SUY NIỆM CHÚA NHẬT 25 THƯỜNG NIÊN_B

20-09-2024 193 lượt xem

Lời Chúa: Kn 2,12.17-20; Gc 3,16-4,3; Mc 9,30-37

Click vào mục lục

CAN ĐẢM NÓI và SỐNG LỜI CHÚA – + ĐGM Phêrô Nguyễn Văn Khảm

HỌC HỎI PHÚC ÂM – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

KẺ THÙ LỚN NHẤT – + ĐTGM. Giu-se Vũ Văn Thiên

SỨ MẠNG CỦA MÔN ĐỆ LÀ PHỤC VỤ – Lm. Yuse Mai Văn Thịnh, DCCT

CHÚA GIÊSU ĐÃ XUỐNG VỊ TRÍ RỐT HẾT – Phêrô Phạm Văn Trung.

QUA THẬP GIÁ ĐẾN VINH QUANG – Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

NGƯỜI MÔN ĐỆ MẪU – Jorathe Nắng Tím

KẺ THEO ĐẤNG LÀM ĐẦU – Lm. Phêrô Phan Văn Lợi

LIÊN ĐỚI TÂM LINH – Thomas Aq. Trầm Thiên Thu

CAN ĐẢM NÓI và SỐNG LỜI CHÚA

“Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại” (Mc 9,31).

Thưa anh chị em, chúng ta nghe lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ về cuộc thương khó của Ngài. Khi nghe lời loan báo về cuộc thương khó này, một câu hỏi mà anh chị em và tôi có thể đặt ra: Tại sao Chúa Giêsu tốt lành, thánh thiện, đi đến đâu Ngài cũng gieo rắc những điều tốt lành cho người ta, vậy mà lại bị bắt bớ và giết chết?

Nếu chúng ta để ý thì câu trả lời nằm ngay ở trong bài đọc thứ nhất (x. Kn 2,12.17-20). Ở câu 12, chúng ta thấy những kẻ gian ác nói với nhau rằng: “Ta hãy gài bẫy hại tên công chính, vì nó chỉ làm vướng chân ta, nó chống lại các việc ta làm, trách ta vi phạm lề luật, và tố cáo ta không tuân hành lễ giáo”. Hóa ra, người công chính bị hại là bởi vì đối với những kẻ gian ác họ thấy ngứa mắt, thấy bực bội khó chịu, giống như là đang đau mắt mà bị một luồng ánh sáng chiếu vào.

Để diễn tả cụ thể hơn, anh chị em nhớ lại câu chuyện của Thánh Gioan Tẩy giả. Mỗi năm vào dịp lễ Giáng sinh, chúng ta nghe Thánh Luca kể chuyện Chúa Giêsu được sinh ra ở Bêlem dưới thời của vua Hêrôđê đại đế. Ông có tới mấy người con trai, và sau này là ông chia phần cho mỗi người con coi sóc một phần lãnh thổ, trong đó cũng có một người con tên là Hêrôđê Antipas. Hêrôđê Antipas có một người anh trai tên là Philíp. Hêrôđê Antipas này thấy vợ của anh mình xinh đẹp, mà bà vợ của ông anh thì cũng lại đồng tình với ông này. Thành thử ra, hai người toa rập với nhau, rồi thì Hêrôđê Antipas quyết định cướp vợ của anh mình. Thánh Gioan Tẩy giả bảo không được làm như thế. Kết quả là ngài bị cho vào tù luôn. Và đến một ngày thuận tiện, Hêrôđê Antipas ra lệnh chém đầu thánh Gioan Tẩy giả (x. Mc 6:17-29).

Đấy là một minh họa rất cụ thể người công chính bị sát hại, bởi vì đối với kẻ gian ác, họ thấy chướng mắt họ, ngăn cản họ, và nếu chúng ta đọc Kinh Thánh thì sẽ thấy không chỉ có một chuyện đâu, mà nhiều chuyện tương tự như thế, và cũng không chỉ trong Kinh Thánh, mà lịch sử của Giáo hội và trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta vẫn gặp đi, gặp lại những trường hợp như vậy. Chẳng hạn như trong lịch sử của Giáo hội mà anh chị em nghe đến ông vua Henry VIII. Ông ấy cũng là Công giáo! Bà vợ của ông ấy làm sao đó, hoặc là không sinh con cho ông ấy được, thế là ông muốn cưới một người vợ khác, nên làm đơn xin phép Đức giáo hoàng. Đức giáo hoàng không cho. Ông quyết định không theo Công giáo nữa và lập Anh giáo riêng, mà khi đó có những vị quan lớn ở trong triều ngăn cản, không những không được mà bị cho vào tù luôn. Thế cho nên, những chuyện đó đó nó là cái minh họa rất cụ thể để giúp cho chúng ta hiểu Lời Chúa ngày hôm nay.

Vậy thì thưa anh chị em, tôi nghĩ có hai câu hỏi mà cho chính chúng ta khi đọc lời Chúa hôm nay có thể tự chất vấn mình.

Câu hỏi thứ nhất đó là: Có bao giờ anh chị em và tôi muốn sống thoải mái trong tội lỗi, và vì thế chúng ta gạt bỏ lời Chúa ra bên ngoài giống như ngày xưa người ta gạt bỏ Chúa Giêsu, thì bây giờ chúng ta gạt bỏ lời Chúa ra bên ngoài, để mình có thể sống thoải mái trong tội lỗi của mình?

Thánh Augustinô, như anh chị em biết, lúc còn trẻ ông cũng bê bối lắm, có bà mẹ là Thánh Monica lúc nào cũng ở bên cạnh để mà khuyên can, nhắc nhở. Ông khó chịu lắm! Lúc đó hai mẹ con đang ở bên châu Phi. Rồi Augustinô quyết định đi Italia ở thành phố Milano để lập nghiệp. Mẹ Monica cũng muốn đi theo, ông đành phải chiều thôi. Đưa mẹ ra tận bến cảng ban đêm, lúc bà đang thiếp ngủ, ông trốn mất. Monica thức dậy không thấy con trai đâu nữa, vì ông muốn sống thoải mái theo theo đam mê của mình, đành gạt mẹ sang một bên, không muốn bà mẹ ở bên cạnh để mà nhắc nhở khuyên can gì cả. Chúng ta cũng có thể những lúc như thế. Mình sống trong tội lỗi, mình biết rõ như vậy nhưng không bỏ được cái tội đó, cho nên mình muốn gạt bỏ lời Chúa. Tôi không muốn đến nhà thờ để khỏi phải nghe giảng. Tôi không muốn gặp ông Linh mục nào đó để khỏi phải nghe khuyên bảo này nọ, có khi tôi còn đặt vấn đề về nội dung Đức tin, nó đúng hay sai. Sâu xa là để tôi biện hộ cho cái đam mê xấu của mình, cái câu hỏi đó chúng ta có thể đặt ra cho chính mình.

Câu hỏi thứ hai đó là theo gương của Chúa Giêsu và các Thánh, anh chị em và tôi có can đảm để mà sống theo lời Chúa, nói lời Chúa cho dù mình phải chịu thiệt thòi không?

Chúng ta đọc ở trong Kinh Tám Mối Phúc, những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ. Mình có dám chấp nhận bị thiệt thòi, chứ đừng có nói gì bị bắt bớ, hay là bị bách hại, vì mình can đảm sống theo lời Chúa không? Đấy cũng là một câu hỏi rất quyết liệt cho chúng ta, thưa anh chị em.

Tôi gợi một vài ý suy niệm văn tắt như thế để tất cả chúng ta cùng cầu nguyện cho nhau. Chúa biết là chúng ta yếu đuối. Xin Chúa thêm sức cho chúng ta để có sự can đảm nội tâm, sự can đảm từ phía bên trong để dám sống trung thành với lời Chúa, cho dù có thể vì vậy mà chúng ta phải chấp nhận những thiệt thòi trong đời sống. Nhờ vậy, một cách nào đó, chúng ta góp phần để làm chứng cho chân lý của Tin mừng mà Chúa mời gọi chúng ta. Amen.

+ ĐGM Phêrô Nguyễn Văn Khảm

HỌC HỎI PHÚC ÂM (Mc 9,30-37)

CÂU HỎI TÌM HIỂU

1. Đọc ba đoạn sau đây: Mc 8,31-38; 9,30-50; 10,32-45. Hãy cho biết ba đoạn này có gì giống nhau về hình thức (nghĩa là về cấu trúc hay dàn bài).

2. Trong Tin Mừng Mác-cô, Đức Giêsu ba lần loan báo cuộc khổ nạn và phục sinh cho ai? Vì sao Ngài loan báo cho họ như vậy?

