SUY NIỆM CHÚA NHẬT LỄ LÁ_2024
Lời Chúa: Mc 11,1-10; Is 50, 4-7; Pl 2,6-11; Mc 14,1–15,47
CHIẾC LÁ CUỘC ĐỜI - + ĐTGM. Giu-se Vũ Văn Thiên
VUA HOÀ BÌNH, VAI MANG THẬP GIÁ CỨU ĐỘ TRẦN GIAN - Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
CHÚA KITÔ TRÚT BỎ MỌI VINH QUANG BẰNG LÒNG CHỊU CHẾT VÌ YÊU THƯƠNG - Phêrô Phạm Văn Trung
YÊU MẾN LÀ CHẾT ĐI - Lm. Yuse Mai Văn Thịnh, DCCT
VÀO CUỘC YÊU - Thomas Aq. Trầm Thiên Thu
THIÊN CHÚA NHÂN TỪ và HAY THƯƠNG XÓT - Lm. Đaminh Phạm Tĩnh, SDD
CUỘC KHỔ NẠN CỦA CHÚA KITÔ và HY VỌNG CỦA CHÚNG TA - Bs. Nguyễn Tiến Cảnh, MD
VINH QUANG VÀ KHIÊM HÈN - Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
CON LỪA - Trần Mỹ Duyệt
NỖI NIỀM CỦA LÁ – Viễn Dzu Tử
HOAN HÔ ĐẤNG NHÂN DANH CHÚA!!! - (Th. K. Dominic)
Nghi thức khai mạc Tuần Thánh được gọi là “Lễ Lá”. Tuy cành lá chỉ chiếm vị trí rất khiêm tốn trong nghi thức, nhưng được dùng làm tên gọi cho Thánh lễ long trọng này. Thực ra, chỉ một chi tiết nhỏ trong Bài Thương Khó liên quan đến lá. Cả bốn tác giả Phúc Âm đều kể lại biến cố Đức Giê-su vào thành thánh. Thánh Mát-thêu và Mác-cô nhắc đến việc dân chúng rải lá trên đường để Đức Giê-su đi qua. Riêng thánh Gio-an lại tường thuật việc người dân cầm cành thiên tuế để đón Người. Những lời tung hô của người dân cho thấy, họ nhận ra nơi vị Ngôn sứ thành Na-da-rét hình ảnh của vua Đa-vít, một vị vua luôn là niềm tự hào của dân tộc Do Thái. “Hoan hô! Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Chúc tụng vua Ít-ra-en”. Những người Do Thái hiểu biết lịch sử sẽ dễ dàng nhận ra, đó là bầu khí tưng bừng của dân chúng năm xưa, khi họ đón Đa-vít chiến thắng lẫy lừng trước người Phi-li-tinh và trở về trong vinh quang. Thánh Gio-an còn trích dẫn Ngôn sứ Da-ca-ri-a (Dcr 9,9): “Hỡi thiếu nữ Si-on, đừng sợ! Này Đức Vua của ngươi ngự đến, ngồi trên lưng lừa con” (Ga 12,15). Cả bốn tác giả đều trình bày việc Đức Giê-su vào thành thánh như một cuộc khải hoàn mang tính thiên sai. Qua cuộc tiến vào thành thánh, Đức Giê-su chứng tỏ Người là Đấng Thiên Chúa đã hứa từ ngàn xưa và là Đấng muôn dân mong đợi.
Chúng ta hãy trở về với những cành lá được dùng trong ngày Đức Giê-su vào thành thánh. Có những chiếc lá được rải trên lối đi. Có những chiếc lá được dân chúng cầm ở tay để tung hô chúc mừng. Chiếc lá nào cũng mang màu xanh mướt, biểu tượng của lòng nhiệt thành, niềm vui và sự tươi mát. Những chiếc lá này tượng trưng cho niềm hân hoan của dân chúng khi Chúa Giê-su tiến vào thành thánh. Tuy vậy, thân phận của những chiếc lá, dù rất đẹp, nhưng lại hết sức mong manh. Những chiếc lá hôm nay còn xanh, ngày mai đã ngả màu héo úa. Thánh lễ khai mạc Tuần Thánh dẫn khởi đầu bằng bầu khí hân hoan khi Chúa vào thành thánh, và kết thúc bi thương với hình ảnh Người chịu khổ nạn. Đức Giê-su, Đấng Công chính, đã trải qua nhiều đau thương trong những ngày cuối đời trên dương thế. Người luôn cam chịu mà không phản ứng lại. Người chấp nhận những gian khó vì vâng phục Chúa Cha và vì yêu mến nhân loại (Bài đọc I và Đáp ca). Trong suốt Tuần Thánh và nhất là Tam Nhật Vượt qua, chúng ta cùng với Giáo hội Hoàn vũ chiêm ngắm Đức Giê-su, một con người bị đánh đập tàn nhẫn đến biến dạng, bị vu khống đủ điều xấu xa và cuối cùng bị giết chết trên thập giá.
Như những cành lá xanh nhanh chóng nhạt màu phai sắc. Người dân thành Giê-ru-sa-lem, khi đón Chúa vào thành, hân hoan tưng bừng là thế, mà chỉ mấy ngày sau đó họ thay lòng đổi dạ. Đó là một đám đông hỗn độn, bừng bừng sát khí đòi Phi-la-tô lên án tử cho Chúa Giê-su. Một chi tiết phụ trong trình thuật nhưng lại làm nổi bật sự hận thù vô cớ của người Do Thái, đó là trường hợp Ba-ra-ba. Anh ta là một tên trộm cướp, hoặc một thành viên băng đảng. Nhưng, một nghịch lý trớ trêu là người dân lại xin tha cho người tù khét tiếng này, để một mực bắt Chúa Giê-su phải chết. Phi-la-tô là người ngoại và là đại diện cho chính quyền dân sự. Ông muốn tha Chúa Giê-su. Gợi ý tha bổng một tù nhân vào dịp lễ Vượt qua là một lối thoát nhằm phóng thích Chúa Giê-su, nhưng bất thành. Chúa Giê-su đã bị lên án tử. Bản án và việc xét xử được thực hiện vội vàng, ngay trong đêm. Chúa Giê-su đã phải tự vác thập giá đến nơi hành hình và đã bị đóng đinh trên cây gỗ ấy.
Chắc chắn trong lúc dân chúng kết án Chúa Giê-su trong cảnh hỗn loạn, có những người mến Chúa và thương Chúa. Họ rất muốn minh oan cho Chúa Giê-su. Tuy vậy, tiếng nói của họ quá nhỏ, bị át bởi cường quyền và đám đông đang hầm hầm giận giữ. Và, những tiếng nói của lẽ phải ấy đã bị bóp nghẹt. Ngày hôm nay cũng thế, có biết bao tiếng nói đòi công bằng và tôn trọng nhân phẩm bị bóp nghẹt giữa cơn cuồng phong của những kẻ mạnh vô luân!
Mỗi năm, chúng ta cử hành Lễ Lá để phác hoạ và diễn tả cuộc vào thành Giê-ru-sa-lem long trọng của Chúa Giê-su năm xưa. Phụng vụ có đề nghị nghi thức làm phép lá và phát cho dân chúng. Sách nghi lễ còn nói rõ: khi đi rước, vị chủ tế đi trước, sau đó là những người giáo dân, tay cầm ngành lá phấp phới. Chúng ta cũng thường có thói quen mang cành lá đã được làm phép về trưng bày tại gia đình, như một gợi nhớ về ý nghĩa Phụng vụ Tuần Thánh. Đó cũng là một nhắc nhở cho chúng ta về thân phận con người, và lòng trung thành trong đức tin và trong cách đối nhân xử thế.
Cuộc đời chúng ta như một chiếc lá. Vòng đời của chiếc lá khởi đầu từ ngày hé nở cho đến ngày úa vàng rồi rụng xuống đất. Vòng đời ấy dài hay ngắn tuỳ thuộc mỗi loại cây. Nhưng tất cả đều có một điểm giống nhau, là nếu rời khỏi cành, thì sẽ tàn úa. Chiếc lá xanh của lễ khai mạc Tuần Thánh nhắc cho chúng ta sự mỏng giòn chóng qua của kiếp người. Chiếc lá cũng nhắc chúng ta về sự thay đổi bất nhất của lòng dạ con người. Quả vậy, hành trình cất bước theo Chúa Giê-su, là hành trình liên lỉ suốt đời. Trong hành trình ấy, có nhiều khó khăn chông gai thử thách. Con Thiên Chúa đã mang thân phận con người, đã lao nhọc trên mọi nẻo đường loan báo Tin Mừng và cuối cùng đã chết trên thập giá. Hình ảnh Đức Giê-su vác thập giá như nguồn khích lệ động viên mỗi chúng ta. Bởi lẽ thập giá, tức là những khổ đau, mâu thuẫn và thất bại, không từ một ai. Chúa Giê-su đã vác thập giá, và hôm nay Người cũng đang cùng vác thập giá với mỗi chúng ta. “Hãy đến với Ta tất cả, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi” (Mt 11,28). Chúa đã hứa với chúng ta như thế.
Xin Chúa giúp sức, để chúng ta có thể gìn giữ tâm hồn và cuộc đời luôn thắm mãi màu xanh. Amen. mục lục
+ ĐTGM. Giu-se Vũ Văn Thiên
VUA HOÀ BÌNH, VAI MANG THẬP GIÁ CỨU ĐỘ TRẦN GIAN
Trước Đại Lễ Phục Sinh, Giáo hội cử hành Lễ Lá, kết thúc Mùa Chay Thánh, khai mạc Tuần Thánh. Trong tuần này, Giáo hội cử hành cuộc khổ nạn, sự chết và nhất là sự Phục Sinh của Chúa Giêsu, Ðấng Cứu Độ trần gian.
Sự kiện Chúa Giêsu tiến vào thành Giê-ru-sa-lem được cả Bốn sách Tin Mừng (Máccô 11,1-11, Matthêu 21,1-11; Luca 19,28-44; và Gioan 12, 12-19) kể về việc này.
Chúa Giêsu cưỡi trên con lừa con là con của con vật chở đồ. Theo truyền thống Đông Phương, lừa là một con vật của hòa bình. Việc Chúa Giêsu tiến vào thành Giê-ru-sa-lem trên con lừa ngụ ý ám chỉ Chúa là Vua Hoà Bình.
Ở nhiều vùng đất trong vùng Cận Đông cổ đại, việc lát gạch con đường của một ai đó đáng kính trọng đã đi là chuyện khá phổ biến. Trong sách Các vua quyển thứ 2 chương 9 câu 13 kể rằng Jehu, con của Jehoshaphat, được tôn vinh theo cách này.
Hoan hô, chúc tụng vua Israel, Ðấng nhân danh Chúa mà đến! (x. Ga 12, 12-16)
Nghe đọc những lời trên lúc mở đầu nghi thức làm phép kiệu lá, tưởng nhớ tới sự kiện Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, dân chúng rủ nhau ra mà đón : “Nhiều người trải áo xuống đường, kẻ khác chặt nhành cây trải lối đi: Kẻ thì đi trước, người theo sau tung hô rằng: "Hoan hô! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến. Chúc tụng nước Ðavit tổ phụ chúng ta đã đến. Hoan hô trên các tầng trời!” Họ trải áo trên đường để Chúa đi” (Mc 11, 8-10 ).
