SUY NIỆM CHÚA NHẬT 2 THƯỜNG NIÊN NĂM C

18-01-2025 164 lượt xem

Lời Chúa: Is 62,1-5; 1Cr 12,4-11; Ga 2,1-11

Mục Lục

HỌC HỎI PHÚC ÂM – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

HÔN ƯỚC THẦN LINH – + ĐTGM. Giu-se Vũ Văn Thiên

NĂM THÁNH CÓ ĐỨC MẸ DẪN TỚI NGUỒN HY VỌNG – Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng

ĐỨC MẸ LÀ LẼ CẬY TRÔNG – Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

THẾ GIAN HẾT RƯỢU RỒI! – Lm. Yuse Mai Văn Thịnh, DCCT

HAI DẤU CHỈ Ở CANA – Lm. Phêrô Phan Văn Lợi

TÌNH MÃI MẶN NỒNG – Lm  Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

PHÉP LẠ CHÚA LÀM CHO MỖI GIA ĐÌNH - Lm. Giuse Phạm Đình Ngọc, S.J

HỌC HỎI PHÚC ÂM (Ga 2,1-11)

CÂU HỎI TÌM HIỂU

1. Trong toàn bộ Tin Mừng Gioan, có mấy đoạn kể chuyện về Đức Giêsu và Mẹ Ngài?

2. Toàn bộ Tin Mừng Gioan có bao nhiêu “dấu lạ”? Đọc Ga 2,1-11; 4,43-54; 5,1-18; 6,1-15; 9,1-41; 11,1-57.

3. Trong bài Tin Mừng này, có mấy cuộc đối thoại cả thảy?

4. Tin Mừng Gioan có nói đến tên Đức Maria không? Trong Tin Mừng này, Đức Mẹ được gọi là gì? Khi nghe Đức Giêsu gọi Mẹ là Bà, bạn thấy có bình thường không? Xem Ga 2,4; 19,26; 4,21; 20,15.

5. Trong Ga 2,4 Đức Giêsu cho thấy giờ của mình chưa đến. Trong Tin Mừng Gioan, giờ để chỉ những biến cố nào trong đời Đức Giêsu? (Ga 12,27-28; 13,1; 16,32).

6. Bạn nghĩ gì về thái độ của Đức Mẹ? Đọc Ga 2,5.

7. Bạn nghĩ gì về thái độ của những gia nhân? Đọc Ga 2,7-9.

8. Đâu là ý nghĩa của dấu lạ đầu tiên của Đức Giêsu tại Cana?

GỢI Ý SUY NIỆM:

Qua dấu lạ ở Cana, Đức Giêsu đem đến điều gì cho đôi tân hôn và tiệc cưới của họ? Các cuộc hôn nhân trong xã hội chúng ta hôm nay đang thiếu gì? Làm sao để có được những phép lạ Cana mới trong các gia đình đang gặp khó khăn?

PHẦN TRẢ LỜI

1. Toàn bộ Tin Mừng Gioan chỉ kể hai câu chuyện trong đó có sự hiện diện của Đức Giêsu và Thân Mẫu của Ngài. Câu chuyện thứ nhất là về tiệc cưới ở Cana (Ga 2,1-11), tại đây Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên biến nước thành rượu, sau khi được Thân Mẫu gợi ý. Câu chuyện thứ hai diễn ra dưới chân thập giá, nơi Đức Giêsu chịu đóng đinh (Ga 19,25-27). Chính tại đây Ngài đã xin Thân Mẫu nhận lấy người-môn-đệ-mình-yêu làm mẹ của anh`. Như thế, Tin Mừng Gioan đã đặt Thân Mẫu của Đức Giêsu hiện diện ở hai thời điểm quan trọng: ở đầu và cuối sứ vụ của Ngài.