3. Ai là người đã “nộp” Đức Giêsu? Đọc Mc 3,19; 9,31; 14,10.18.21.42; 15,1.10.15; Cv 2,23; Rm 8,32.

4. Tại sao các môn đệ không hiểu lời loan báo trên của Đức Giêsu? Đọc Mc 8,33; 9,32;.

5. Khi các môn đệ cãi nhau xem ai là người lớn nhất trong nhóm, Đức Giêsu đã làm gì để dạy các ông? Đối với văn hoá của người Do-thái thời Đức Giêsu, các em nhỏ tượng trưng cho điều gì?

6. Đọc Mc 9,36-37. Đức Giêsu đã đón tiếp một em nhỏ như thế nào?

7. Đọc Mc 9,35. Đức Giêsu mời các môn đệ phục vụ “mọi người”, nhưng cụ thể là ai?

8. Đọc chậm Mc 9,33-37. Bạn học được gì về khoa sư phạm của Thầy Giêsu trong đoạn văn này?

CÂU HỎI SUY NIỆM:

Tại sao ở đời người ta thích làm người lớn nhất, người đứng đầu, người lãnh đạo? Theo ý bạn, giá trị đích thật của một người nằm ở chỗ nào?

Nếu người đứng đầu phải phục vụ mọi người, thì bạn có thích làm người đứng đầu không?

PHẦN TRẢ LỜI

1. Cả ba đoạn văn này đều có hình thức (cấu trúc hay dàn bài) như nhau: A. Đức Giêsu tiên báo cho các môn đệ về cuộc khổ nạn và phục sinh của Ngài (8,31-32a; 9,30-31; 10,32-34). Ngài tiên báo ba lần, và các lời tiên báo càng lúc càng rõ hơn. B. Thái độ của các môn đệ sau những lời tiên báo đó (8,32b-33; 9,32-34; 10,35-41). Cả ba lần, họ thường tỏ ra không hiểu những lời ấy, không đón nhận hay không muốn đi vào con đường hẹp mà Thầy sắp đi. C. Tuy vậy, Đức Giêsu vẫn đưa ra một giáo huấn, mời các môn đệ đi vào con đường Thầy sắp đi (8,34-38; 9,35-37; 10,42-45).

2. Trong Tin Mừng Mác-cô, Đức Giêsu ba lần loan báo cuộc khổ nạn và phục sinh cho các môn đệ ở ba nơi khác nhau (8,31 ở Xê-da-rê Phi-líp-phê; 9,31 khi băng qua Ga-li-lê; 10,33-34 khi lên Giê-ru-sa-lem lần cuối). Các môn đệ ở đây là Nhóm Mười Hai (9,35; 10,32.41). Ngài tiên báo cho họ để chuẩn bị họ đón nhận những biến cố kinh hoàng sắp xảy đến cho Thầy mình.

3. Có nhiều người “nộp” Đức Giêsu. Người đầu tiên là Giuđa Ít-ca-ri-ốt “kẻ nộp Người” cho các thượng tế (Mc 3,19; 14,10.18.21.42). Anh là một người trong Nhóm Mười Hai. Kế đến là các thượng tế và cả Thượng Hội đồng. Họ đã nộp Đức Giêsu cho quan Philatô, vì họ muốn nhờ tay Philatô mà đóng đinh Đức Giêsu (Mc 15,1.10). Cuối cùng là Philatô, kẻ đã nộp Ngài cho quân lính đóng đinh (Mc 15,15). Tuy nhiên, vì việc trao nộp này nằm trong kế hoạch cứu độ từ trước của Thiên Chúa (Cv 2,23), nên thánh Phaolô dám nói rằng Thiên Chúa đã nộp chính Con của mình vì chúng ta (Rm 8,32).

4. Các môn đệ không hiểu lời loan báo cuộc khổ nạn và phục sinh của Thầy Giêsu (Mc 9,32). Họ không hiểu vì đối với họ, Đấng Kitô/Mêsia phải là Đấng mạnh mẽ chiến thắng quân thù, có khả năng giải phóng dân tộc Ítraen. Nếu Thầy Giêsu thật là Đấng Mêsia thì Thầy không thể chịu thất bại, khổ đau và bị giết như vậy. Hơn nữa, các môn đệ cũng không hiểu chuyện Thầy báo sẽ sống lại sau ba ngày, vì người Do-thái tin người ta chỉ sống lại vào ngày tận thế.

5. Trên đường đi, các môn đệ tranh cãi xem ai là người lớn nhất. Khi về nhà, Đức Giêsu đã dùng một em nhỏ để minh họa cách sống động cho bài học về sự khiêm hạ của Ngài. Trong văn hóa thời Đức Giêsu, em nhỏ không tượng trưng cho sự ngây thơ trong sáng như ta hiểu ngày nay, nhưng tượng trưng cho sự lệ thuộc. Em nhỏ là người không thể tự sống một mình, không có chỗ đứng trong xã hội, và phải dựa vào người lớn về mọi phương diện.

6. Đức Giêsu đã đem một em nhỏ, đặt em vào giữa các môn đệ, và ôm em ấy trong cánh tay (Mc 9,36; x. 10,16). Cử chỉ này cho thấy Ngài quý em, dù trong văn hóa Do-thái thời đó, trẻ em không được người ta coi trọng. Hơn nữa, Đức Giêsu còn tuyên bố em có giá trị cao quý, vì đón tiếp bất cứ em nhỏ nào như em này, nhân danh Thầy, là đón tiếp chính Đức Giêsu. Mà đón tiếp Đức Giêsu là đón tiếp chính Thiên Chúa, Đấng đã sai Ngài (Mc 9,37). Như thế có thể nói, không đón tiếp một em nhỏ là không đón tiếp Đức Giêsu và Chúa Cha. Một em nhỏ bị coi thường trong xã hội lúc bấy giờ, lại được Đức Giêsu coi như hình ảnh cụ thể của Thiên Chúa đang cần sự đón tiếp. Đức Giêsu không chỉ ở nơi người đói khát, trần trụi, yếu đau (Mt 25) mà còn ở nơi một em nhỏ yếu đuối, không được quý trọng, không có vị thế trong xã hội.

7. Khi các môn đệ tranh nhau làm người đứng đầu, Đức Giêsu mời gọi họ làm người đứng cuối mọi người, và làm người phục vụ mọi người chẳng trừ ai (Mc 9,35), nhưng đặc biệt những người yếu thế, như phụ nữ, trẻ em, người nhập cư, bệnh nhân, người nghèo, người bị đẩy ra ngoài lề xã hội…Trong cộng đoàn cũng có những người bị coi thường vì yếu kém mặt này mặt khác. Đức Giêsu đòi các môn đệ quan tâm đến những người không được ai quan tâm.

8. Sau khi Đức Giêsu loan báo cuộc khổ nạn lần thứ hai, trên đường về Caphácnaum, các môn đệ đã cãi nhau xem ai là người lớn nhất (Mc 9,34). Điều này cho thấy tim họ không đập cùng một nhịp với Thầy mình trong những ngày cuối đời. Họ vẫn sống trong mộng tưởng về chỗ đứng trong nhóm. Dù biết họ cãi nhau, nhưng Đức Giêsu đã không mắng họ ngoài đường. Chỉ khi về đến nhà, Ngài mới tế nhị giả vờ hỏi xem họ bàn chuyện gì trên đường đi. Dù sao Đức Giêsu đã không ép các ông phải trả lời câu hỏi này, Ngài chấp nhận họ làm thinh (Mc 9,33-34). Sau đó Ngài mới ngồi xuống, gọi họ lại và dạy các ông một bài học qua một em nhỏ. Qua những bước trên, ta thấy Đức Giêsu là một nhà sư phạm khôn ngoan, tự chủ và biết cách truyền đạt.

Tại sao ở đời người ta thích làm người lớn nhất, người đứng đầu, người lãnh đạo? Theo ý bạn, giá trị đích thật của một người nằm ở chỗ nào? mục lục

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

KẺ THÙ LỚN NHẤT

Khi nhận định về đời người, một tác giả đã viết: “Thông thường, chúng ta dành nửa đầu cuộc đời để đấu tranh để vượt qua người khác, và nửa đời còn lại để đấu tranh vượt qua chính bản thân mình”. Xem ra nhận định này khá chính xác đối với đa số chúng ta. Ở một tuổi nào đó, chúng ta không còn tham vọng chiến đấu để chạy đua với người khác, mà đối diện với chính bản thân. Khi nhận định một cách công tâm và trung thực, chúng ta nhận ra, đối thủ lớn nhất chính là bản thân mình. Đối thủ ấy luôn thường trực trong chính chúng ta. Đó là sự cố chấp, ích kỷ, bao biện, hiếu thắng và đam mê. Những nết xấu này, nếu không được kiểm soát, sẽ gây nhiều hậu quả tai hại, phá vỡ mối tương quan với người khác. Một chiến sĩ trẻ sẵn sàng xông pha nơi chiến trường, gắn bó yêu thương như ruột thịt với đồng đội; khi lớn tuổi về hưu, cũng con người ấy lại không vượt qua được những tranh chấp và quyền lợi nhỏ nhoi, để rơi vào cảnh huynh đệ tương tàn. Kẻ thù lớn nhất, chính là bản thân chúng ta. Ki-tô hữu được mời gọi hãy nhận ra điều ấy, để biết mình, biết người, hầu uốn nắn cuộc đời mình nên giống Đức Giê-su. Người đến trần gian để hiến mạng sống phục vụ con người. Trên thập giá, Người đã trở nên người nghèo nhất trong số những người nghèo ở thế gian.