Cả bốn sách Tin Mừng đều kể rằng dân chúng đã tôn vinh Chúa Giêsu theo cách kiểu trên. Trong bản Nhất Lãm mô tả là dân chúng trải áo và lá trên đường, còn Phúc âm Gioan nói rõ là lá cọ. Theo thông lệ Do Thái, lá cọ là một trong bốn loại thực vật được mang đến cho Lễ Lều Tạm, dùng để mô tả niềm vui và chiến thắng. Những cành lá diễn tả những gì mà người ta sử dụng cho cuộc khải hoàn của Chúa Giêsu khi tiến vào thành Giê-ru-sa-lem.
Đám đông dân chúng hân hoan, chúc tụng đón rước Chúa. Tất cả mọi người đều hát noi gương các trẻ em Do Thái đồng thanh tung hô Đức Giêsu: “Thánh, thánh, thánh! Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến”. Đúng là một bầu khí vui mừng mà chúng ta cảm nghiệm được khi tái cử hành biến cố năm xưa. Chúa Giêsu, Thái Tử nhà Đavít tiến vào Giêrusalem đã khơi dậy lên bao nhiêu niềm hy vọng nơi tâm hồn những người đơn sơ, nghèo khổ, bị lãng quên. Người thấu hiểu và cảm thông cảnh lầm than khốn khổ của họ, cúi mình xuống chữa lành những vết thương thể xác cũng như tâm hồn và tỏ lòng từ bi đối với họ. Chúng ta thật vui mừng và tràn đầy hy vọng, vì thế giới chúng ta sống đang rất cần tình thương đó.
Niềm vui của dân chúng đang hân hoan, tung hô, chúc tụng Chúa, bỗng sự đấu tố, đòn vọt, vòng gai và thập giá bao trùm. Lời Tiên tri Isaia và bài tường thuật của thánh sử Marcô đưa chúng ta vào trong mầu nhiệm Thương Khó và cái chết của Chúa Giêsu. Isaia mô tả cho chúng ta hình ảnh của một người bị đánh đòn và chịu vả mặt nhục nhã (x. Isaia 50, 6). Lời đáp ca: “Lạy Chúa tôi, lạy Chúa tôi, sao Chúa bỏ rơi tôi?” giúp chúng ta chiêm ngắm cơn hấp hối của Chúa Giêsu trên thập giá (x. Mt 15, 34).
Vua Giêsu cưỡi trên con lừa con, không có đoàn tùy tùng vào Thành Thánh để chịu đánh đòn, lăng mạ và xúc phạm; Người vào để chịu đội mão gai và mặc áo choàng đỏ, vương quyền của Người là đối tượng cho sự nhạo cười; Người vào thành Giêrusalem để chịu chết trên Thập giá. Thập giá là ngai vàng của Người, Người mang lấy sự ác và tội lỗi của thế nhân, cùng với Thập giá trên mình. Với lòng từ bi và tình thương của Thiên Chúa, Người lấy máu mình mà rửa cho sạch. Vì thế, Thập giá được Chúa Giêsu đón nhận với tình thương không bao giờ đưa tới sầu muộn, nhưng dẫn đến niềm vui ơn cứu độ.
Bước vào Tuần Thánh tưởng niệm cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu. Chính nhờ sức mạnh của Mầu Nhiệm Vượt Qua mà Giáo Hội có thể công bố cho thế giới rằng : “Chúa Giêsu Kitô là Chúa, để Thiên Chúa Cha được vinh hiển” (Phil 2,11). Phải, Chúa Giêsu Kitô là Chúa, Người là Chúa của thời gian và của lịch sử; là Ðấng Cứu Chuộc con người; Người là Ðấng Cứu Thế! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Hosanna! Amen. mục lục
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
CHÚA KITÔ TRÚT BỎ MỌI VINH QUANG BẰNG LÒNG CHỊU CHẾT VÌ YÊU THƯƠNG
Hôm nay Chúa Nhật Lễ Lá, chúng ta bước vào Tuần Thánh. Các bài đọc nhắc nhở chúng ta về cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Cứu Thế. Chúng ta suy ngẫm về cuộc thương khó của Chúa, về cái giá Ngài đã trả để cứu chuộc chúng ta, không chỉ hôm nay hay suốt Tuần Thánh này mà cả cuộc đời mình. Được dìm sâu vào Cuộc Khổ Nạn lớn lao của Chúa Giêsu là đặc ân dành cho chúng ta.
Căn tính của Chúa Giêsu: Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng.
Trong trình thuật Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu theo Thánh Máccô, thần tính của Chúa Giêsu xuất hiện một cách hết sức rõ ràng. Chúa Giêsu dường như không quan tâm trả lời những cáo buộc chống lại Ngài, ngay cả những lời buộc tội sai trái rằng Ngài sẽ phá hủy Đền Thờ: “Chúng tôi có nghe ông ấy nói: Tôi sẽ phá Đền Thờ này do tay người phàm xây dựng, và nội ba ngày, tôi sẽ xây một Đền Thờ khác, không phải do tay người phàm!...Vị thượng tế đứng lên giữa hội đồng hỏi Chúa Giêsu: Ông không nói lại được một lời sao? Mấy người này tố cáo ông gì đó? Nhưng Chúa Giêsu vẫn làm thinh, không đáp một tiếng” (Mc 14: 58-61). Nhưng có một điều Ngài quan tâm trả lời: câu hỏi về căn tính của Ngài. Chúng ta đọc thấy rằng khi bị đưa ra trước Tòa Công Luận, người ta hỏi Chúa Giêsu: “Ông có phải là Đấng Kitô, Con của Đấng Đáng Chúc Tụng không?” (Mc 14:61). Chúa Giêsu bình tĩnh trả lời: “Phải, chính thế” (Mc 14:62).
Trong Tin Mừng theo Thánh Máccô, Chúa Giêsu không bao giờ tự xưng là Đấng Kitô. Thỉnh thoảng, nếu có ai đó biết Ngài là Đấng Kitô thì Ngài cũng cấm không cho nói ra. Nay lần đầu tiên Ngài nói rõ mình là Đấng Kitô và còn giải thích đó là một Đấng Kitô có thiên tính. Ngài tự nhận mình là nhân vật “Con Người” từ trời cao mà đến: “Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến” (Mc 14: 62). Khi nói như vậy Chúa Giêsu muốn cho Tòa Công Luận biết rằng Ngài là Con Người mà sách Đaniel đã báo trước: “Trong những thị kiến ban đêm, tôi mải nhìn thì kìa: có ai như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến. Người tiến lại gần bên Đấng Lão Thành và được dẫn đưa tới trình diện” (Đn 7:13-14). Tuyên bố này của Chúa Giêsu ngay lập tức đã khiến vị thượng tế xé áo choàng của mình, vốn là điều bị cấm theo lề luật: “Tư tế lớn nhất trong hàng anh em nó, người đã được đổ dầu tấn phong lên đầu và được trao quyền khi mặc phẩm phục, thì không được xoã tóc và xé áo” (Lv 21:10). Nhưng đó là cử chỉ vị thượng tế đã làm. Ông muốn bày tỏ sự phản bác và khinh thị, vì làm sao một tên tội phạm bị trói tay như thế lại có thể là Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng được!
Rồi khi bị dẫn ra trình diện trước Philatô, Chúa Giêsu cũng không đáp lại bất cứ điều gì chống lại Ngài: “Các thượng tế tố cáo Ngài nhiều tội, nên ông Philatô lại hỏi Ngài: Ông không trả lời gì sao? Nghe kìa, họ tố cáo ông biết bao nhiêu tội! Nhưng Chúa Giêsu không trả lời gì nữa, khiến ông Philatô phải ngạc nhiên” (Mc 15: 3-5). Nhưng khi Philatô hỏi về chức vụ của Ngài: “Ông là vua dân Do thái sao?” thì ở đây một lần nữa, Chúa Giêsu sẵn sàng trả lời về căn tính của Ngài. Câu trả lời khẳng định nhẹ nhàng: “Đúng như ngài nói đó” (Mc 15: 2). Ở đây Ngài thừa nhận có vai trò đó, dù trong một hoàn cảnh vô cùng mỉa mai. Chính vì thế mà binh lính chế nhạo Ngài: “Chúng khoác cho Ngài một tấm áo điều, và kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Ngài. Rồi chúng bái chào Ngài: Vạn tuế đức vua dân Do thái! Chúng lấy cây sậy đập lên đầu Ngài, khạc nhổ vào Ngài, và quỳ gối bái lạy” (Mc 15:17-19).
Thánh Máccô không bỏ lỡ điều trớ trêu đó. Thánh sử muốn nói dù đúng là Vua dân Do Thái và Con vua Đavít, Chúa Giêsu cũng được hiểu là Vua của những người lính đó, của muôn dân nước, như tiên tri Samuel kể rằng Thiên Chúa phán với vua Đavít: “Khi ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi -một người do chính ngươi sinh ra, và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền” (2Sm 7:12). Khi xưa Vua Đavít đã thống nhất các chi tộc Israel thì nay Người bị coi là tội phạm, bị treo cao trên thập tự giá, và khi trút hơi thở, lại đuợc viên quan bách quân người Rôma khẳng định trong ngỡ ngàng: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15:39).
Như vậy, chính viên quan Rôma này đã trả lời cho câu hỏi được đưa ra trước Tòa Công Luận: “Ông có phải là Đấng Kitô, Con của Đấng Đáng Chúc Tụng không?” (Mc 14:61). Đây là lần đầu tiên trong các sách Tin Mừng có một người dân ngoại nhận ra căn tính của Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Con Người ấy là Con Thiên Chúa, sẽ tập họp muôn dân nước trong quyền năng và vinh quang của Ngài vào ngày sau hết. Chúa Giêsu đã báo trước cho các môn đệ của Ngài về điều này:“Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến. Lúc đó, Ngài sẽ sai các thiên sứ đi, và Ngài sẽ tập họp những kẻ được Ngài tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời” (Mc 13:26-27). Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, được Chúa Cha sai đến để cứu chuộc tất cả chúng ta, qua khổ hình thập giá. Đó là một trong những chân lý mầu nhiệm nhất của Kitô giáo.
Chúa Giêsu hoàn toàn bằng lòng chịu chết trên cây thập tự.
Ngài im lặng trước những cáo buộc chống lại mình. Ngài không quan tâm đến việc bảo vệ mình trước những cáo buộc sai trái, nào là phá đền thờ, nào là không nên nộp thuế cho Xêda. Ngài không quan tâm đến việc thuyết phục chính quyền về sự vô tội của mình. Sự im lặng của Ngài đã được báo trước khi tiên tri Isaia nói về Người Tôi Tớ Đau Khổ: “Bị ngược đãi, người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở miệng” (Isaia 53:7). Ngài lên Giêrusalem là để chết. Ngài đang thực hiện kế hoạch của Thiên Chúa Cha: chết để cứu độ nhân loại. Cái chết của Ngài là do Ngài hoàn toàn tự nguyện chấp nhận, trọn vẹn vâng theo Thánh Ý của Chúa Cha. Chúa Giêsu cho thấy lời tiên tri Isaia đã ứng nghiệm nơi Ngài: “Thiên Chúa đã muốn ngài phải bị nghiền nát vì đau khổ. Nếu ngài hiến thân làm lễ vật đền tội…ý muốn của Thiên Chúa sẽ thành tựu…Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ…Bởi vì ngài đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân; nhưng thực ra, ngài đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi” (Is 53:10-12).