2. Tin Mừng Gioan gọi các phép lạ là “dấu lạ” (sêmeion). Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên ở tiệc cưới Cana khi biến nước thành rượu (Ga 2,11). Ngoài ra Ngài còn làm những “dấu lạ” khác được kể trong Tin Mừng này: Đức Giêsu chữa con một viên quan của vua ở Cana (Ga 4,43-54), chữa người bất toại ở hồ nước Bết-da-tha (Ga 5,1-18), làm cho bánh hóa nhiều ở bên kia biển hồ Tibêria (Ga 6,1-15), chữa một người mù từ thưở mới sinh (Ga 9,1-41), và hoàn sinh anh Ladarô ở Bêtania gần Giêrusalem (Ga 11,1-57). Có người còn coi chuyện Đức Giêsu đi trên mặt nước của biển hồ Tibêria cũng là một dấu lạ (Ga 6,16-21). Như vậy cả thảy có sáu hay bảy dấu lạ trong Tin Mừng Gioan. Dấu lạ vừa là dấu hiệu báo về một thực tại lớn lao sắp đến, vừa cho thấy thực tại ấy đã bắt đầu có mặt rồi.

3. Trong bài Tin Mừng hôm nay, có thể nói có bốn cuộc đối thoại, dù không nhất thiết hai bên đều phải lên tiếng đối đáp nhau. Đối thoại 1 giữa Thân Mẫu và Đức Giêsu (Ga 2,3-4). Đối thoại 2 giữa Thân Mẫu với những người hầu bàn (Ga 2,5). Đối thoại 3 giữa Đức Giêsu với những người hầu bàn (Ga 2,7-8). Đối thoại 4 giữa người quản tiệc với chú rể (Ga 2,9-10).

4. Tin Mừng Gioan không gọi Đức Mẹ là Maria, chỉ gọi Mẹ là “Thân Mẫu của Đức Giêsu” hay “Thân Mẫu của Người” (Ga 2,1.3.5.12; 19,25-26). Lối gọi này nhấn mạnh đến tương quan giữa Đức Mẹ và Con của mình. Hơn nữa, khi nói chuyện với Mẹ Maria, Đức Giêsu có lối xưng hô đặc biệt. Ngài gọi Đức Mẹ là “Bà” (gunai, woman, x. Ga 2,4; 19,26). Ngài cũng gọi người phụ nữ Samaria và chị Maria Mácđala là “Bà” (Ga 4,21; 20,15). Ngày nay chúng ta có thể ngạc nhiên khi thấy Đức Giêsu gọi Mẹ mình là Bà, một lối gọi có vẻ xa lạ và lạnh lùng, nếu không muốn nói là thiếu tôn kính (x. Mt 15,28; Lc 22,57). Thật ra, vào lúc Đức Giêsu hấp hối trên thập giá, đau khổ vì sắp phải chia tay người Mẹ thân yêu, trong tâm tình hiếu thảo đối với mẹ mình, Đức Giêsu cũng đã gọi Mẹ là “Bà” (Ga 19,26). Vậy lối xưng hô “Bà” không phải là do thiếu kính trọng hay yêu mến. Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận rằng trong các tác phẩm văn chương Do-thái hay Hy-lạp, không bao giờ thấy con gọi mẹ là “Bà.” Khi gọi Mẹ mình là “Bà,” Đức Giêsu tạo một chút khoảng cách với người đã sinh ra mình. Ngài cho thấy tình mẹ con ruột thịt phải nằm trong một tương quan lớn hơn và nền tảng hơn nhiều, đó là tương quan giữa Đức Giêsu là Con Một đối với Thiên Chúa Cha (x. Lc 2,49).

5. Khi Đức Mẹ báo cho Đức Giêsu biết về tình trạng hết rượu của tiệc cưới (Ga 2,3), Ngài có vẻ muốn từ chối, và đưa ra lý do: “Giờ của con chưa đến” (Ga 2,4). Đây là một câu khó hiểu trong bối cảnh này. Theo Tin Mừng Gioan, Giờ (hôra) là một từ mang ý nghĩa đặc biệt. Giờ thường dùng để chỉ toàn bộ biến cố Vượt Qua của Đức Giêsu: chịu chết trên thập giá, được phục sinh, và được tôn vinh. Nói cách khác, Giờ để chỉ việc Ngài từ bỏ thế gian này mà về lại bên Cha, sau khi đã hoàn thành sứ mạng (Ga 13,1). Nếu hiểu Giờ theo ý nghĩa đó, thì ở tiệc cưới Cana, Giờ của Ngài chưa đến (xem thêm Ga 7,30; 8,20). Tuy nhiên, trước khi đến Giờ bày tỏ vinh quang trọn vẹn và chung cục sau Phục sinh, Đức Giêsu đã bắt đầu bày tỏ vinh quang của Ngài qua các “dấu lạ”. Qua dấu lạ Cana, các môn đệ đã thấy vinh quang của Đức Giêsu và đã tin vào Ngài (Ga 2,11; x. 1,14).