Sự ghen tương ích kỷ là nguyên nhân của những xung đột, bạo lực, chia rẽ và cãi vã. Thánh Gia-cô-bê đã lập luận một cách dễ hiểu. Ngài cho biết, để có một cuộc sống tương thân tương ái, trước hết phải làm chủ cái tôi trong chính con người của mình (Bài đọc II). Vị tông đồ cũng viết trong phần kế tiếp: “Anh em đừng nói xấu nhau. Ai nói xấu hoặc xét đoán anh em mình là nói xấu và xét đoán Lề Luật. Nếu anh xét đoán Lề Luật, thì anh không còn là kẻ vâng giữ, mà là kẻ xét đoán Lề Luật. Chỉ có một Đấng ra Lề Luật và xét xử, đó là Đấng có quyền cứu thoát và tiêu diệt. Còn anh là ai mà dám xét đoán người thân cận?” (Gc 4,11-12). Quả thật, ngày nay người ta thích đưa ra kết luận như sau: “mọi tội lỗi đều từ bởi miệng mà ra; mọi bệnh tật lại từ miệng mà vào”.

Thanh luyện tâm hồn để sống khiêm tốn và sống vì người khác, đó là thông điệp chính mà Lời Chúa muốn nhắn nhủ với chúng ta trong Chúa nhật này. Thánh Mác-cô làm chúng ta ngỡ ngàng, khi thuật lại cuộc cãi vã tranh giành của các môn đệ, và cuộc cãi vã này xảy ra ngay khi Chúa vừa nói với các ông về cuộc khổ nạn của Người. Sự việc đã bị Chúa Giê-su bắt “quả tang” và nhân dịp này Người đã cho các ông một bài giáo huấn, trong đó Người nêu nguyên tắc bất di bất dịch cho tất cả những ai muốn làm môn đệ Người: Muốn làm lớn, thì phải phục vụ; Hãy có tâm hồn đơn sơ như trẻ em. Chúa Giê-su không nói suông, mà chính Người làm gương cụ thể cho chúng ta, như tác giả Mác-cô ghi lại lời tuyên bố của Người: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10,45).

Muốn chiến thắng bản thân, phải nhận diện và gọi tên những nết xấu thường trực trong con người mình. Vì trong lòng chất chứa những dụng vọng và ý đồ ghen tỵ, nên người ta muốn làm hại người khác. Tác giả sách Khôn Ngoan đã gọi đó là “Phường vô đạo” (Bài đọc I). Dường như những người này cũng tin vào Thiên Chúa, nhưng ghen tương đố kỵ đã làm cho lòng họ trở nên chai đá. Họ thù ghét những người tốt bụng và lập mưu để triệt hạ những người công chính.

Đối diện với sự dữ, người tin vào Chúa luôn không hoảng loạn và nhất là không lấy ác báo ác. Người công chính tin vào đức công minh của Thiên Chúa. Tác giả Thánh vịnh đã diễn tả niềm xác tín cậy trông của người tín hữu, khi gặp gian nan hoạn nạn và khi bị người đời khinh ghét. Ai tin vào Chúa, chắc chắn sẽ không phải thất vọng, vì Người là Đấng trung thành.

Trong khi con người luôn quy hướng về bản thân, thì Chúa Giê-su lại hướng chúng ta đến với người khác. Khi phục vụ, chúng ta tìm được niềm vui. Khi sống khiêm nhường, chúng ta nên giống Chúa Giê-su, Đấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Đích điểm của đời sống Ki-tô hữu là cố gắng mỗi ngày để giảm thiểu những đam mê, bớt đi những ích kỷ. Lúc đó, kẻ thù lớn nhất nơi chúng ta sẽ bị tiêu diệt, và chúng ta có thể nói như thánh Phao-lô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2,20). mục lục

+ ĐTGM. Giu-se Vũ Văn Thiên

SỨ MẠNG CỦA MÔN ĐỆ LÀ PHỤC VỤ

Kính thưa quí cụ, quí ông bà và anh chị em,

Thomas Merton, nhà thần học chuyên về tu đức và đời sống thiêng liêng rất nổi tiếng người Mỹ, đã nói một câu thật chí lý như sau: “Không ai là một hòn đảo.” Có nghĩa là chúng ta chỉ thật sự sống như một con người khi sống nối kết với người khác. Người khác đó không ai khác hơn là những người ta gặp hàng ngày, thậm chí có thể là những người không cùng ‘phe’ mình. Nói chung, người khác mà chúng ta đề cập ở đây là tất cả mọi người trong cộng đòan.

Còn gì hạnh phúc hơn khi chúng ta được sống trong một cộng đòan, nhỏ bé như gia đình hoặc rộng lớn như Giáo hội, mà trong đó mọi thành viên đều sống cho nhau, vì nhau và thương yêu nhau. Muốn được như thế thì mọi thành viên trong cộng đòan cần có trách nhiệm xây dựng và hoàn thành mục tiêu sống và nghĩ đến nhu cầu của nhau.

Trái lại, nếu các thành viên trong cộng đoàn chỉ nghĩ và sống cho quyền lợi riêng, thì chúng ta không cần đi tìm ‘hỏa ngục’ đâu xa nữa; nó hiện diện ngay trong môi trường và lối sống ích kỷ mà chúng ta đang dành cho nhau đó. Và hậu qủa của lối sống ích kỷ là những va chạm, bất hòa và đổ vỡ. Một thực tế đáng buồn là chúng ta quá dễ dàng hòa hợp với lối sống đó. Và như cơn bịnh ung thư, nó cứ thế lan rộng và ăn dần vào từng bộ phận và giết dần giết mòn các chức năng khác của thân thể.

Có nhiều nguyên nhân gây ra tình trạng chia rẽ trong cộng đoàn, nhưng một trong những nguyên nhân gây ra chia rẽ trong cộng đoàn lại xẩy ra bởi lòng ước muốn của những người lãnh đạo. Như các Tông đồ, các nhà lãnh đạo cũng bị cám dỗ về quyền lực.

Hẳn anh chị em vẫn còn nhớ lời cầu xin của Gia-cô bê và Gio-an. Các ông chỉ xin Chúa cho ngồi hai bên Chúa mà thôi. Điều đó có nghĩa là nếu Chúa là chủ tể (Tổng Thống) thì một ông là Thủ Tướng và ông kia là Tổng trưởng quốc phòng. Còn vị trí nào cao hơn điều mà các ông xin. Các tông đồ kia cũng có tham vọng như thế, nhưng không ‘nhanh miệng’ bằng hai anh em ông Gio-an, vì thế đâm ra tức tối (Mk: 10:41).

Nói tóm lại, nhìn lại các chứng cứ và các hiện tượng đã xẩy ra trong quá khứ, chúng ta nhận ra rằng quyền bính để thống trị, quyền lực để áp bức thường là những nguyên nhân khiến cộng đòan - nhỏ bé như gia đình, hay rộng như Giáo hội - bị chia rẽ và phân tán. Ai trong chúng ta cũng có trải nghiệm này.

Anh chị em thân mến,

Gia đình ít khi bị đổ vỡ vì con cái. Các cháu có thể là nguyên nhân gây ra sự bất đồng trong việc giáo dục. Nhưng nguyên nhân chính yếu thường xẩy ra bởi cha mẹ. Thay vì dùng khả năng, ân phúc để xây dựng và phục vụ lẫn nhau, nương tựa và cùng giúp nhau chu toàn nghĩa vụ được trao ban; trái lại chúng ta lạm dụng uy quyền để áp bức và thống trị nhau.

Thậm chí có những tình huống bạo lực xẩy ra trong gia đình. Chỉ vì không ai chịu thua ai. Ai cũng dành phần thắng, phần nhất về cho mình. Trong khi dùng quyền bính để sai bảo người khác, chúng ta đã quên đi một điều là ai nói mà chẳng đuợc, ai cũng bảo vệ lập trường và lý luận của mình. Lắng nghe nhau mới là điều khó mà chúng ta cần học.