Tin Mừng theo Thánh Máccô nói chi tiết về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Những chi tiết này sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn tình yêu bao la của Chúa Giêsu dành cho chúng ta khiến Ngài sẵn lòng chịu đau khổ và chịu chết. Trong bài đọc thứ hai Thánh Phaolô đã suy niệm thật sâu xa: “Chúa Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2:6-8).
Những suy niệm này cũng giúp chúng ta hiểu rõ hơn mức độ nghiêm trọng của tội lỗi vốn gây ra cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu. Chúng ta hoán cải và thay đổi cuộc sống mình như thế nào để không làm cho thập giá của Chúa Giêsu, của những người khác và của chính mình nặng thêm vì tội lỗi của chúng ta?
Chúng ta tập trung vào những giờ phút cuối cùng trong cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu. Chúng ta khắc ghi vào tâm hồn chúng ta một cách rõ ràng hơn hình ảnh một Thiên Chúa ở cùng chúng ta, một Thiên Chúa không hề xa lạ với con người. Chúa Giêsu, dù là Thiên Chúa, đã hành xử như một tôi tớ, phục vụ tất cả các môn đệ của Ngài khi xưa và phục vụ tất cả chúng ta ngày nay, sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình, đổ chính máu mình ra: “Ngài bảo các ông: "Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người” (Mc 14: 24). Chúa Giêsu luôn tìm Thánh Ý của Chúa Cha trong mọi sự, không tìm cách làm theo ý mình, ngay cả trong thời điểm đau thương và chết chóc như thế này: “Ábba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn” (Mc 14:36).
Vâng phục Thiên Chúa Cha là bản chất của Chúa Giêsu.
Đối với Chúa Giêsu, vâng phục là lắng nghe và làm theo Chúa Cha yêu dấu của Ngài. Việc Chúa Giêsu đi vào thế gian hiến mình làm tôi tớ, chịu khổ hình, đau đớn, nhục nhằn, không bao giờ là sáng kiến mang tính anh hùng cá nhân của một người con muốn chứng tỏ bản thân mình với Cha mình. Trong những hành động này, Chúa Giêsu đang lắng nghe và vâng theo tiếng nói thần linh của Chúa Cha, bằng chính tình yêu thần linh của Ngài dành cho Chúa Cha. Đó là một sự đáp trả đầy yêu thương đối với một kế hoạch yêu thương và là một sự vâng phục tuyệt đối tự do đối với một ý muốn không hề bắt buộc phải làm. Trong tâm tình lắng nghe và vâng phục này, giữa Chúa Cha và Chúa Con, không có giây phút nào xa cách, sợ hãi hay nghi ngờ, mà chỉ có tình yêu vô điều kiện và không dè sẻn từ Chúa Cha. Và sự đáp trả của Chúa Giêsu đối với tình yêu của Chúa Cha cũng vô điều kiện, không giới hạn và không giữ lại gì.
Mọi người tìm cách làm theo ý mình, nhưng Chúa Giêsu chỉ tìm kiếm ý muốn của Chúa Cha như Ngài nói: “Tôi không tìm cách làm theo ý riêng tôi, nhưng theo ý Đấng đã sai tôi” (Ga 5:30). Chính sự vâng phục này đã thể hiện sự trọn hảo của Chúa Con, và biểu lộ Ngài là ai, như Ngài đã phán: “Tôi không thể tự ý mình làm gì”. Ngài là “Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật”, là một với Chúa Cha nên luôn hành động cùng với Chúa Cha trong bất cứ điều gì, dù trong suy tưởng hay trong hành động, tất cả đều theo ý muốn và vì sự vinh hiển của Cha Ngài.
Để ý muốn của Chúa Cha được hoàn thành, Chúa Con phải bước vào cái chết, và qua cái chết, chỗi dậy trong sự phục sinh, hoàn thành trọn vẹn ý định vĩnh cửu của Chúa Cha. Việc Ngài đi vào cái chết là do chính Ngài tự nguyện: “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy” (Ga 10:18). Ngài bước vào lãnh địa tối tăm của cái chết mà chưa ai từng bước vào đó, với tất cả sự tin tưởng vào thẩm quyền mà Chúa Cha ban cho Ngài để phá vỡ quyền lực của cái chết, và bước ra trong chiến thắng vì đã hoàn thành công việc mà Cha Ngài đã giao cho Ngài làm. Việc Ngài tự ý đi vào cái chết là một hành vi vâng phục thánh ý Chúa Cha, để bày tỏ tình yêu của Ngài đối với Chúa Cha như Ngài nói: “Nhưng chuyện đó xảy ra là để cho thế gian biết rằng Thầy yêu mến Chúa Cha và làm đúng như Chúa Cha đã truyền cho Thầy” (Ga 14:31).
Cái chết của Ngài bày tỏ tình yêu của Ngài đối với Chúa Cha, đồng thời mặc khải tình yêu của Chúa Cha dành cho nhân loại. Chính tình yêu này của Chúa Cha, biểu lộ qua cái chết vâng phục của Chúa Con, đã mang lại cho con người vô vàn ân sủng rạng ngời, như Thánh Phaolô diễn tả: “Theo ý muốn và lòng nhân ái của Ngài [Thiên Chúa], Ngài đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Chúa Giêsu Kitô, để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Ngài ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu. Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi theo lượng ân sủng rất phong phú của Ngải. n sủng này, Thiên Chúa đã rộng ban cho ta cùng với tất cả sự khôn ngoan thông hiểu” (Ep 1:5-8).
Chúng ta, những người đã lãnh nhận ân sủng của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu, được mời gọi sống theo ân sủng, nghĩa là sống theo Lời và gương mẫu đời sống của Chúa Giêsu để ân sủng của Ngài dần thấm vào tâm tưởng, diễn ngôn, hành vi và thái độ của chúng ta trong cuộc sống thực tế hàng ngày.
Xin cho những lời của tiên tri Isaia, trong bài đọc thứ nhất, ứng nghiệm không chỉ trên Chúa Giêsu mà trên cả mỗi người chúng ta: “Thiên Chúa là Chúa Thượng đã cho tôi nói năng như một người môn đệ, để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức…Thiên Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui” (Isaia 50:4-7). mục lục
Phêrô Phạm Văn Trung
Anh chị em thân mến,
Cùng với toàn thể Giáo hội, chúng ta bước vào Tuần Thánh bằng việc cử hành cuộc đón tiếp Chúa Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem. Với những nhành lá vạn tuế kèm theo những lời tán tụng, chúng ta đón tiếp Chúa như một vị quân vương. Nhưng vài ngày sau, cụ thể trong bài Thương Khó mà chúng ta vừa nghe, nói về con đường khổ nạn và sự chết của Người. Chỉ mình Chúa trong cuộc hành trình thứ hai này. Mẹ của Người và các người thân tín cũng chỉ dám đi xa xa để trông chừng. Chúa Giêsu hoàn toàn cô đơn, trống vắng. Không còn những lời tung hô; thay vào đó là những lời lên án và cũng chẳng còn những nhành lá biểu lộ sự vui mừng, mà là cây thập giá, sau cùng là sự chết. Một cái chết cô đơn, tủi nhục như một phạm nhân trên thập giá.
Vào thời của Người, bị chết treo trên thập giá là một án tử hình dành cho các tội nhân. Và án này được chính quyền Roma đặt ra để áp dụng cho người Do thái. Hàng năm có rất nhiều người bị treo trên thập giá. Nhiều đến nỗi người ta có thể chồng chất sọ của các nạn nhân lên nhau và người ta gọi địa điểm đó là núi sọ.
Trong lúc đã có quá nhiều người bị treo trên thập giá như thế, thì vì sao chỉ có mình sự kiện Chúa bi treo và chết trên thập giá lai được lưu truyền cho đến ngày nay? Sự chết của Đức Giêsu đã có ảnh hưởng gì trên cuộc sống của anh em tín hữu tiên khởi? Để rồi, qua bao thế hệ, hàng hàng lớp lớp vẫn vui vẻ dấn thân đi theo con đuờng Thập giá, hy sinh bản thân, sẵn lòng chịu chết vì lợi ích và sinh hoa kết quả cho người khác.
Chúng ta cần tìm ra những giá trị đích thực của việc Chúa chết để tìm ra sức mạnh yêu thương mà biến cố Phục Sinh biến đổi và đem lại cho cuộc sống của chúng ta?
Anh chị em thân mến,
Lẽ ra, trong cuộc đời và nhất là Tuần Thánh này, chúng ta cố gắng sống và trao ban cho nhau trọn vẹn lòng yêu mến của Đấng đã trao cho chúng ta quà tặng tình yêu. Nhưng, thực tế chúng ta lại mang lấy tâm trạng của những kẻ nhút nhát và phản bội như các môn đệ: ông này chối Chúa, ông kia bán Người; lại có ông bỏ rơi Người trong giây phút Nguời cần sự đồng cảm và hỗ trợ của các ông… Rồi chúng ta cũng có thể lại đồng ý với dã tâm và lòng thâm độc của các nhà lãnh đạo tôn giáo, đã bày mưu giết Người; rồi một cách nào đó, chúng ta cũng đồng ý với các hành động tàn nhẫn của quân lính khi hành hình Chúa tôi!
Những cực hình về mặt thể xác và tinh thần mà Đức Giê-su đón nhận một cách hiên ngang và tự nguyện vì yêu thuơng sẽ đem lại sự hỗ trợ và là nguồn sức mạnh giúp chúng ta suy gẫm những việc Đức Giê-su đã chịu và không làm cho cảnh vật xẩy ra trong những ngày này trở lên buồn thảm hơn.
Vào tối thứ Năm, đôi bàn tay của Chúa đã rửa và lau sạch mọi thứ bụi trần còn dính vào đôi chân của những kẻ theo Người. Việc làm này không chỉ nhấn mạnh đến tinh thần phục vụ như một người tôi tớ; nhưng qua nghĩa cử yêu thuơng hạ mình thâm sâu đó, Người muốn phá tan mọi hàng rào ngăn cách giữa thầy và trò, chủ và tôi tớ, người với người.
Rồi sang ngày thứ Sáu, Đức Giê-su đã dâng hiến tinh thần, thân xác và sứ vụ của Người như lễ vật hy sinh vào tay Chúa Cha. Người mở tay ra để trao phó, còn đôi bàn tay của Thiên Chúa, Cha Người cũng mở ra để đón nhận. Một giao uớc được ký kết, giao ước của Tình Yêu nói lên đích điểm của việc trao ban và đón nhận. Giao Uớc này thay thế cho mọi giao ước trước. Vì thế, ngày thứ Sáu sẽ không còn là ngày buồn thảm và tang thương như một số người chủ truơng. Nhưng đó là “Good Friday – Ngày Thứ Sáu Tốt-Đẹp.” Trong ‘ngày và giờ’ đó tình yêu của Chúa được thể hiện một cách thật trọn vẹn qua con đuờng Người đã đi.
