đích chủ trương chính sách của dân tộc, hoặc đôi khi biết sai nhưng vẫn cứ nhắm mắt thi hành chỉ vì muốn trục lợi cá nhân… dung dưỡng cái bụng của mình mà làm cho cái đầu bị ngắn trí và trái tim bị teo lại nên không còn biết đúng – sai. Những người như vậy, họ thuộc hạng người bị mù lương tâm!
Còn trên bình diện thế giới, hình khổ theo kiểu cổ điển mà các chính quyền đưa ra để đàn áp những người Công Giáo cũng không thể diễn ra, bởi vì: hiến pháp của bất cứ quốc gia nào cũng tôn trọng tự do tín ngưỡng và các quyền cơ bản của con người. Có chăng, chỉ có phiến quân nhà nước Hồi Giáo (IS) cực đoan mà thôi!
Vì thế, khi nói đến tử đạo ngày nay, vẫn khái niệm duy nhất là chết vì bảo vệ đức tin. Tuy nhiên, cần mở rộng lối suy nghĩ để hiểu khái niệm này cách rộng rãi hơn, phù hợp với môi trường cũng như thách đố của chúng ta hiện nay.
Người chứng nhân của thời đại hôm nay chính là dám chấp nhận ngược dòng để sống căn tính, cốt lõi của Tin Mừng, đó là: chấp nhận đứng về phía người thấp cổ bé họng, những người không có tiếng nói, những người cô thế, cô thân, bị loại ra bên lề nhằm bênh vực và lên tiếng thay cho họ khi quyền chính đáng của họ bị cướp đoạt. Khi đứng về phía họ như vậy, chúng ta sẵn sàng bảo vệ công lý, chống lại bất công.
Tử đạo ngày nay còn là lựa chọn và khước từ trước những cám dỗ, lôi cuốn, hấp dẫn để trục lợi cá nhân, an thân, ăn trên ngồi trước, ham quyền cố vị…, hay chạy đua những dục vọng, dâm ô, khát vọng bất chính, sống trác táng, phóng đãng… Khi khước từ những thứ đó, chúng ta được mời gọi để sống một cuộc sống công minh chính đại, sống tinh thần phục vụ vô vị lợi theo lời mời gọi của Chúa và Tin Mừng của Ngài.
Trong thời đại này, một hiện tượng cũng khá phổ biến đang lưu hành trong xã hội và nó chi phối sự lựa chọn của rất nhiều người, làm cho chúng ta đáng quan ngại, đó là: sự dửng dưng, vô cảm trước nỗi đói khổ, hoạn nạn của anh chị em. Bên cạnh đó, lập trường sống theo kiểu hạt nhân, đèn ai nấy rạng, nên không cần quan tâm đến nhau cũng là điều đáng để chúng ta suy nghĩ!
Giữa một xã hội như thế, người Kitô hữu được mời gọi sống tinh thần nghèo khó, liên đới, trách nhiệm, loại bỏ những thứ như: hưởng thụ, khoái lạc, quyền lực, vụ lợi hay những thái độ dửng dưng, vô cảm… để chấp nhận nghịch lý của Tin Mừng khi lội ngược dòng với những hấp dẫn bất chính của con người và xã hội thời nay nhằm truyền tải cho xã hội và con người hôm nay một thông điệp rằng:
Đạo Công Giáo là Đạo Yêu Thương. Yêu con người và yêu dân tộc. Sẵn sàng đóng góp và xây dựng tổ quốc này ngày càng tốt đẹp hơn, nhân bản hơn, yêu thương, liên đới, cảm thông với nhau hơn. Tuy nhiên, khi thấy cảnh trái luân thường đạo lý, người nghèo bị áp bức, bóc lột… sự thật bị bóp méo… thì chúng ta không thể an thân, bình chân như vại. Ngược lại, bằng khả năng, cách thế của mình, chúng ta phải lên tiếng trong sự ôn hòa, yêu thương và trách nhiệm, để làm cho cuộc sống này tràn đầy tình thương và nhân ái hơn.
Khi sống chứng nhân như thế, hẳn chúng ta đã làm cho khái niệm tử đạo ngày nay được phong phú hơn, rộng rãi hơn và thiết thực hơn. Tuy nhiên, đây cũng là một thách đố mang tính trường kỳ nói lên tính tử đạo liên lỷ ngang qua những lựa chọn mà chúng ta phải đối diện hằng ngày.
Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho Giáo Hội Việt Nam các thánh Tử đạo là mẫu gương cho chúng con noi theo. Xin nhận lời các ngài chuyển cầu mà ban cho chúng con ơn trung thành, can đảm để sống chứng nhân cho Chúa trong thời đại hôm nay. Amen. Về mục lục
Tu sĩ Jos. Vinct. Ngọc Biển, S.S.P.
Thomas Aq. Trầm Thiên Thu
(Thế Kiên Dominic)
Với mục đích để Lời Chúa được loan truyền và thông tin Giáo hội được lan tỏa, Legio Mariæ sẵn lòng để các tổ chức và cá nhân sử dụng lại tin bài đã đăng trên báo giấy và báo mạng legiomariævn.com của mình.
Tuy nhiên, vì đức công bằng và sự bác ái, xin quý vị vui lòng ghi đầy đủ nguồn như sau: “Theo Đạo Binh Đức Mẹ, website: legiomariævn.com”.
Ngoài ra, nếu chia sẻ bài lên mạng xã hội (Facebook, Twitter…), đề nghị dùng đường dẫn gốc trên website của Đạo Binh Đức Mẹ.