Nói tới đây, tôi nhớ lại những lời khuyên của các bậc trưởng thượng, trải qua bao thử thách trong cuộc sống chung. Các ngài đã chia sẻ cho chúng ta kinh nghiệm trong việc xây dựng gia đình của họ như sau. Họ nói rằng, thua là nghệ thuật sống chung trong gia đình. Khi bạn thua là lúc bạn thắng. Thắng chính mình để sống cho nguời khác hầu đem lại bầu khí an vui và hạnh phúc cho gia đình.

Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể nào loại bỏ các khuynh hướng xấu đang lan tràn và ảnh hưởng cuộc sống của chúng ta, đó là lối sống thống trị, ăn trên ngồi trốc. Trước hoàn cảnh đó, đặc biệt để giải quyết các tranh cãi của các Tông đồ hôm nay, Đức Giê-su đã đưa ra một giải pháp luôn luôn mới lạ và vô cùng hiệu quả nếu chúng ta biết áp dụng, và đây cũng là một thách đố cho Giáo Hội trong mọi thời đại.

Trong quá khứ quyền bính của các vị lãnh đạo Giáo Hội được công nhận về mặt thế quyền nữa. Thần quyền và thế quyền hòa trộn với nhau. Các nhà lãnh đạo trong Giáo Hội quá nhiều quyền bính và được tôn vinh quá mức. Vinh quang mà họ thụ hưởng phản ảnh quyền lực của thế gian hơn là cách thức mà Chúa Giê-su dậy bảo trong bài Tin Mừng hôm nay: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết và làm người phục vụ mọi người.” Không chỉ có thế, sau đó Người đem một em nhỏ đến và đặt cháu đứng giữa các môn đệ, rồi ôm lấy cháu rồi nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy là tiếp đón chính Thầy.”

Như anh chị em đã biết, vào thời Đức Giê-su, thân phận của người phụ nữ và trẻ con không được tôn trọng và quí mến. Đối với họ thì hai hạng người này bị coi là thành phần không có chỗ đứng trong xã hội. Theo luật thì các cháu phải chờ đến lúc lên mười hai tuổi mới đuợc tham dự các nghi thức phụng vụ tại Đền Thờ.

Đối với Đức Giê-su thì khác, khi đem em nhỏ đến và đặt giữa các ông là lúc Người muốn căn dặn các ông và chúng ta rằng: em nhỏ này là hình ảnh tượng trưng cho những người thấp cổ bé miệng, nghèo hèn, bị coi thường và không có tiếng nói về mặt đạo cũng như mặt đời. Như vậy, qua cử chỉ đón tiếp thật ân cần mà Đức Giê-su dành cho em bé hôm nay, Người muốn dậy các ông bài học quan tâm và đón tiếp nhau.

Không ai trong chúng ta là người giầu có hết. Trước mặt Thiên Chúa, tất cả chúng ta đều là người nghèo. Chúng ta chẳng có gì trao cho nhau cả. Tất cả đều lệ thuộc vào Thiên Chúa, Đấng trao vào tay chúng ta những món quà cho người khác. Vì thế, khi chúng ta đón tiếp người nghèo, người tất bạt, người đói khát, trần truồng, bịnh hoạn, những người không có địa vị như trẻ em thì đó không phải là một hành vi bố thí, thương xót về thân phận của họ bị coi thường, cho bằng nhận ra sự hiện diện của Đức Chúa nơi những người đó. Chúa hiện diện trong con người và cuộc sống của họ, cho nên khi chúng ta đón tiếp, yêu thương và giúp đỡ những người như thế là giúp đỡ và yêu thương chính Chúa.

Lời khuyên của Chúa được kèm theo việc làm của Người. Cử chỉ của Đức Giêsu khi ôm em nhỏ vào lòng là lúc Người biểu lộ lòng quí mến, yêu thương và tiếp nhận. Tiếp nhận một em nhỏ như thế chắc chắn không phải để em nhỏ phục dịch mình, nhưng là cơ hội mà Người muốn dậy cho các môn đệ bài học phục vụ. Hãy nhớ lại Lời Người đã nói “ai phục vụ ta thì hãy theo Ta”. Chúng ta đã là môn đệ của Người, vì thế chúng ta không còn chọn lựa nào khác hơn là phục vụ. Đó chính là lẽ sống và niềm vui của người môn đệ.

Như vậy, điều Chúa khuyên: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải là người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” quá rõ ràng. Có nghĩa là ai muốn làm lớn, theo tinh thần của Đức Ki-tô, phải là người phục vụ trước. Phục vụ là chìa khóa, là nguyên tắc của quyền lãnh đạo. Uy quyền có được trao ban cũng là do Thiên Chúa. Địa vị, quyền cao chức trọng cốt để phục vụ mọi người, chứ không phải để thống trị, như Chúa phán: "Ta đến để phục vụ, chứ không phải để được hầu hạ." Chúa đã đảo ngược cách hiểu thông thường về sự vĩ đại, vị trí của người làm lớn. Trong Nước Trời, người lớn nhất không phải là người có quyền lực, địa vị cao, mà là người hạ mình, phục vụ người khác.

Như vậy, qua trình thuật Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su mời gọi chúng ta đảo ngược những giá trị mà thế gian thường đề cao, thay vào đó là tấm lòng phục vụ và quan tâm đến những người yếu thế trong xã hội. Bởi vì, chỉ có Chúa mới là ông chủ, còn tất cả chúng ta chỉ là những người thừa hành và phục vụ lẫn nhau. Nói cách khác, cuộc sống của những kẻ có niềm tin vào Chúa Ki-tô phục sinh là cuộc sống phục vụ, sẵn sàng hiến mạng mình vì ích lợi của người khác. Amen! mục lục

Lm. Yuse Mai Văn Thịnh, DCCT

CHÚA GIÊSU ĐÃ XUỐNG VỊ TRÍ RỐT HẾT

Các môn đệ đi theo Chúa Giêsu, bàn luận với nhau để biết ai là người lớn nhất: “Các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả” (Mc 9:34). Các ông, và hầu hết dân Do thái bấy giờ, nghĩ rằng Nước Trời là sự khôi phục vương triều Đavít hay vương triều Sôlômôn, là những thời kỳ hùng mạnh trong lịch sử Do Thái. Có lẽ các ông cãi nhau vì phần lớn người ta thường nghĩ rằng “người lớn nhất” là người có sức mạnh, quyền lực và trổi vượt hơn người khác. Nhân dịp này Chúa Giêsu dạy các ông ai thực sự là người lớn nhất trong Nước Thiên Chúa.

1. Chọn sống theo Lời Chúa như chuẩn mực các giá trị

Tìm cách khẳng định các giá trị của bản thân trong cuộc sống là một việc xem ra rất tự nhiên, của hầu hết mọi người. Tuy nhiên sống các giá trị đó sao cho đúng với Lời Chúa mới là nền tảng của các giá trị của bản thân, có khả năng giúp con người vượt lên trên “thói tự nhiên” để đi vào “cảnh giới siêu nhiên”. Đây là một vấn đề có tầm quan trọng quyết định. Thật không may, nhiều người tự nhận là Kitô hữu nhưng không nhận thấy các giá trị theo chuẩn mực Lời Chúa khác với các giá trị của thế gian mà họ đang theo đuổi. Kitô giáo đặt nền tảng trên các giá trị tâm linh, vô hình, và vĩnh cửu, trong khi thế gian lại coi trọng những gì vật chất, cân đo đong đếm được, có lợi thực tế trước mắt cho chính mình.

Sự khác biệt giữa các giá trị đó còn sâu xa hơn thế nữa. Quan điểm thế gian nói rằng mỗi người chúng ta tự đặt ra tiêu chuẩn cho riêng mình. Mỗi người tự quyết tạo ra đời mình qua tính cách, lối sống, kế hoạch hoạt động của riêng mình. Giá trị cuộc sống là do cảm nhận và suy nghĩ riêng mỗi cá nhân và sự chấp nhận của những người chung quanh. Lợi nhuận và quyền lợi cá nhân phải đặt lên hàng đầu. Vấn đề mấu chốt là các tiêu chuẩn đó có thực sự đem lại hạnh phúc vững bền không, hay chỉ đem lại những vui thích ảo ảnh, những thỏa mãn chóng qua?