Sự thinh lặng trong ngày thứ Bẩy Tuần Thánh nhắc cho chúng ta biết về thân phân ‘bó tay’ của mình: không còn đường nào để đi, không còn lối nào để thoát. Nhưng, chính vào lúc con người bị bó tay như thế đó mà Thiên Chúa lại ra tay làm việc và can thiệp vào tình trạng ‘bó tay’ của nhân loại và của riêng chúng ta.
Vì thế, các nghi thức phụng vụ mà chúng ta cử hành trong những ngày này, cách xử thế trong cuộc đời và lối sống đạo của chúng ta rất cần đuợc dẫn dắt bởi mối tình cao cả mà Con Thiên Chúa đã thực hiện.
Vẫn biết là sống đạo như thế mới là sống đích thật. Nhưng trở về để đối diện với thực tế, tôi tự hỏi mình rằng: đã bao lần tham dự các nghi thức trong Tuần Thánh, đã bao lần suy niệm về con đuờng Thập Tự của Đức Giê-su; thế mà các biến cố đã xẩy ra trên con đuờng của Chúa, nhất là sự chết của Người đã có ảnh hưởng gì trên hành trình niềm tin và lối sống đạo của tôi?
Rồi lại, nếu nay mai có người hỏi tôi rằng: anh hay chị đã yêu Chúa như Chúa yêu chưa? Có lẽ, chẳng có mấy người trong chúng ta dám mạnh dạn trả lời ‘có’. Giả như có một số người thật dũng cảm khi trả lời có thì câu trả lời ‘có’ đó cũng chỉ là từ ngữ; bởi vì, sau đó khi được yêu cầu liệt ra các việc làm cụ thể của yêu thương thì chúng ta lại ấp úng, rồi cười xoà cho xong. Nhưng nếu cần phê phán người khác thì chúng ta giỏi lắm. Chúng ta thường áp đặt lối suy nghĩ ích kỷ của chúng ta trên việc làm của người khác cho nên đã bỏ lỡ nhiều cơ hội nhận ra ý nghĩa sâu sắc của viêc làm nào đó của tha nhân!
Hẳn chúng ta còn nhớ. Mary, chị của Lazarô, người đã dùng dầu thơm hảo hạng để xức chân Đức Giêsu; thế mà cũng có người cảm thấy bị xúc phạm rồi phê phán hành động của Maria thật là hòai của và lãng phí, tại sao chị lại không dùng tiền đó mà cho người nghèo! Với Chúa thì khác, Người nhìn thấy tấm lòng của chị ta. Chúa xác định một cách thật chắc chắn rằng, hãy để chị ta làm việc của chị ấy, đừng xía miệng vào chuyện của người khác. Việc làm của chị thật tuyệt diệu; qua hành vi này Maria đã bộc lộ tấm lòng quí mến của chị dành cho Thầy.
Sau cùng, chúng ta hãy đến với nhau bằng tấm lòng quảng đại và đôi tay mở ra, chứ đừng hoài nghi hay phê phán các việc tốt của người khác đã và đang làm. Trái lại, chúng ta cũng không nên quá cẩn trọng và e dè khi cần làm một điều thiện cho tha nhân. Tất cả đều đuợc đánh giá bằng lòng yêu mến.
Hành vi của lòng nhân hậu phát sinh bởi ý ngay lành đều là những hành vi Thánh Thiện. Những gì càng nhỏ bé và dấu kín và một khi được bộc lộ thì giá trị càng cao. Sự thánh thiện đích thật thường được giấu trong cái vỏ bình thường bên ngòai. Và với lòng yêu mến, việc phục vụ tha nhân chính là phụng sự Thiên Chúa vậy.
Với tâm tình như thế, cầu chúc anh chị em buớc vào Tuần Thánh với tấm lòng yêu mến để được thêm sức mà vác Thánh Giá trên con đường phục vụ và trở thành của lễ cho Thiên Chúa và sinh nhiều hoa trái cho tha nhân. Amen! mục lục
Lm. Yuse Mai Văn Thịnh, DCCT
Trình thuật Mc 14:1-15 là thước phim sống động. Hai ngày trước lễ Vượt Qua và lễ Bánh Không Men, các thượng tế và kinh sư tìm cách dùng mưu bắt Đức Giêsu và giết đi, vì họ nói: “Đừng làm vào chính ngày lễ, kẻo dân chúng náo động.” Họ muốn giết Ngài trước ngày lễ, nhưng không thể: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.” Chuỗi đau khổ bắt đầu ngay từ lúc hiển hách. Thật kỳ lạ!
Trước đó, ngay tại nhà ông Simon Cùi ở làng Bêtania. Giữa lúc Đức Giêsu dùng bữa, có một phụ nữ đến với chiếc bình bạch ngọc đựng dầu thơm nguyên chất cam tùng (tên khoa học là Nardostachys, một chi thực vật thuộc họ Kim Ngân, được dùng để chiết xuất lấy tinh dầu màu hổ phách, mùi rất thơm và đắt tiền). Cô đập bình, đổ dầu trên đầu Ngài. Cô biết mình tội lỗi, nhưng cô không có ý “mua chuộc” hoặc “lấy lòng” Chúa Giêsu. Không biết cô có biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa hay không, nhưng cô thực sự tâm phục khẩu phục Con Người thánh thiện và cao cả này. Cô tin nên cô mới đến xin Ngài thương xót. Niềm hy vọng của cô rất cao xa, sâu rộng.
Các bạn của ông Simon Cùi biết cô này, thế nên có vài người bực tức xì xầm: “Phí dầu thơm như thế để làm gì? Dầu đó có thể đem bán lấy trên ba trăm quan tiền mà bố thí cho người nghèo.” Có vẻ nhân đức, nhưng họ thương người nghèo hay tiếc của? Người ta cũng thường như vậy để chứng tỏ “bản lĩnh đạo đức” của mình, nhưng ngày nay “phong cách” tinh vi hơn!
Không chỉ bực tức mà họ còn gắt gỏng với cô. Sự ghen tức của con người rất kinh khủng và đáng sợ! Nhưng Chúa Giêsu nói ngay: “Cứ để cho cô làm. Sao lại muốn gây chuyện? Cô ấy vừa làm cho tôi một việc nghĩa. Người nghèo thì lúc nào các ông chẳng có bên cạnh mình, các ông muốn làm phúc cho họ bao giờ mà chẳng được! Còn tôi, các ông chẳng có mãi đâu! Điều gì làm được thì cô đã làm: cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi, để chuẩn bị ngày mai táng. Tôi bảo thật các ông: Hễ Tin Mừng được loan báo đến đâu trong khắp thiên hạ thì nơi đó việc cô vừa làm cũng sẽ được kể lại để nhớ tới cô.” Chúa Giêsu phải nói cho người ta hiểu rõ vấn đề. Người ta khinh và ghét cô, nhưng Chúa Giêsu lại làm cô hãnh diện: “Hễ Tin Mừng được loan báo đến đâu trong khắp thiên hạ thì nơi đó việc cô vừa làm cũng sẽ được kể lại để nhớ tới cô.”
Thánh Máccô kể một cảnh khác: “Giuđa Ítcariốt, một người trong Nhóm Mười Hai, đi gặp các thượng tế để nộp Người cho họ. Nghe hắn nói, họ rất mừng và hứa cho tiền. Giuđa liền tìm cách nộp Người sao cho tiện.” (Mc 14:10-11) Vì mê tiền, ông Giuđa đã “đi đêm” với bọn bất lương. Ông hy vọng: Có tiền tiêu xài hoặc làm việc gì đó. Mặc dù tiền rất “bạc bẽo” nhưng nó có ma lực cực mạnh, khó cưỡng lại, như Thánh Phaolô xác định: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé.” (1 Tm 6:10) Khinh suất thì chết liền. Và điều gì sẽ đến rồi cũng đến.
Hôm đó là ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, ngày sát tế Chiên Vượt Qua, các môn đệ thưa với Đức Giêsu: “Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?” Ngài sai hai môn đệ đi, dặn họ vào thành, có một người mang vò nước đón gặp họ, và bảo họ cứ đi theo người đó. Người đó vào nhà nào thì họ vào theo và hỏi chủ nhà xem phòng dành cho Ngài ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ ở đâu. Chúa Giêsu cho biết rằng chính ông ấy sẽ chỉ cho một phòng rộng rãi trên lầu, đã được chuẩn bị sẵn sàng, và nhiệm vụ của họ là dọn tiệc.
Buổi chiều. Thầy trò cùng tới. Đang khi dùng bữa, Ngài nói: “Thầy bảo thật anh em, có người trong anh em sẽ nộp Thầy, mà lại là người đang cùng ăn với Thầy.” Ôi, có chuyện đó ư? Kẻ thù thì dễ thấy mà đề phòng, người thân thiết thì không biết họ trở mặt lúc nào. Quả thật, đôi khi kẻ thù không đáng sợ bằng bạn bè và người thân!
Qua việc chỉ điểm của ông Giuđa, những kẻ ác tra tay bắt Chúa Giêsu ngay sau Bữa Tiệc Ly. Lúc đó, ông Phêrô liền tuốt chém đứt tai tên đầy tớ của thượng tế, nhưng Chúa Giêsu bảo ông cất gươm, rồi Ngài chữa lành tai cho nạn nhân. Thế mà chúng vẫn cứng lòng tin, vẫn quyết bắt giết Chúa Giêsu. Đoạn phim buồn chưa khép lại ở “khoảng tối” này, mà còn “khoảng đen” khác, nhưng cuối cùng sẽ là “vùng sáng” huy hoàng.
Một tuần trước lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu cưỡi một con lừa nhỏ vào Thành Giêrusalem, các môn đệ theo sau. Thánh Gioan cho biết: “Dân chúng lũ lượt tuôn đến mừng lễ. Thoạt nghe tin Đức Giêsu tới Giêrusalem, họ cầm nhành lá thiên tuế ra đón Người và reo hò: Hoan hô! Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Chúc tụng vua Israel!” (Ga 12:12-13) Buồn để rồi vui. Buồn càng nhiều, vui càng rộn rã. Cũng vậy, đau khổ để rồi hạnh phúc. Đau khổ càng nhiều, hạnh phúc càng lớn. Nhiệm mầu Thánh Ý Chúa. Phàm nhân không thể hiểu!
Đau khổ của Người Tôi Trung Đau Khổ được đề cập trong trình thuật Is 50:4-7, phần đầu của bài thứ ba trong các Bài Ca Người Tôi Trung: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho tôi nói năng như một người môn đệ, để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ. Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui. Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ.” Các động thái đó không miễn cưỡng, mà tự nguyện – vì thương xót những ai được Người Tôi Trung quý mến. Kẻ được yêu đó là chính mỗi tội nhân ở mọi nơi, mọi thời.
Đau khổ đến tột cùng, nhưng Người Tôi Trung vẫn một lòng trung thành tín thác: “Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.” Ai cũng sợ khổ, chẳng ai muốn sầu, nhưng có đau khổ mới biết thương người khác. Người chưa đau khổ thì không thể hình dung ra đau khổ như thế nào. Người chưa bị tù thì không thể hiểu hết nỗi khổ của sự tù đày, không hiểu hết ý nghĩa của sự tự do.
Kinh Thánh nói về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu nhiều lần, nhưng có lẽ vẫn có chút gì đó “mơ hồ” nếu chưa xem phim “The Passion of The Christ” (Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu) của đạo diễn Mel Gibson, rất tinh tế. Xem cảnh quân lính đánh đập Chúa Giêsu rất dã man, khó có thể tưởng tượng. Hành hạ như thế mới là quân dữ!
Khi đau khổ, người kiêu ngạo thì nguyền rủa – nguyền rủa người khác, trách móc đất trời, vùng vẫy như con giun bị đạp; còn người khiêm nhường thì cam chịu, tủi thân, trách mình mà thôi: “Thân sâu bọ chứ người đâu phải, con bị đời mắng chửi dể duôi, thấy con ai cũng chê cười, lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa mai: Nó cậy Chúa, mặc Người cứu nó! Người có thương, giải gỡ đi nào!” (Tv 22:7-9) Buồn đến chết được. Họa vô đơn chí!
Chuỗi buồn nối tiếp chuỗi sầu. Nước mắt không chỉ mặn, mà còn chua cay. Cô đơn và lạc loài, nhưng đau khổ vẫn tiếp tục chồng chất: “Quanh con bầy chó đã bao chặt rồi. Bọn ác đó trong ngoài vây bủa, chúng đâm con thủng cả chân tay, xương con đếm được vắn dài; chúng đưa cặp mắt cứ hoài ngó xem. Áo mặc ngoài chúng đem chia chác, còn áo trong cũng bắt thăm luôn. Chúa là sức mạnh con nương, cứu mau, lạy Chúa, xin đừng đứng xa!” (Tv 22:17-20) Đó là Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa. Dù là Con Yêu Dấu nhưng Ngài vẫn phải chịu đau khổ đến tột cùng để làm trọn sứ vụ cứu độ chúng sinh. Chẳng có ai phải chịu đau khổ như Ngài. Nhân tính nơi Ngài cũng giằng co lắm, cả tinh thần và thể lý, phàm nhân không thể tưởng tượng được. Những người chịu đóng đinh trong lễ hội Cutud (Philippines) cũng chưa thấm vào đâu, chỉ là phần nhỏ so với Con Người Giêsu mà thôi!
Người Tôi Trung vẫn quyết vì Danh Chúa, mặc dù cô đơn, nhục nhã, đau khổ,... Một lần hứa là trọn trăm năm, trước sau như một, không gì có thể lay chuyển: “Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa cho anh em tất cả được hay, và trong đại hội dân Ngài, con xin dâng tiến một bài tán dương.” (Tv 22:23)
Tất cả là tự nguyện của Người Tôi Trung Đau Khổ: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2:6-8) Sự tự nguyện luôn cao cả, quý giá, đáng khâm phục, đáng noi gương. Dù là loại tình yêu nào thì cũng phải tiết ra “chất” hy sinh, nếu không có sự hy sinh thì không đáng gọi là tình yêu. Hy sinh cao nhất là “dám chết” vì người khác.
Nói về tình yêu, Chúa Giêsu xác định: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15:13) Chúa Giêsu nêu gương để chúng ta noi theo. Thánh Phaolô giải thích: “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Kitô là Chúa.” (Pl 2:9-11) Chỉ có Con Đường Giêsu mới dẫn tới Thiên Đàng đích thực.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con tự nguyện làm mọi sự vì yêu Ngài, thương người, cứu các linh hồn và đền tội. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen. mục lục
Thomas Aq. Trầm Thiên Thu
THIÊN CHÚA NHÂN TỪ và HAY THƯƠNG XÓT
Phúc Âm thuật lại rằng, trong ba năm rao giảng tại Galilê, Chúa Giêsu đã làm ơn làm phước, và giúp đỡ cho tất nhiều người:
• Ngài cho người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người ch ết sống lại… làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho năm ngàn người ăn, không kể đàn bà và trẻ con (Mt 11:5; 14:21).
• Ngài ban cho ông Giuđa quyền trừ quỷ, chữa bệnh, Ngài tin tưởng và giao cho ông nhiệm vụ làm thủ quỹ, quản lý tất cả tài chính của nhóm Mười Hai (Ga 13:29).
• Ngài lo lắng cho các ông từng miếng ăn giấc ngủ: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6:31).
• Ngài giao cho ông Phêrô một chức vụ rất cao trọng: “Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trờ i: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16:19).
Vậy mà khi Chúa Giêsu bị quân lính bắt thì “Các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hế t” (Mc 14:50); Phêrô thì thề rằng: “Tôi không biết người ấy [là ai cả]” (Mt 26:72); Giu-đa thì đã bán đứng Ngài: “Tôi nộp ông ấy cho quý vị, thì quý vị muố n cho tôi bao nhiêu… Họ quyết định cho hắn ba mươi đồng bạc” (Mt 26:14-15); còn dân chúng thì gào thét ầm ĩ: “Đóng đinh nó vào thập giá!” (Ga 19:6). Những người đã từng thọ ơn Chúa ở đâu cả rồi? Sao chẳng thấy ai đến bênh vực, hay ít ra đến để an ủi Ngài, nhưng lại để Ngài cô đơn, đau khổ và tủi nhục như vậy?
Bạn thân mến, qua các Bài Thương Khó của Chúa Nhật Lễ Lá và của thứ Sáu Tuần Thánh này, chúng ta sẽ thấy tất cả những bất công, đau khổ và những tủi nhục mà Đức Giêsu đã phải chịu vì t ội lỗi c ủa nhân loại, nhưng đồ ng thời chúng ta cũng sẽ nhận ra được dung mạo của một Thiên Chúa từ bi, hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân.
Thật vậy, trước những sự bội phản và bạc bẽo của dân chúng, c ủa các môn đệ, của những người mà Ngài đã yêu thương hết tình… Ngài không trách móc, không khinh thường, không ghét bỏ các môn đệ hèn nhát; Ngài cũng không lên án ông Phêrô, không kiếm cách trả thù những kẻ đã tra tấn, hành hạ, nhục mạ và đóng đinh Người cũng không lên án ông Phêrô, không nguyền rủa những kẻ đã tra tấn, hành hạ, nhục mạ và đóng đinh Người trên thập giá… nhưng Ngài đã cầu nguyện cho họ: “Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm" (Lc 23:34).
Đức Giêsu Kitô, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời (Dt 13:8). Ngài vẫn là Đấng nhân hậu và từ bi, là Đấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng (Mt 11:29). Ngài luôn rộng lòng tha thứ và sẵn sàng bỏ qua tất cả những tội lỗi của nhân loại: “Tội các ngươi, dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hoá trắng như bông” (Is 1:18).
Thật vậy, cho dù con người ta trong đó có bạn và có tôi nữa, có xúc phạm và làm tổn thương Ngài nặng nề, có trầm trọng, có kinh khủng mấy đi chăng nữa… chỉ cần chúng ta ăn năn sám hối, nhận ra lỗi lầm của mình và quay trở về thưa với Ngài giống như người con hoang đàng khi xưa: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa …” (Lc 15:21), thì Ngài lập tức tha thứ và ôm ấp chúng ta vào lòng từ ái của Ngài.
Bạn thân mến, nếu hôm nay, bạn nhận ra rằng Đức Giêsu Kitô là Đấng từ bi, nhân hậu, và bạn tin rằng Chúa không bao giờ chấp tội của chúng mình, Ngài sẵn sàng tha thứ tất cả mọi lỗi lầm thiếu sót của chúng ta, thì bạn và tôi hãy siêng năng chạy đến với Bí tích Hòa Giải. Bởi vì trong và qua Bí tích Hòa Giải, bạn và tôi sẽ cảm nghiệm được sự dịu dàng, nhân hậu và tha thứ của Thiên Chúa. Xin bạn cũng hãy cầu nguyện cho những anh chị em đang sống xa nhà Chúa, những người đang nghi ngờ hay đang bị mất niềm tin vào Chúa, nhất là cho các bạn trẻ.
Xin Chúa ban cho họ ơn khôn ngoan, để họ nhận ra rằng Thiên Chúa là Đấng rất nhân từ và vô cùng kiên nhẫn với những tội nhân “Cây lau bị giập, Người không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi” (Mt 12:20).
Và cũng cầu nguyện, xin Chúa ban cho họ ơn can đảm, để họ chạy đến với Bí tích Giải Tội, nhờ vậy họ sẽ được Chúa tha thứ và Ngài sẽ phục hồi sự bình an trong tâm hồn họ. Xin thành thật cảm ơn bạn, và cầu chúc bạn một Tuần Thánh thật bình an, mạnh khỏe và tràn đầy ơn thánh.
Và xin bạn nhớ thứ Sáu Tuần Thánh ăn chay và kiêng thịt nhé! mục lục
Lm. Đaminh Phạm Tĩnh, SDD
CUỘC KHỔ NẠN CỦA CHÚA KITÔ và HY VỌNG CỦA CHÚNG TA
Chúa Nhật Lễ Lá là ngày đầu tiên của Tuần Thánh, khởi đầu cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu Kito dẫn đến cái Chết của Chúa trên thập giá để cứu chuộc muôn dân. Và Chúa đã sống lại đem hy vọng cho loài người.
Cuộc Khổ Nạn, Cực Hình, Cái Chết và sự Phục Sinh của Chúa là những mấu chốt kết hợp tất cả chúng ta lại với nhau thành một Giáo Hội với những thần dân là những Kito hữu trong Tuần Thánh này.
Tin Mừng thánh Mác Cô hôm nay cho chúng ta thấy những ngày giờ cuối cùng đầy khổ nạn của chúa Giêsu nơi trần thế. Đây là câu chuyện với những tình tiết tương phản nhau, không thể không đánh động tâm trí chúng ta. Tuần Thánh là thời gian đặc biệt để chúng ta suy ngẫm nhiều điều thể hiện qua những biến cố đã xẩy ra cho chúa Giêsu. Chúng ta cũng khám phá ra không chỉ những đặc tính của những kẻ đã cố tình làm nhục rồi kết án và giết chết Chúa trước đây, mà cả những gì đang và sẽ giết Chúa. Cái vòng luân lưu giữa những thói hư tật xấu, khủng bố, bạo lực, tàn ác, hận thù, gian dối, oán ghét, nghi kỵ, ghen tương vẫn đang tiếp tục đóng đanh Chúa nơi những người anh chị em huynh đệ của mình, trong gia đình, ngoài cộng đồng, xã hội quê hương đất nước mình và cả nhân loại hiện nay.
ĐẶC THÙ CỦA VIỆC CHÚA CHÚA GIÊSU VÀO THÀNH: CHÚA CƯỠI LỪA
Theo Mac Cô (Mc 11: 1-10) thì cuộc vào thành Jerusalem của chúa Giêsu đã được làm cho bớt vẻ trọng thể đi nhiều. Theo thông lệ khách hành hương thường đi bộ vào Jerusalem, trừ vua chúa mới cưỡi súc vật, mà là những con vật oai phong như ngựa với đoàn rước đi theo để chứng tỏ mình là đấng quyền uy cao trọng. Chúa Giêsu thì khác hẳn, cũng cưỡi một con vật, nhưng không phải là ngựa quí hùng dũng oai phong mà chỉ là một con lừa con mà người ta dùng để chở đồ.