Trong khi đó, các giá trị Kitô giáo lại hệ tại Lời Thiên Chúa trong Kinh thánh, vốn khẳng định rằng chính Thiên Chúa đặt ra tiêu chuẩn cho những gì là đúng thực, là chân lý và là vĩnh cửu. Đó là những giới răn hướng dẫn lối sống hàng ngày của con người đúng theo mục đích họ đã được Thiên Chúa tạo nên, theo hình ảnh của Ngài. Chính việc sống theo Lời Thiên Chúa quyết định giá trị mỗi người là gì, chứ không phải cảm giác hay cảm xúc, vốn là những xung năng thôi thúc những ham muốn và tham vọng cá nhân. Điều quan trọng nhất là tuân phục Ý Chúa: yêu mến Thiên Chúa và người khác. Chính các giá trị và niềm hy vọng Kitô giáo tạo nên một “cái neo chắc chắn và bền vững của tâm hồn, chìm sâu vào bên trong bức màn cung thánh” (Hípri 6:19). Khi chọn Lời Chúa làm nền tảng, Kitô hữu cảm thấy chắc chắn về điều quan trọng nhất trong cuộc sống. Sự vững tâm đó làm giảm căng thẳng, cho phép đưa ra những lựa chọn khôn ngoan và tạo ra sự bình an nội tâm, cả khi những cơn bão của cuộc sống ập đến “Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá” (Mt 7:24-25). 

Ngược lại, các giá trị trần thế giống như một nền cát. Chúng tan biến khi gió bắt đầu thổi và mưa rơi xuống. Vì chúng không thỏa mãn được khát khao sâu xa của cõi lòng, nên chúng để lại một khoảng trống to lớn trong tâm hồn, một cảm nhận về cái hư không vô nghĩa, và mau chóng dẫn đến sự vỡ mộng, thất vọng. Đây là nguyên cớ của tâm trạng chán chường và dẫn đến không ít quyết định tự hủy hoại đời mình: “Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành” (Mt 7:26-27).

Điều gì xảy ra khi chúng ta theo đuổi thứ gì đó mà chúng ta cho là có giá trị nhưng lại không nắm giữ được nó? Hoặc khi đã nắm giữ được nó, chúng ta lại thấy nó gây ra thất vọng? Tệ hại nhất là, điều gì sẽ xảy ra khi chúng ta nhận ra rằng không còn gì trong trời đất này có giá trị hoặc ý nghĩa nào vốn có thể trở thành nền tảng cho cuộc sống của chúng ta? Khi chúng ta rơi vào tâm trạng đó, tâm trí của chúng ta trở nên rối loạn, cảm giác của chúng ta sụp đổ. Đó là lúc chúng ta bước vào vùng nguy hiểm.

Chúa Giêsu hôm nay dạy các môn đệ rằng người lớn nhất, nghĩa là có giá trị nhất, trong Nước Trời là “người phục vụ mọi người” (Mc 9:35) kể cả những người mọn hèn nhất, giống như các trẻ thơ: “Ngài đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói: Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy” (Mc 9:37). Những người mọn hèn nhất, trong đó có trẻ em, nằm trong số những người cần được các môn đệ của Chúa Giêsu phục vụ. Những người mọn hèn này không có khả năng trả lại những gì họ đã nhận được. Chính vì vậy mà Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Ngài phục vụ họ. Đây mới là tinh thần phục vụ đích thực, cho đi mà không mong cầu được đền đáp theo chuẩn mực “bánh ít đi bánh qui lại” của người đời. Đối với Chúa Giêsu “việc làm cao cả” trước mặt Thiên Chúa được đo lường bằng những giá trị lớn lao hơn: phục vụ Thiên Chúa nơi những kẻ nghèo hèn. Chúa Giêsu đồng hóa chính mình với những kẻ bé mọn: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy”, thậm chí Ngài khẳng định rõ ràng: “Và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy” (Mc 9: 37). Như thế, phục vụ những kẻ bé mọn chính là phục vụ Chúa Giêsu và Thiên Chúa Cha. Chúa Giêsu cho thấy rõ tiêu chuẩn sống của những ai muốn theo Ngài: “Hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả. Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao” (Mt 6:35).

2. Chúa Giêsu đến để phục vụ hết mọi người; đây là giá trị tuyệt đối.

“Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Ngài, và ba ngày sau khi bị giết chết, Ngài sẽ sống lại” (Mc 9:31). Cuộc khổ nạn mà Chúa Giêsu tỏ bày cho các môn đệ của Ngài là một nhiệm mầu không thể nuốt trôi đối với các ông, như thể những đau khổ sắp đến đó phủ bóng đen lên họ, báo trước những kỳ vọng âm thầm của họ vào Chúa Giêsu sẽ trở nên vô vọng.

“Khi về tới nhà, Chúa Giêsu hỏi các ông: Dọc đường, anh em đã bàn tán điều gì vậy?” (Mc 9:33). Chúa Giêsu hỏi như vậy là để giúp các môn đệ xác định mối bận tâm trong tâm trí và lòng dạ của họ. Còn Ngài đã thấu rõ cõi lòng con người vì “… Ngài dò xét con và Ngài biết rõ, biết cả khi con đứng con ngồi. Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa, đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét, mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả. Miệng lưỡi con chưa thốt nên lời, thì lạy Chúa, Ngài đã am tường hết” (Tv 139:1-4). Các môn đệ “làm thinh” không dám trả lời Ngài (Mc 9:34), có lẽ do xấu hổ về cuộc thảo luận của họ. Chúa Giêsu không khiển trách các môn đệ. Ngài dịu dàng làm cho họ hiểu được một bài học có tầm quan trọng lớn nhất đối với những ai bước theo Ngài, cho họ biết thế nào là người lớn nhất: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” (Mc 9:35). Sự vĩ đại thực sự là trở thành người tôi tớ phục vụ. Điều này liên quan đến cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, bởi vì khi nói như vậy, Chúa Giêsu đang nói về chính mình. Ngài tự coi mình là người tôi tớ “phục vụ mọi người”. Và Thầy đi đến đâu thì môn đệ phải đi đến đó.

Đôi khi chúng ta phải mất rất nhiều thời gian mới hiểu được rằng mình thường xuyên ôm ấp khát mong trở nên “vĩ đại”. Chúng ta thường bắt đầu bước theo Chúa Giêsu trong sự vô tư và nhiệt thành. Nhưng rồi ra, như các môn đệ của Chúa, chúng ta ngó quanh “xem ai là người lớn hơn cả” (Mc 9:34). Chúa Giêsu biết rõ các môn đệ của Ngài muốn trở nên “những người lớn lao”. Đó là một mong muốn đáng khích lệ. Tuy nhiên việc ấy đã trở nên xấu xí và méo mó vì thứ tội kiêu hãnh cá nhân. Thay vì thăng tiến trong hành trình hướng về Thiên Chúa, chúng ta tìm mọi cách, kể cả cãi nhau, tranh giành “làm người đứng đầu” (Mc 9:35). Từ một khát vọng trở nên vĩ đại biến thành một thứ ham muốn được mọi người biết đến là vĩ đại, vĩ đại hơn người khác. Chúng ta mong được người khác khen ngợi, thán phục. Chúa Giêsu không bác bỏ toàn bộ mong muốn đó, Ngài chỉ cho các môn đệ con đường giúp loại bỏ những xấu xí và méo mó để khát khao ấy được biến đổi trọn vẹn thành một sự lớn lao tốt lành. Chúa Giêsu dạy rằng sự vĩ đại thực sự không phải là đứng đầu vượt trên những người khác đứng thứ hai, thứ ba hay thứ tư. Sự lớn lao đích thực không phải là khẳng định bản thân để người khác khen ngợi, nhưng là sự sẵn lòng đứng cuối cùng, đặt mình vào vị trí phục vụ mọi người, trở nên phúc lành cho nhiều người chừng nào có thể. Đó không phải là con đường “thăng cấp” trước mặt người đời nhưng là con đường đi xuống, xuống tới vị trí rốt hết. Chính Chúa Giêsu đã xuống tới vị trí rốt hết ấy, như Chân phước Charles de Foucauld đã cảm nhận và suy ngẫm: “Chúa Giêsu đã chiếm lấy vị trí cuối cùng một cách tuyệt đối đến nỗi không ai có thể chiếm được vị trí đó của Ngài” [*]. Vị trí ấy được diễn tả nơi: “Chúa Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Philíp 2:6-7) và “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Ngài” (Mc 9:31).

Sự khiêm hạ ấy không phải hạ thấp, như người ta lầm tưởng, nhưng là nâng cao phẩm giá con người: “Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên” (Mt 23:12). Người lớn lao nhất là người từ chối mọi hình thức kiêu ngạo, trong tư tưởng, lời nói và việc làm. Chính trong tâm thế này Chúa Giêsu loan báo cuộc khổ nạn của Ngài cho các môn đệ. Chúa Giêsu đang chuẩn bị hiến mạng sống mình cho thế gian bằng một cử chỉ hết sức khiêm hạ, thế mà ở đây các môn đệ không hiểu lời Ngài, lại thích làm người lớn nhất!