Chúa Giesu ngồi trên lưng lừa đi vào thành Jerusalem như một ông vua, nhưng không phải “để được phục vụ mà là để phục vụ” như con lừa chở đồ (Mat.20: 28). Nước của Người không phải nước ở trần thế, được tạo dựng bằng quyền lực oai phong hung dữ, mà vì lòng trắc ẩn thương yêu, đồng cảm và hết lòng xả thân phục vụ mọi người. Con lừa chính là hình ảnh mà tiên tri Zechariah đã nói trước đây cả 5 thế kỷ: “Hỡi con cái Zion! Hãy vui lên, hãy reo vang lên. Hỡi con cái Jerusalem! Trông kìa, Vua các người đang đến trong khải hoàn vinh quang nhưng khiêm tốn ngồi trên lưng lừa…”
Qua cách mô tả của Mac cô về cuộc khổ nạn của chúa Giêsu thì vẻ mặt Chúa Giêsu như buồn rầu lo lắng vì bị bạn bè và các môn đệ bỏ rơi. Chúa đã cam chịu. Chúa không thèm trả lời Giuda là kẻ phản bội Chúa, cũng như Philato khi ông ta chất vấn Chúa. Tổng trấn Philatô đã không cương quyết cứu Người với tư cách một quan Toàn Quyền, đại diện của La Mã, dù biết Chúa vô tội.
Thánh Mac Cô, qua toàn thể Tin Mừng, đã làm nổi bật sự thất bại cay đắng của các môn đệ là đã không an ủi nâng đỡ Chúa Giêsu, lại chẳng hiểu gì ý nghĩa những việc đang xẩy ra cho thầy mình. Một môn đệ trẻ lúc Chúa bị bắt, vì quá sợ hãi đã chạy trốn vào đêm tối không kịp mặc áo quần. Môn đệ này chính là hình ảnh các môn đệ, lúc khởi đầu đã bỏ gia đình bạn bè bà con để theo Chúa. Bây giờ gặp lúc nguy khốn thì bỏ mọi sự, bỏ cả Chúa để thoát thân.
Chúng ta thử nhớ lại những biến cố của Tuần Thánh đầu tiên này. Từ căn phòng Chúa ở đến vườn Giethsemane, từ phiên tòa Philato đến đồi Golgotha, từ thập tự giá đến ngôi mộ trống, Chúa Giêsu đã làm đảo lộn toàn thể thế giới. Người dạy cho chúng ta biết quyền lực thực sự chỉ thấy ở nơi nào có tinh thần phục vụ và lòng quảng đại đối với tha nhân; sự cao cả với lòng khiêm tốn; ước vọng yêu thương và công chính. Đó là những điều sẽ được Thiên Chúa chúc lành và khuyến khích.
CUỘC KHỔ NẠN CỦA CHÚA VÀ SỰ TRUNG THÀNH
Thánh Mac Cô kể rằng, lúc ấy chúa Giêsu đang ở làng Betania và đến thăm ông Simon bị bệnh cùi, một người đàn bà đến mang theo một bình bạch ngọc đựng đầy dầu thơm đắt tiền, đập bể bình rồi trịnh trọng đổ lên đầu Chúa (Mc 14: 3-9). Mùi thơm lan tỏa khắp nhà, mọi người lúc đó tỏ vẻ bất bình vì cử chỉ phung phí của bà này. Chúa Giêsu đọc được ý của họ, bèn nói đỡ cho bà ta là “bà đã biểu lộ một hành động trung thành và yêu thương thực sự”. Chúa Giêsu đã nói với họ rằng: “Bà này đã xức dầu lên người tôi để chuẩn bị cho ngày ướp xác” (Mc 14: 8). Vì lý do đó, chúa Giêsu đã hứa là “bất cứ nơi nào mà Tin Mừng được loan truyền đến thì câu chuyện này của bà cũng sẽ được kể lại để mọi người nhớ đến bà” (Mc 14: 9). Người đàn bà này, không kể Đức Maria mẹ Chúa Giêsu, sẽ là người duy nhất được tôn vinh cao cả.
Trong khi các đệ tử và tông đồ Chúa tỏ ra thất bại rõ ràng vì phản bội và bỏ chạy thì người đàn bà vô danh này đã chứng tỏ chí cương quyết, lòng quả cảm, yêu thương và trung thành. Một gương sáng đáng ghi nhớ! Mặc dù bà ta không hiểu rõ hoàn toàn ý nghĩa việc làm có tính ngôn sứ và biểu trưng của bà ta, cũng như thời điểm của hành động của bà, nhưng bà ta đơn giản chỉ ước muốn biểu lộ cho Chúa biết là bà ta thực sự quan tâm, để ý đến Chúa và yêu mến Chúa thật tình.
Đó phải chăng là điều mà mỗi người chúng ta được mời gọi để thực hành trong Tuần Thánh này một cách đặc biệt! Phải chăng là yêu Chúa Giêsu và chú ý đến Người xuyên suốt qua những biến động bi thảm cuối cùng của bản hòa tấu cuộc đời của Chúa nơi dương thế này, giữa tất cả những tổn thương, thất bại và bội phản của chính chúng ta trong cuộc sống! Cuộc sống của chúng ta phải giống như bình bạch ngọc đựng đầy dầu thơm quí giá của người đàn bà đã đổ ra tràn lan trên Chúa trong những giờ phút cuối cùng của đời Người nơi dương thế này.
LỜI KẾT: CHÚA CHẾT NHƯNG ĐEM HY VỌNG CHO CHÚNG TA.
Khi đi đường Thánh Giá, lúc kết thúc đoạn đường tại đấu trường Colosseum ở Rome vào đêm thứ Sáu Tuần Thánh năm 2000, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đã nói những lời rất cảm động nhưng đầy mãnh lực:
“Ai đây, nếu không phải là Đấng Cứu Thế đã bị kết án, có thể hiểu một cách đầy đủ và trọn vẹn nỗi đau khổ của những người bị kết tội một cách bất công?
“Ai đây, nếu không phải là Vua Trời Đất bị khinh miệt và nhục mạ, có thể đáp ứng được những chờ mong của biết bao nhiêu người cả nam lẫn nữ đang sống trong vô vọng và mất nhân phẩm?
“Ai đây, nếu không phải là Con Thiên Chúa, có thể biết được nỗi buồn rầu và cô đơn của biết bao nhiêu người không có tương lai đang sống rải rắc trên khắp mặt địa cầu?”
Đó là Đấng Cứu Thế, vị cứu chuộc nhân loại mà chúng ta đang có. Ngài là đấng thực sự thấu hiểu những điều kiện nhân tính của chúng ta. Ngài đồng hành cùng chúng ta và chia sẻ, cảm thông với chúng ta những sầu muộn, cô đơn và khổ đau của chúng ta. Chúng ta đã đáp trả lại loại tình yêu lạ lùng ấy và tình liên đới hiệp nhất thực sự ấy như thế nào? Chúa Nhật Lễ Lá là ngày mở đầu Tuần Thánh Chúa Chịu Nạn, mời gọi chúng ta chấp nhận điều mà thánh Phao Lồ gọi là “Thái Độ của Chúa Giêsu Kitô” (Pl 2: 6-11) trong khi Chúa chịu nạn và chịu chết. Hãy trút bỏ mọi ưóc muốn tư lợi và ích kỷ, mọi sợ hãi và nhu cầu riêng tư của mình vì lợi ích của tha nhân….
Chớ gì chúng ta có thể vươn tới để hàn gắn những vết thương của những kẻ đau khổ, an ủi những kẻ thất vọng ở quanh ta mặc dù bản thân chúng ta là những kẻ phản bội và chối từ Chúa.
Trong lúc những nghi lễ phụng vụ của Tuần Thánh diễn ra thật cảm động thì chúng ta có được những ân sủng đặc biệt để tiếp tục sống với niềm vui và hy vọng, mặc dù bị phụ rẫy, xỉ nhục và đau khổ. Trong chiều hướng đó, cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu sẽ trở thành lý do để chúng ta Hy Vọng và có những giây phút tràn đầy hồng ân khi chúng ta đi tìm kiếm Nước Chúa trong đời sống chúng ta, cho dù sự tìm kiếm đó đơn độc và đau thương.
Tuần Thánh quả là một nguồn an ủi và một xác tín rằng chúng ta không phải là những kẻ cô đơn. Chúa đã cứu chúng ta và hàng ngày đang đồng hành với chúng ta. Chúa đã đem lại hy vọng cho chúng ta. Chúa đã chết để cho chúng ta được sống. mục lục
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD
Cuộc kiệu lá mở màn cho Tuần thánh, tuần đầy đặc các cử hành nhất và là tuần mãnh liệt nhất bởi tất cả những gì nó giúp chúng ta sống lại. Không những sống lại theo nghĩa nhớ lại: “kỷ niệm”. Đó còn là đi vào trong chính các biến cố như chúng đã xảy ra tại Giê-ru-sa-lem, để nhận được các ơn sự sống mà chúng chất chứa lưu giữ. Tuần thánh là thời gian tiêu biểu nhất của việc tiếp xúc mầu nhiệm với các biến cố cứu rỗi chúng ta như thế, những biến cố làm nên “phụng vụ” và “bí tích” của chúng ta.
Chúng ta sẽ ở trong đoàn lũ đi đón Đức Giê-su ngồi trên lưng lừa và la lớn: “Hoan hô!”. Chúng ta sẽ có mặt tại nhà Tiệc ly, trong cuộc Khổ nạn và cuộc Sống lại. Suốt tuần này, sẽ có nhiều sốt sắng và nhiều xúc cảm vì phụng vụ rất đẹp, rất bi thảm. Nhưng cái cần đánh thức nhất sáng ngày Lễ Lá, đó là đức tin của chúng ta. Chỉ đức tin mới có thể nắm bắt thực tại mà phụng vụ biểu dương cử hành.
Mầu nhiệm của Đức Giê-su và mầu nhiệm của mọi cuộc sống Ki-tô hữu xuất hiện như một sự pha trộn thường xuyên giữa vinh quang và khiêm hèn. Chính thánh Gio-an là người diễn tả Vinh quang hay hơn hết, thế nhưng bài Thương khó của ông mở đầu bằng việc Đức Giê-su hết sức khiêm tốn rửa chân cho môn đệ. Trong một đoạn ngắn nhanh như chớp, thánh Phao-lô đã trình bày quỹ đạo của mầu nhiệm Đức Giê-su và tất cả những gì mà Tuần thánh sắp giúp chúng ta sống như thế này: ”Đức Giê-su Ki-tô, bản thân vốn là Thiên Chúa, đã trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân tôi đòi... Người đã hạ mình xuống, vâng lời cho đến nỗi phải chết, mà chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên mọi danh hiệu” (Pl 2,6-9).
Như hai tác giả Nhất lãm kia, qua cách trình bày sống động quen thuộc với mình, trong trình thuật Khải hoàn vào Giê-ru-sa-lem, Mác-cô đã ghi nhận sự pha lẫn giữa vĩ đại và khiêm hèn ấy mà chúng ta phải không ngớt suy niệm để biết Đức Giê-su và để làm Ki-tô hữu.
Trước hết, như một nhà thấu thị và một ông chủ, Đức Giê-su bảo hai môn đệ: ”Các anh đi vào làng... sẽ thấy ngay một con lừa chưa ai cưỡi bao giờ, đang cột sẵn đó. Các anh cởi dây ra và đem nó về đây... ai hỏi thì nói là Chúa cần dùng”. Rồi bừng lên lời sấm vĩ đại: ”Triều đại vua Đa-vít, tổ phụ chúng ta đang tới”. Đây đúng là giờ của Đấng Mê-si-a-Quân vương, các tiếng Ho-san-na (hoan hô) sắp vang dội, với kiểu nói rất đặc thù: ”Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa!” Giờ đây, Đức Giê-su có thể chấp nhận được tung hô như Đấng Mê-si-a: cái Người sắp sống trong đau khổ và trong vinh quang, cuộc Tử nạn và Phục sinh của Người, sẽ mạc khải (song chỉ với đức tin!) Người là Đấng Mê-si-a nào và mang đến ơn cứu rỗi nào.
Nhưng trước khi nói đến uy quyền Chúa tể như thế, Mác-cô đã đề cập tới thái độ khiêm tốn rồi: ”Hai ông đem con lừa về cho Đức Giê-su, rồi lấy áo choàng của mình trải lên lưng nó, và Đức Giê-su cỡi lên”. Không một tướng lãnh chiến thắng nào thời ấy đã nghĩ tới chuyện như vậy, nhưng Đức Ki-tô của ngày Lễ Lá sẽ thế nào nếu diễu hành trên một chiến mã? Con lừa dễ giúp chúng ta hơn trong việc đi vào các tư tưởng khó khăn: Đức Giê-su Ki-tô vừa thần linh vừa khiêm hạ, vừa là quân vương vừa là tôi tớ, Người lôi chúng ta trên nhiều con đường vĩ đại và đơn hèn. Ai chỉ nắm một trong hai điểm đó thì khó đi vào Tuần thánh và đi vào cuộc sống môn đệ. Đứng đằng sau Đức Ki-tô, chúng ta chẳng phải là không ra gì, nhưng chút kiêu căng nhỏ nhất cũng làm chúng ta hư hỏng. Đức Vua chúng ta có đó, trên một con lừa ; Người khiêm tốn và hiền lành, sung sướng được bao quanh bởi những cận thần là các ngư phủ hèn mọn, sung sướng được bước đi trên tấm thảm của những người nghèo và trong tiếng hô của đàn trẻ mà Người luôn ưu ái. Hỡi kẻ giàu, anh không bị xua đuổi đâu, nhưng nếu đến dự Lễ Lá, anh hãy mang theo một trái tim khiêm hèn.
Vậy là giữa lòng cuộc khải hoàn, chúng ta vẫn được nhắc nhở về sự khiêm tốn của Ngôi Lời nhập thể. Rồi chúng ta sẽ xuống tận đáy ô nhục: một kẻ bị kết án thập giá. Để cuối cùng lên lại đỉnh cao với thánh Gio-an: ”Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20,28)
CUỘC KHỔ NẠN CỦA ĐỨC GIÊ-SU
Chúng ta sắp nghe lại và đọc lại các trình thuật về cuộc Khổ nạn, đó là cách suy niệm hay nhất trong các ngày Tuần thánh. Chúng ta có 4 trình thuật, chúng ta có thể nuôi dưỡng đức tin và tình yêu mình với những bài chiêm niệm khác nhau: Mát-thêu (năm A), Mác-cô (năm B), Lu-ca (năm C), Gio-an cho ngày Thứ Sáu thánh mỗi năm. Dĩ nhiên, chúng ta biết rõ câu chuyện khủng khiếp này, và mỗi lần như thế, trái tim chúng ta lại thổn thức. Đức Giê-su đã đau khổ đến vậy sao? Nhưng trong mối thương cảm này, nhiều câu hỏi vẫn len vào, khó gạt ra nổi. Tại sao phải cần những đau khổ và cái chết ấy? Chúng cứu ta cách nào?
Chúng cứu ta, chẳng phải với danh nghĩa đau khổ và cái chết, nhưng vì chúng là mức cùng của cả một cuộc sống can đảm và yêu thương. Việc Đức Giê-su chiến đấu để cho biết tình yêu Thiên Chúa và để thiết lập một nền công lý tình yêu đích thực giữa nhân loại đã khiến các thủ lãnh tôn giáo và rốt cục cả toàn dân đứng lên chống lại Người.
Trên cây gỗ, Đức Giê-su cho ta thấy thế nào là yêu thương bằng mọi giá và đến tột độ. Người đã không sinh ra để đau khổ, nhưng là để yêu thương và dạy chúng ta yêu thương. Sứ mạng này dẫn đã Người đến đau khổ, nhưng thập giá chẳng phải là trường dạy đau khổ mà là trường dạy yêu thương.
Đức Giê-su dạy ta những gì trong cuộc Khổ nạn? Dạy rằng tình yêu của Người mạnh mẽ lẫn tự do, và ta chớ nên ở quá xa Người trên con đường này. Trước những lời mời gọi yêu thương, ta thường quá để mình bị kiêu căng phong tỏa và sợ hãi làm tê liệt, vẫn cứ đui điếc do mãi nghĩ tới chính mình. Đức Giê-su thì đã có thể nghe hết mọi lời mời gọi vì đã chẳng bao giờ màng đến lợi ích riêng. Người đã chẳng thối lui trước khó khăn yêu thương nào, trước thái độ bất thông cảm nào, trước mối đe dọa nào. Người đã thấy hận thù dâng cao mà vẫn tiếp tục tiến tới. Làm sao không xấu hổ về các kiểu tránh né của ta? Trên thập giá, Người đã nói với ta rằng sức mạnh lớn lao nhất của một con người, đó là có thể yêu thương.
Nhưng nếu các khó khăn yêu thương (cũng như các niềm vui yêu thương!) đối với ta không xa lạ gì, ta vẫn chưa biết sinh lực của tình yêu mấy. Trong cái chết của Đức Giê-su, sinh lực này lớn đến độ đã bùng vỡ thành sống lại. Nó mở ra một thế giới mới trong đó từ nay sẽ xảy ra chuyện phi thường mỗi khi có một con người muốn yêu và có thể yêu như Đức Ki-tô.
Thường ta không nghĩ đủ tới tất cả những gì mà cuộc Khổ nạn đã khiến và còn khiến ta có thể làm được. Ta quá sa đà trong những chiêm niệm kiểu ái khổ bằng cách phân tích chi tiết các đau khổ của Đức Giê-su đến cực độ đang khi đáng lẽ phải thấm đẫm tình yêu và sự can đảm của Người. Đây không phải là nơi rên rỉ thương xót Đức Giê-su lẫn chính mình, mà là nơi nghe tiếng gọi hãy anh hùng và sáng suốt: tình yêu phải trả giá như thế đó, nhưng trong đau khổ ấy, nó giải phóng biết bao sinh lực!
Còn lại việc thử sống những gì óc sáng suốt của ta đã khám phá. Một cuộc hẹn gặp với Đức Giê-su trên thập giá vẫn vô ích nếu không đi đến những kinh nghiệm đức tin vào Người như Đấng Cứu thế. Nếu tin rằng các đau khổ của Người đã ban cho ta mãnh lực sống tất cả, thì hãy đi đến thập giá để mang tại đấy một sự bất lực, để giật tại đấy một chiến thắng. “Lạy Chúa Giê-su, Chúa thấy đó, Chúa đã chẳng chết vô ích tí nào.”
Bị Bỏ Rơi Và Kêu Lớn Tiếng
- Bài Thương khó theo thánh Mác-cô là bài Thương khó của Kẻ bị bỏ rơi. Đức Giê-su bị bỏ rơi bởi tất cả mọi người: đám đông hân hoan ngày rước Lá, các môn đệ, thậm chí cả Phê-rô, thậm chí cả Chúa Cha nữa.
Chưa bao giờ Đức Giê-su cảm thấy không được hiểu và phải cô đơn đến thế. Người bị phó mặc cho bọn lính hung hãn (Con Thiên Chúa bị tát tai, khạc nhổ vào mặt!) và bị các thủ lãnh tôn giáo coi như tội phạm. Người xuống tận đáy nỗi cô đơn của con người. Đã từng nói, đã từng đến để nói với chúng ta, nay Người im lặng. Hai ghi nhận của Mác-cô thật là thống thiết: “Ông không đáp lại một lời sao?” (Mc 14,60), viên thượng tế hỏi. “Ông không trả lời gì sao?” (Mc 15,4), Phi-la-tô nói.
Đức Giê-su im lặng. Có nhiều lúc Người chẳng còn gì để nói, chẳng còn gì để nói với chúng ta. Người đã cho thấy mình là ai, đã cho thấy con đường ta có thể bước lên để theo Người. Nếu chúng ta không theo Người, thì Người có thể nói với chúng ta điều gì nữa? “Chúa không trả lời gì con sao?” - ”Không! Con đã đi quá xa quá rồi. Người ta chỉ gần Thầy nhờ những hành vi yêu thương và can đảm.”
Nếu chúng ta chỉ theo Đức Giê-su bằng cách kính cẩn nghe các lời của Người hay hùng hồn rao giảng các lời đó, mà chẳng đem ra thực hiện, thì chúng ta thuộc số những kẻ bỏ rơi Người. Một sự thật phũ phàng mà chúng ta từ chối đối diện. Việc suy niệm cuộc Khổ nạn này phải đặt chúng ta lại trước đòi hỏi căn bản của Tin Mừng: ta chỉ “theo” Đức Giê-su khi làm những gì Người đòi hỏi.
- Bài Thương khó về những sự bỏ rơi và sự thinh lặng đáng sợ của Đức Giê-su như thế cũng là bài Thương khó về ba tiếng kêu.
“Ông có phải là Đấng Ki-tô, Con của Đấng Đáng Chúc Tụng không?” – “Phải, chính thế” Đức Giê-su la lên, bẻ gẫy bí mật về Mê-si-a tính của Người và về vinh quang của Người. Bị trói, bị hạ nhục, rốt cục Người bộc lộ sự phi thường: “Các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến” (Mc 14,61-62). Nơi ấy và trước các tư tế ấy, điều này chỉ có thể được coi như một lời phạm thượng. Nhưng chúng ta thì sao? Lúc ấy, chúng ta nhìn Người với niềm tin nào?
Đức Giê-su kêu to trên thập giá niềm tin tưởng của Người: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con”, chính khi chiến đấu với cảm thức bị bỏ rơi khủng khiếp hơn cả: “Sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 15,34). Đây là lời quý giá Người ban cho những ai rơi xuống những vực thẳm như vậy. Nếu đã không đi xuống tận đó, thì làm sao Người là Em-ma-nu-en đã được hứa, vị Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta? Lạy Chúa Giê-su, cùng với Chúa, con có thể kêu lên là đã bị bỏ rơi; nhưng cùng với Chúa, con cũng muốn nói “Lạy Thiên Chúa của con” nơi đâu con tưởng không còn có thể nói thế được nữa.