Xin Chúa giúp chúng ta để tâm tiếp tục suy ngẫm lời Thánh Giacôbê trong bài đọc thứ hai: “Ở đâu có ganh tị và cãi vã, ở đó có hỗn độn và đủ thứ tệ đoan…Bởi đâu anh em cạnh tranh và cãi cọ nhau? Nào không phải tại điều này: tức tại các đam mê đang giao chiến trong chi thể anh em đó sao? Anh em ham muốn mà không được hưởng, nên anh em giết nhau. Anh em ganh tị mà không được mãn nguyện, nên anh em cạnh tranh và cãi cọ” (Gc 3:16 - 4:3). Chỉ khi Chúa Kitô “hạ mình,vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Philíp 2:8) thì: “Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Chúa Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2:9-11). mục lục

Phêrô Phạm Văn Trung

[*] xem Chân phước Charles de Foucauld tại đậy

QUA THẬP GIÁ ĐẾN VINH QUANG

Sống ở trên đời, người ta thường áp dụng nhiều phương thế để có được hạnh phúc, nhưng song song với việc kiếm tìm hạnh phúc, thì không thể nào mà không có bóng dáng của khổ đau. Như phải có màu trắng để biết được màu đen, có bên phải thì có cái gọi là bên trái, có trên cao thì mới thấy cái dưới thấp, có bóng tối mới nhận ra ánh sáng, có nụ cười thì cũng có nước mắt…

Vì thế, nói đến Hạnh Phúc thì cũng phải nói đến Đau Khổ. Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su nói đến khổ nạn và phục sinh, cụ thể là Thập giá và vinh quang. Người cũng nói đến trẻ em và người lớn là những mặt đối nghịch nhau nhưng song hành cùng nhau và hiển hiện trong cuộc đời của mỗi chúng tra trên cõi đất này. Mỗi người chúng ta đều trải nghiệm ít nhiều trong đời, cái tâm trạng êm ái, dễ chịu, sung sướng được gọi là Hạnh Phúc và ngược lại, cái thái độ bực bội, khó chịu, đau đớn được gọi là Đau Khổ.

Con người vốn sợ đau khổ và mong tìm hạnh phúc. Thế nhưng đau khổ lại cứ bám riết lấy con người, còn hạnh phúc thì lại thật mong manh.

Sau khi thăm dò ý kiến dân chúng về chính con người của mình, Chúa Giê-su quay sang hỏi các môn đệ, và nhận được phản hồi từ Phê-rô tuyên xưng: “Thầy là Đấng Ki-tô” (Mc 8, 29). Chúa Giê-su bắt đầu mạc khải cho các ông biết Người là “Tôi Tớ đau khổ” … “Sẽ phải chịu đau khổ nhiều…bị giết đi” (Mc 8, 31).

Các môn đệ kia không biết có hiểu hay có ý kiến gì không, vì không thấy nói tới? Đành rằng với ý ngay lành chúng ta thanh minh cho các Tông Đồ như Mác-cô ghi rõ là: “Các ông không hiểu lời đó và sợ không dám hỏi Người” (Mc 9, 10). Không dám hỏi Chúa nhưng lại hỏi nhau: “Từ trong cõi chết sống lại nghĩa là gì?” (Mc 9,10) Và cũng từ sự không hiểu biết ấy dẫn đến cuộc cãi vã dọc đường (x. Mc 9, 34). Tệ hơn nữa Gia-cô-bê và Gio-an đến xin Chúa Giê-su cho được một ngồi bên tả, một ngồi bên hữu Thầy (x. Mc 10, 35). Còn Phê-rô, vì không chấp nhận mạc khải ấy nên đã bị khiển trách nặng nề: “Sa-tan, hãy lui đi” (Mc 8, 33).

Nhìn vào cuộc đời của Chúa Giê-su, chúng ta thấy đó là một cuộc đời đi vào đau khổ. Từ trời cao Người đã nhập thể làm người, hòa mình vào trong nhân thế, trong giới lao động cùng khổ. Người đến trần gian không nhằm mục đích xóa bỏ đau khổ mà là hiện diện cùng với những con người đau khổ. Người đòi hỏi các môn đệ phải từ bỏ danh, lợi, thú, để đi vào con đường thập giá, con đường mà nhiều người đang muốn vượt ra, nay Người lại mời gọi đi vào.

Phải chăng là một nghịch lý khi Đức Giê-su đề nghị ta hãy đi vào đau khổ? Phải chăng Người chỉ muốn các tín đồ của Người sống trong đau khổ?

Không, con đường Chúa Giê-su đi không dừng lại ở đau khổ và sự chết. Nếu kết thúc cuộc đời của Chúa Giê-su chỉ dừng lại ở bi kịch thập giá thì cửa mồ của sự chết sẽ hoàn toàn khép lại. Người đi qua đau khổ để tiến tới vinh quang, qua sự chết để tới sự phục sinh.

Con đường ấy, Chúa mời gọi chúng ta là ki-tô hữu vác lấy thập giá hằng ngày của mình mà theo Chúa. Thập giá ở đây là chính bổn phận, là trách nhiệm thường ngày của mỗi người. Chồng vợ vác thánh giá mình nghĩa là có bổn phận, trách nhiệm quan tâm, lo lắng và đem lại hạnh phúc cho nhau. Cha mẹ có bổn phận, trách nhiệm nuôi nấng, dạy dỗ con cái. Ngược lại, con cái phải có bổn phận thảo hiếu, kính yêu và vâng lời cha mẹ, chia sẻ trách nhiệm với gia đình trong khả năng thể. Người ki-tô có trách nhiệm đối với Giáo hội, giáo phận, giáo xứ. Sợ hãi khổ đau là sợ hãi trách nhiệm. Trốn chạy đau khổ là trốn tránh trách nhiệm. Kẻ sợ hãi trách nhiệm là người vô dụng, và người như thế chỉ là gánh nặng cho gia đình và xã hội.

Nếu mỗi người đều biết chu toàn bổn phận của mình một cách ý thức, trách nhiệm là chúng ta đang trồng cây hạnh phúc ở giữa gia đình và xã hội mà chúng ta đang sống. Thập giá của bổn phận sẽ không còn là nỗi khổ mà là niềm vui, vì chúng ta đang cống hiến tài năng, trí tuệ của mình để đem lại hạnh phúc cho gia đình và xã hội. Nếu chúng ta bỏ bê và thiếu trách nhiệm trong bổn phận là chúng ta đang hủy diệt cây hạnh phúc và trồng cây đau khổ cho gia đình cũng như xã hội.

Ngày hôm nay, tận cùng trái đất đối với chúng ta thật là tương đối và luôn dễ dàng lướt web, đó là thế giới tiềm thể, kỹ thuật số, các mạng xã hội đang tràn ngập và xuyên qua chúng ta, xóa bỏ mọi khoảng cách, thu hẹp những khác biệt. AI, hay điện toán toàn cầu ở trong tầm tay chúng ta. Điều thiết yếu là tìm kiếm và gắn bó với Đức Ki-tô, mang Chúa là nguồn hạnh phúc đến cho người khác. Giáo hội đang cần đến chúng ta. Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đang mời gọi toàn thể Hội Thánh “Cùng với người trẻ, chúng ta mang Tin Mừng cho tất cả mọi người”.

Nguyện xin Chúa ban ơn phù trợ, giúp mỗi người trau dồi kiến thức Đạo đời, trở nên những chiến sĩ loan báo Tin Mừng, can đảm lên đường sống mùa xuân truyền giáo, loan báo cho mọi người Đức Ki-tô Tử nạn và Phục sinh để họ tin mà được cứu độ. Amen. mục lục

Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

NGƯỜI MÔN ĐỆ MẪU

Người môn đệ của Đức Giêsu cần có niềm xác tín nền tảng: “Ở đâu có  yêu thương, ở đó có Thiên Chúa”. Và với người môn đệ thì chỉ một mình Đức Giêsu là Đấng họ đi tìm, và “vinh quang của Đức Giêsu” là vinh quang duy nhất suốt đời.

Trên đường đi theo Đức Giêsu, rất nhiều lần chúng ta đã trao đổi, bàn bạc với nhau về hình ảnh của người môn đệ lý tưởng và nhiều hình mẫu lý tưởng đã được vẽ lên.

Việc làm này  nhóm môn đệ của Đức Giêsu ngày xưa đã làm, và Tin Mùng Máccô hôm nay tiết lộ cho chúng ta: các ông đã nói với nhau những gì ?

Các ông đã không chỉ nói với nhau,  hay bàn bạc với nhau, nhưng còn to tiếng, sừng cồ “ cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả ” (Mc 9,34), điều mà người ở ngoài Nhóm không thể  ngờ và không thể hiểu nổi.