Tiếng kêu thứ ba trong cuộc Khổ nạn này là tiếng kêu mà Mác-cô lôi chúng ta đến nghe ngay tự đầu Tin Mừng của ông. Nói “Ngài là Con Thiên Chúa!” không phải với con người làm mê mẩn quần chúng, con người biến hình vinh hiển, nhưng là với kẻ bị đóng đinh thập giá này. Người đã chết cách sao đó khiến viên bách quản đã phải thốt lên: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa”. Chính mỗi độc giả của Tin Mừng phải nói điều đó cuối bài Thương khó này. Nhưng một lần nữa, nói lên điều đó cũng vô ích nếu việc ấy chẳng biến đổi chúng ta gì cả. (André Sève)
Trong một trại tập trung Đức Quốc xã Thế chiến Thứ hai, có giam giữ nhiều tù nhân Do-thái. Hôm nọ, vì vi phạm một lỗi nhỏ, một tù nhân Do-thái đã bị tra tấn và rồi bị treo cổ trước mắt các bạn đồng tù của mình, trong sân tập họp của trại. Đang lúc ai nấy kinh hoàng chứng kiến cảnh tượng thê thảm và tàn bạo đó, thì từ giữa đám tù nhân, vang lên một tiếng kêu lớn vừa chua xót vừa phẫn nộ: “Lạy Thiên Chúa Gia-vê, Ngài ở đâu, sao chẳng ra tay cứu kẻ bất hạnh này?” Ai nấy chưa kịp nhận ra kẻ đã thốt lên câu đó, thì đã vang lên một giọng nói khác trả lời: “Thiên Chúa đang quằn quại trên giá treo cổ trước mắt chúng ta!” mục lục
Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
Mỗi lần Chúa Nhật Lễ Lá mở đầu Tuần Thánh, Giáo Hội lại cho đọc những trình thuật về cuộc khải hoàn của Chúa Giêsu vào Thành Thánh Giêrusalem. Gọi là cuộc khải hoàn, nhưng đúng hơn, đây là hình ảnh của việc chiếm ngự tâm linh mà Chúa Giêsu sẽ thực hiện khi ngài chịu chết để cứu chuộc nhân loại. Một hình ảnh của cuộc chiến thắng tinh thần. Cả người chiến thắng và những người tham dự vào cuộc chiến thắng này rất đơn sơ, khiêm tốn, hiền lành, và nhẫn nhục.
Trong cuộc khải hoàn ấy không thấy bóng dáng những nhân vật quan trọng đạo, đời. Không có những diễn văn hùng hồn. Không có những màn trình diễn, duyệt binh rầm rộ với các chiến mã hay đoàn xe hộ tống. Phương tiện duy nhất được dùng là một con lừa con. Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ ngài: “Các anh hãy đến làng trước mặt kia, vừa vào làng, các anh sẽ gặp con lừa con cột sẵn đó chưa ai cỡi bao giờ, các con hãy mở dây mà dẫn về.” (Luca 19:30). Nhưng tại sao lại là con lừa con?
Hồi còn nhỏ, mỗi lần phá phách, nghịch ngợm mà mẹ bảo không nghe thì thường được nghe câu nói: “Mày là con lừa. Nhẹ không ưa, ưa nặng”. Có nghĩa là bảo nhẹ mà không nghe, liệu muốn bị đánh đòn không đây?! Con lừa ưa nặng. Như vậy là bản tính của nó hay tự nó muốn nặng. Có lẽ là do bản tính của nó hơn là nó muốn nặng. Do bản tính “ưa nặng” nên nó còn là con vật im lặng, chịu đựng và nhẫn nại. Không ồn ào, không xông xáo, và cũng không hiếu chiến. Một con vật như vậy được dùng để tượng trưng cho sự nhẫn nhục, chịu đựng và hiền hòa của người đang cỡi trên lưng nó, và đoàn người đi theo người đó là một điều hết sức ý nghĩa.
Người ngồi trên lưng lừa:
Chúa Giêsu, đấng đang tiến vào Giêrusalem hôm nay với những tiếng tung hô tưng bừng, và niềm vui hớn hở của những kẻ theo ngài: “Hoan hô Con vua Đavít, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô Chúa trên các tầng trời”, cũng chính là đấng mà ít ngày sau giống như con lừa, vừa hiền từ, câm nín, và vừa chịu đựng.
Hình ảnh của Chúa Giêsu trong những ngày thuộc Tuần Thương Khó ngập tràn những nét tiều tụy, đau thương, và thống khổ.
Quang cảnh ở vườn Giệtsimani bị các môn đệ bỏ rơi vì mê ngủ, bị Giuđa phản bội trao nộp, bị dẫn đến dinh thượng tế và dinh tổng trấn để bị tra khảo. Bị chế nhạo bởi Hêrôđê. Và bị kết án bất công bởi Philatô. Nhất là sau cuộc tra tấn dã man ở dinh tổng trấn, vai vác thập giá lên Núi Sọ, và chịu đóng đanh ở đó. Sau cùng còn bị chính Chúa Cha từ bỏ: “Eli, Eli, lema sabachthani?” - Lạy Chúa Trời tôi. Lạy Chúa Trời tôi, sao nỡ bỏ tôi - (Mat 27:46).
Ðến đây chúng ta mới thấy rằng tại sao Chúa Giêsu không dùng ngựa. Chúa ngồi trên một con chiến mã trông sẽ oai phong, lẫm liệt, và giống ông vua hơn. Nhưng có lẽ đấy cũng là điều mà ngài muốn chúng ta cần phải suy niệm khi muốn tìm gặp một hình ảnh trung thực của ngài trong Tuần Thánh cũng như trong đời thường.
Chúng ta sẽ không thấy ngài xuất hiện vẻ vang, oai phong, và lẫm liệt. Thay vào đó là hình ảnh một Giêsu bị đánh đòn, bị nhục mạ, đầu đội mão gai, và bị kết án. Một Giêsu vai vác thập giá lảo đảo trên đường lên Calve để chịu đóng đinh, và chịu chết! Hình ảnh ấy cũng được nhìn thấy qua những kẻ nghèo khổ, bệnh tật, bị trù dập và bị hất hủi. Những hình ảnh mà qua cặp mắt đức tin, chúng ta khám phá ra ngài. Ngài muốn chinh phục chúng ta bằng tình yêu, bằng lòng nhân từ, và bằng sự khiêm tốn. Ngài không chiếm đoạt, không chinh phục lòng tin của con người bằng những vẻ huy hoàng và quyền lực, nhưng bằng một nội tâm nhân hậu và hiền lành. Khi con lừa được dùng thay cho con ngựa, điều này có nghĩa là Chúa Giêsu muốn làm trọn lời Thánh Kinh trong Cựu Ước: “Hãy nói với thiếu nữ Sion, này đây vua các người đến, nhẹ nhàng cỡi trên lưng lừa, là lừa con, con của lừa mẹ” (Mátthêu 21:5; Zechariah 9:9).
Người theo đón tiếp:
Đọc kỹ những trình thuật về cuộc khải hoàn của Chúa Giêsu vào Giêrusalem, chúng ta không thấy bộ mặt lớn nào trong giới chính quyền và giáo quyền xuất hiện để tiếp đón ngài hôm đó. Ngược lại, chỉ có những người đơn sơ, tầm thường và con nít. Nhưng khi ngài bị bắt, bị trao nộp, thì những bộ mặt lớn ấy lại xuất hiện. Thượng tế Anna và Caipha, vua Hêrôđê, tổng trấn Philatô. Điều này có nghĩa là những kẻ nhận ra Chúa, theo Chúa, đón tiếp Chúa, và thực sự là thế, là những kẻ khiêm nhường, bé mọn, và đơn sơ. Ngược lại, những kẻ quyền thế, cao sang, đại diện cho thế giới tội lỗi, kiêu căng, thù hận, thế giới vật chất và phù phiếm, những người này không nhận ra Chúa, không theo Chúa, và không đón tiếp Chúa. Ngược lại, họ lại đang sẵn sàng chờ đợi, để khi có dịp là ra mặt trấn át, bắt bớ và thủ tiêu ngài.
Do đó, Chúa không muốn chúng ta tìm Ngài giữa những ồn ào, huyên náo, giữa những rừng cờ phất phới, giữa những tiếng nhạc quân hành, những vó ngựa reo vang, và những đoàn quân chiến thắng. Ngài không ở giữa khuôn mặt vênh váo và tự đắc vì chiến thắng. Ngài muốn chúng ta tìm Ngài giữa những cảnh sống đơn sơ, nghèo hèn, hoặc bị bắt bớ, tù đày và ức hiếp. Ngài muốn chúng ta tìm ra Ngài qua những anh chị em nghèo, túng, thiếu ăn, thiếu mặc, bệnh tật và lam lũ. Những người mà khi chúng ta làm những việc như cho một bát nước, một chén cơm, một manh áo, hoặc những lần chúng ta nở một nụ cười chào thăm, là chúng ta làm cho chính Chúa: “Ta bảo thật, khi các ngươi làm những việc ấy cho một trong những anh em hèn mọn nhất của ta là làm cho chính ta” (Mt 25:40).
Con lừa cho Chúa dùng:
Lừa được nhắc tới hơn 140 lần, và khiến nó trở thành con vật được nói đến nhiều nhất trong Thánh Kinh. Nó thường xuyên được dùng tượng trưng cho sự khiêm tốn, hòa bình, và phục vụ. Theo truyền thống, ít nhất nó cũng được dùng trong cuộc hành trình về Belem của Thánh Giuse và Ðức Mẹ. Nó được nằm kề bên máng cỏ trong đêm Chúa Giáng Trần để cùng với đoàn vật hà hơi ấm cho Chúa Hài Nhi giữa đêm trường lạnh giá. Và hôm nay, nó lại được Chúa dùng để vào Thành Thánh Giêrusalem. Nhưng ở bất cứ hoàn cảnh nào, nó vẫn là con vật nhẫn nhục, chịu đựng, và không ồn ào.
Do đó, hình ảnh của nó cũng được dùng để so sánh về thái độ chấp nhận và hy hiến của Chúa Giêsu từ khi ngài cỡi lên mình nó, cho đến lúc ngài tắt thở trên thập giá. Đó cũng chính là hình ảnh mà tôi cần phải đem ra áp dụng trong đời sống tâm linh của mình. Tôi phải khiêm tốn, đơn sơ, nhẫn nhục, chịu đựng, và sẵn sàng để Chúa dùng. Vậy liệu tôi có thể là con lừa để ngài cỡi và để tôi đem ngài đến với bất cứ ai, bất cứ đâu mà ngài muốn không?! mục lục
Trần Mỹ Duyệt
(Suy niệm Mc 11.1-10)
Trầm Thiên Thu
HOAN HÔ ĐẤNG NHÂN DANH CHÚA!!!
(Th. K. Dominic)
Xem đính kèm : tại đây.
Với mục đích để Lời Chúa được loan truyền và thông tin Giáo hội được lan tỏa, Legio Mariæ sẵn lòng để các tổ chức và cá nhân sử dụng lại tin bài đã đăng trên báo giấy và báo mạng legiomariævn.com của mình.
Tuy nhiên, vì đức công bằng và sự bác ái, xin quý vị vui lòng ghi đầy đủ nguồn như sau: “Theo Đạo Binh Đức Mẹ, website: legiomariævn.com”.
Ngoài ra, nếu chia sẻ bài lên mạng xã hội (Facebook, Twitter…), đề nghị dùng đường dẫn gốc trên website của Đạo Binh Đức Mẹ.