Người không thuộc về nhóm môn đệ Đức Giêsu không thể ngờ, vì họ thấy Đức Giêsu nhân hậu, chỉ rao giảng giới luật Tình Yêu, dạy dỗ mọi người sống nghèo khó, hiền lành, trong sạch, yêu chuộng hoà bình,  khiêm  hạ, nhịn nhục và có lòng xót thương (x. Mt 5,2-12), nhưng sao các môn đệ của Ngài lại ham hố vinh quang, tranh chấp chức quyền, địa vị và bất hoà, hiềm khích vì những hư danh. Người không thuộc hàng ngũ những người đi theo Đức Giêsu cũng không thể hiểu, khi thấy nhiều môn đệ của Ngài không khá hơn ho, có khi còn tệ hơn nhiều người trong số họ, vì ganh ghét, tham vọng, ích kỷ, mưu mô thủ đọan.

Thực vậy, câu chuyện tình nguyện đầu quân đi theo Đức Giêsu để đuợc làm lớn, để đươc thiên hạ kính nể, trọng vọng, kể cả để vinh thân phì gia không chỉ là  chuyện cũ của các môn đệ Đức Giêsu, nhưng mãi  là câu chuyện thời sự đang xẩy ra “ở đây và lúc này”. Đó là câu chuyện được lặp đi lặp lại, mà người môn đệ chân chính  không ngừng phải chiến đấu với chính mình để không liều mình lầm đường lạc lối, không uổng phí một đời tận hiến, không phải sống một đời môn đệ gượng gạo, giả hình:

Để không lầm đường lạc lối khi đi tìm những điều thế gian say mê đua nhau đi tìm, vì con đường Đức Giêsu muốn người môn đệ phải đi, chính là con đường Ngài đã đi: đường lên Giêrusalem, ở đó, “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại” (Mc 9, 31). Đây là con đường “qua thập giá đến vinh quang”, con đường Thánh Giá đau thương, chết chóc để có buổi sáng phục sinh khải hoàn, bởi “nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu qúy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12, 24-25).

Để không uổng phí đời tận hiến, khi chân thì đi theo Đức Giêsu, tay thì phục vụ Hội Thánh, nhưng cái đầu thì chỉ mong tìm cho mình một vị thế, xây dựng riêng cho mình pháo đài quyền lực, ngai toà thống trị, vì kim chỉ nam của đời môn đệ là khiêm tốn phục vụ, như Đức Giêsu đã đến để phục vụ, bởi “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người.” (Mc 9, 35).

Để không phải sống một đời môn đệ gương gạo, giả hình, khi sống ngược Hiến Chương Nước Trời mà mình được mời gọi (x. Mt 5,1-12), sống trái lời hứa ban đầu khi chọn đi theo Đức Giêsu (x. Lc 9,23), vì tâm tình và thái độ của người môn đệ phải là tâm tình và thái độ Vâng Phục và Tín Thác của trẻ thơ đối với cha mình, như Đức Giêsu với Chúa Cha.

Thánh Giacôbê đã lý giải nguyên nhân gây ra nếp sống, và những thái độ cư xử không phù hợp ở người môn đệ khi viết : “Thật vậy, ở đâu có ghen tương và tranh chấp, ở đấy có xáo trộn và đủ mọi thứ việc xấu xa” (Gc 3,16). Thánh Tông Đồ còn quảng diễn: “Quả thế, anh em ham muốn mà không có, nên anh em chém giết; anh em ganh ghét cũng chẳng đuợc gì, nên anh em xung đột với nhau, gây chiến với nhau” (Gc 4,3).

Xin Chúa ban cho chúng ta, những môn đệ của Đức Giêsu niềm xác tín nền tảng, đó là: “Ở đâu có  yêu thương, ở đó có Thiên Chúa”, và quyết tâm ở lại trong Đức Giêsu,  với Đức Giêsu mọi nơi mọi lúc, mà không tìm kiếm xa gần những gì không thuộc về Đức Giêsu, như lời Ngài cầu xin với Chúa Cha: “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con trước khi thế gian được tạo tành” (Ga 17, 24).

Vâng, với người môn đệ, thì chỉ một mình Đức Giêsu là Đấng họ đi tìm, và “vinh quang của Đức Giêsu” là vinh quang duy nhất suốt đời họ chiêm ngưỡng, mà không bao giờ là “cái tôi” danh lợi thú, “cái mình” kiêu căng, quyền lực. mục lục

Jorathe Nắng Tím

KẺ THEO ĐẤNG LÀM ĐẦU

Đoạn văn Tin Mừng Chúa nhật hôm nay bao gồm lời loan báo thứ hai về cuộc Khổ nạn và phần đầu của một diễn từ tạp lục (có chen vào hai cảnh nhỏ) kéo dài cho đến Mc 9,50. Lời loan báo thứ hai này gần giống lời loan báo thứ nhất đã được diễn giải trong bài trước, nên nay ta chỉ tìm hiểu hai cảnh nhỏ. Chúng xem ra bổ túc nhau và mỗi cảnh diễn tiến trong hai thì: chính sự kiện và một câu nói của Đức Giê-su. Trước tiên là cuộc tranh luận giữa các môn đồ về kẻ lớn nhất và câu Đức Giê-su đáp trả về người đầu hết / cuối hết; đoạn đến cử chỉ Đức Giê-su bồng một em bé và lời nói (về việc đón tiếp) giải thích cử chỉ này.

Trở Thành Người Rốt Hết

 “Khi về tới nhà” (c.33). Chúng ta đi vào vòng thân mật của nhóm Tông đồ đang được Đức Giê-su huấn luyện. Đây là thời kỳ “nhà tập” của họ, “Người đang dạy họ”, Người muốn giúp họ tiến triển khởi từ các tranh luận của họ. Tiếc thay! Họ vẫn hoàn toàn tối dạ. Họ vẫn không hiểu những gì Đức Giê-su giải thích cho mình. Phải chăng vì quá khó? Đúng thế, nhưng cũng vì họ bận tâm đến chuyện khác: vấn đề uy thế và địa vị: “Các ông cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả”. Thấy mình thành các đại thần của Đấng Mê-si-a-Vua tương lai làm họ say sưa.

Chớ nên chê việc suy niệm về các chuyện tham vọng và ngôi thứ ấy, dẫu các chuyện này thật khốn nạn khi người ta nhớ lại đó là nhóm của Đức Giê-su, một Đức Giê-su bấy giờ đang nỗ lực cho thấy người ta phải dùng con đường khó khăn nào để cứu mạng sống mình và cứu kẻ khác. Điều đó chứng tỏ chẳng ai thoát tránh khỏi tham vọng, dẫu năng lui tới với Đức Giê-su. Quyền lực là bản năng mạnh mẽ nhất và dai dẳng nhất trong ba bản năng của con người mà (hai bản năng kia là sinh tồn và truyền sinh). Biết bao người thoạt đầu rất đơn sơ dần dần ngây ngất trước cái chức “phụ trách” dù là thật nhỏ. Như một cha xứ muốn làm “thầy cả” (chuyện chi cũng là thầy cả!) của giáo xứ mình, một bề trên tự coi mình như Thiên Chúa tối cao, một chủ tịch hội này hay hội kia đoạt hết mọi trách nhiệm.

Tuy nhiên, Tin Mừng phải là một thuốc giải độc hữu hiệu. Khi mạc khải cho chúng ta các ưa thích của Đức Giê-su, Tin Mừng mạc khải cho chúng ta các ưa thích của Thiên Chúa. Không thể không thấy Đức Giê-su chê ghét ba điều: giả hình, bạc tiền và tham vọng. Đến để phục vụ, Người năng lặp đi lặp lại chuyện đó, Người mạnh mẽ cảm thấy tham vọng là ung thư của phục vụ. Người ta không thể tự mãn mà lại quan tâm tới tha nhân, đó là cái chắc. Nhưng đặc biệt, thói kiêu căng chắc chắn làm hỏng cái mà người ta còn muốn gọi là tận tụy.

Trộn lẫn hai ước vọng này, phục vụ và thống trị, là điều quá gian xảo đến nỗi Đức Giê-su phản ứng mạnh mẽ. Đây chẳng còn là một cuộc tranh luận bình thường, thành thử Người ngồi xuống, tập họp Nhóm Mười hai lại và phát biểu nguyên tắc Tin Mừng không thể nào quên, nguyên tắc đặt một khoảng cách tuyệt đối giữa ý chí quyền lực và thái độ tận tụy: “Ai muốn đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và phục vụ mọi người.”

Muốn làm đầu, việc đó không đáng kết tội, ngược lại là khác! Phải có những thủ lãnh. Các kinh nghiệm về đồng quản và tự quản nhanh chóng cho thấy rất khó khăn trong việc đưa ra một cái gì hữu hiệu nếu chẳng có những người biết tổ chức cuộc sống chung và tổ chức công việc hơn những người khác, nhất là rất khó khăn trong việc điều hành một cuộc bàn thảo cần thiết hầu tiến đến một quyết định cũng cần thiết cuối cùng. Các thủ lãnh ấy là một cơ may cho mọi nhóm, trong Giáo Hội cũng như bất cứ nơi đâu. Một số rõ rệt có những khả năng để làm việc này. Khi được người chung quanh hay một thẩm quyền cao hơn chỉ định mà trốn tránh là ích kỷ, là hèn nhát trước việc hiến thân mà cuộc thăng chức này sẽ đòi hỏi. Tuy nhiên, Đức Giê-su đòi kẻ “làm đầu” trước hết phải thực hiện trong lòng mình một chuyện: không được chịu thua bản năng quyền lực và ngây ngất trước quyền hành: “Phải làm người rốt hết”. Ai muốn làm đầu, phải hầu thiên hạ! Người nâng sự điên rồ đó lên thành nguyên tắc. Và để chắc chắn ta sẽ không tìm một kiểu tránh thoát, Người xác định: “làm kẻ rốt hết tất cả, làm kẻ phục vụ mọi người”. Rồi đây, Người còn lấy chính mình làm mẫu mực: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (10,44-45). Hiến dâng mạng sống! Nếu làm thế, các thủ lĩnh có thể là hình ảnh mạnh mẽ nhất về Đấng Làm Đầu đích thực.

Đón Tiếp Kẻ Nhỏ Hèn

Câu chuyện đứa trẻ được đặt giữa các môn đệ xem ra minh họa cuộc đối thoại đi trước. Các Tông đồ phải phục vụ cách khiêm tốn, mà cơ hội tốt nhất để chứng tỏ tinh thần này chính là lưu tâm đến hạng nhỏ bé trong xã hội. Mà thời Đức Giê-su, trẻ nhỏ không mấy được coi trọng. Ở đây cũng như nhiều chỗ khác, chúng chẳng được xem như kiểu mẫu về sự vô tội hay đơn sơ đâu, nhưng chính là điển hình của cái không quan trọng, không đáng kể, vì thế chẳng cần lưu ý. Việc Đức Giê-su quan tâm đến các trẻ nhỏ có thể đem đối chiếu với thái độ của Người đối với hạng thu thuế và gái đĩ: thái độ mạc khải một điều rất tuyệt về Thiên Chúa. Đó là Nước Trời được trao ban cách nhưng không cho tất cả những gì bị bỏ rơi, khinh bỉ, mà chẳng để ý đến nhân đức công nghiệp; đó là lời mời dự tiệc thiên quốc được dành cho kẻ nghèo khó, bệnh hoạn, tật nguyền, cho hết những ai chẳng có gì để trả lại (x. Lc 14,13-14.21). Ý nghĩa nguyên thủy và sâu xa của cử chỉ Đức Giê-su ẵm lấy một em nhỏ là thế.

Người chẳng bao giờ bỏ qua một cơ hội để kéo môn đệ Người và chúng ta khỏi thói kiêu căng. Người như muốn nói: hãy luôn tìm cách sống khiêm tốn và đơn giản, bằng việc đón tiếp trẻ nhỏ chẳng hạn. Việc Người ẵm lấy nó, đặt nó ở chỗ nổi bật rồi ôm hôn nó là một cơ hội tốt để chúng ta tự vấn về cách thức chúng ta đón tiếp hạng này. Đó không luôn dễ dàng. Vì chúng xinh đẹp và duyên dáng, nên ta thường coi chúng như đồ chơi; hay vì chúng bẩn thỉu và nghịch ngợm, nên ta thường xua đuổi chúng nhân danh sự yên tĩnh của mình.

Trẻ con cần nguời lớn. Nó cảm nghiệm sự lệ thuộc này cách đơn sơ nhất đời và, ngay cả khi nó đặt ra đủ thứ câu hỏi khiến ta khó chịu, thì thường không phải do dã tâm. Đón tiếp một trẻ nhỏ nhân danh Đức Giê-su đòi hỏi tính kiên nhẫn, trí thông minh đầy óc sư phạm và lòng thương mến. Chẳng phải như thế mà Đức Giê-su đã đón tiếp các môn đệ Người sao ? Và chớ quên rằng chính khi chiến đấu chống thói kiêu căng mà Đức Giê-su nhắc tới việc tiếp đón các trẻ nhỏ. Những giây phút sống đơn sơ như thế giải thoát ta khỏi sự trịnh trọng hay lối bận rộn hơi kiêu kỳ.

Vậy là Đức Giê-su đã trả lời rõ rệt cho chuyện các môn đệ tranh cãi lúc đi đường: “Ai là kẻ lớn nhất”. Tìm kiếm vinh dự là điều trơ trẽn nơi những kẻ theo Đức Giê-su, lúc Người đang bước vào con đường khổ nhục của cái chết. Làm “đầy tớ” mọi người, mở cửa pháo đài Giáo Hội cho những kẻ hèn kém nhất, những kẻ nghèo đói nhất, đó là “dịch vụ” Đức Giê-su truyền cho các môn đệ phải thi hành. Để thêm trọng lượng cho giáo huấn này, Đức Giê-su kết luận bằng từ “đón tiếp”. Người là Đấng Chúa Cha sai đến. Đón tiếp Người qua những ai nhỏ bé là đón tiếp chính Cha Người. Thiên Chúa mặc hình dáng một trẻ nhỏ, đó là sứ điệp bất ngờ, độc đáo của trang Tin Mừng đẹp đẽ hôm nay.

Vua thánh Lu-y (Louis) nước Pháp (1214-1270) không những là một con người có lòng đạo đức (siêng năng dự lễ mỗi ngày, ăn chay kiêng thịt suốt năm), khiết tịnh (tránh chuyện vợ chồng suốt mùa Chay và mỗi ngày thứ 6), vua còn tỏ lòng thương người cách đặc biệt. Người thành lập nhiều bệnh viện, thăm viếng kẻ đau yếu, và cũng giống như quan thầy của mình là thánh Phanxicô, người chăm sóc ngay cả những người bị bệnh phong hủi. Mỗi chiều thứ bảy, thánh nhân có thói quen rửa chân cho một số trong họ, và mời họ ăn cơm do chính người thù tiếp. Vị tể tướng bực bội vì thói quen này, bởi thấy nhà vua quá hạ mình và có thể gặp nguy cơ lây nhiễm. Thấy vậy, lần kia thánh Lu-y hỏi ông: “Một là bị bệnh phong hủi, hai là phạm một tội trọng, ông chọn đàng nào?” Viên quan trả lời: “Hạ thần thích 30 tội trọng hơn là bị phong hủi”. Đức vua trả lời: “Ngươi dại dột quá. Người không biết rằng chẳng có bệnh nào ghê tởm bằng tội trọng sao, vì phạm tội trọng thì giống hệt ma quỷ!” mục lục

Lm. Phêrô Phan Văn Lợi

LIÊN ĐỚI TÂM LINH

[Niệm ý Mc 9:30-37 ≈ Mt 17:22-23; 18:1-5; Lc 9:43-48]

Chúa Giê-su nhân lành và chí thánh
Nhưng bị nộp vào tay người đời này
Bị giết chết như một kẻ bất chính
Nhưng Ngài đã sống lại sau ba ngày.
Những chuyện cần thì không thèm chú ý
Lo cãi nhau ai là người lớn hơn
Điều quan trọng là chân thành phục vụ
Mà Chúa muốn người ta phải quan tâm.
Muốn đứng đầu, phải làm người rốt hết
Chịu hy sinh và phục vụ mọi người
Phải đơn sơ, thật thà như trẻ nhỏ
Vui hay buồn cũng vẫn nhoẻn miệng cười.
Nếu ước muốn dấn thân phụng sự Chúa
Hãy chuẩn bị chịu thử thách
Hãy kiên trì, giữ lòng cho ngay thẳng
Đừng bấn loạn khi khốn khổ, hiểm nguy. [*]
Ai tiếp đón trẻ nhỏ vì danh Chúa
Đó chính là tiếp đón Chúa Giê-su
Tiếp đón Ngài là tiếp đón Thánh Phụ
Sự liên đới tâm linh thật lạ kỳ! mục lục

Thomas Aq. Trầm Thiên Thu

[*] Hc 2:1-2.

Với mục đích để Lời Chúa được loan truyền và thông tin Giáo hội được lan tỏa, Legio Mariæ sẵn lòng để các tổ chức và cá nhân sử dụng lại tin bài đã đăng trên báo giấy và báo mạng legiomariævn.com của mình.

Tuy nhiên, vì đức công bằng và sự bác ái, xin quý vị vui lòng ghi đầy đủ nguồn như sau: “Theo Đạo Binh Đức Mẹ, website: legiomariævn.com”.

Ngoài ra, nếu chia sẻ bài lên mạng xã hội (Facebook, Twitter…), đề nghị dùng đường dẫn gốc trên website của Đạo Binh Đức Mẹ.

Tin liên quan