6. Câu trả lời của Đức Giêsu “Chuyện đó can gì đến bà và con?” (Ga 2,4) cho thấy có vẻ Ngài không muốn liên can đến chuyện hết rượu của đám cưới, dù Ngài biết thân mẫu muốn tiệc cưới được kết thúc một cách tốt đẹp. Ngài đắn đo vì Ngài mới bắt đầu sứ vụ được Cha trao. Đức Giêsu chỉ muốn làm điều hợp với ý muốn của Đấng sai Ngài. Đối với Mẹ Maria, khi nghe câu trả lời và giọng nói của Đức Giêsu, Mẹ cảm thấy đó không phải là một lời từ chối dứt khoát, nên Mẹ vẫn hy vọng Con mình sẽ làm một điều gì đó cho tiệc cưới. Chính vì thế ngay sau đó, Mẹ đã dặn dò các người hầu tiệc: “Người bảo gì, các anh cứ làm” (Ga 2,5). Mẹ Maria đã tin vô điều kiện vào lời của Con mình.

7. Nơi dấu lạ đầu tiên của Đức Giêsu trong Tin Mừng Gioan, ta thấy có sự cộng tác tinh tế và hiệu quả của Đức Mẹ. Tuy nhiên, chúng ta không quên sự cộng tác của các người hầu tiệc. Họ đã vâng lời Đức Mẹ để rồi vâng lời Đức Giêsu (Ga 2,5). Họ vâng lời Đức Giêsu khi vất vả đổ một lượng nước rất lớn cho đầy sáu chum đá (Ga 2,6-7). Hơn nữa, họ còn vâng lời Ngài khi múc nước trong chum để đem cho ông quản tiệc nếm (dù lúc ấy có thể họ chưa biết nước đã biến thành rượu ngon).

8. Dấu lạ đầu tiên của Đức Giêsu đã đem lại niềm vui trọn vẹn cho đám cưới, tránh được sự xấu hổ vì hết rượu đãi khách. Khi các môn đệ nhận ra dấu lạ này, họ đã thấy vinh quang của vị Thầy Giêsu mà họ mới theo, và họ đã bắt đầu tin. Lượng rượu hảo hạng và đầy sáu chum tới miệng, là dấu hiệu cho thấy thời kỳ thiên sai đã đến, một thời kỳ phong phú dư dật. Đức Giêsu đã làm một dấu lạ trên thiên nhiên, khi dùng quyền năng để biến nước thành rượu. Ngài đi ăn cưới, chung vui với đôi bạn trong một biến cố quan trọng của đời người. Gia đình nào cũng cần có sự hiện diện của Đức Giêsu và thân mẫu của Ngài, nhất là lúc khó khăn. mục lục

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

HÔN ƯỚC THẦN LINH

Sau lễ Hiển Linh và lễ Chúa Giê-su chịu phép Rửa, hôm nay, Phụng vụ lại giới thiệu với chúng ta một cuộc “thần hiện” thứ ba: đó là phép lạ tại tiệc cưới Ca-na. Quả vậy, khi thực hiện phép lạ này, Chúa Giê-su diễn tả quyền năng thiên linh của Người, và vinh quang Thiên Chúa cũng được thể hiện qua biến cố đó. Qua phép lạ làm cho nước biến thành rượu, Đức Giê-su khẳng định: Người đến trần gian để thiết lập một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của ân sủng và bình an. Cũng như nước với rượu hoàn toàn khác nhau, kỷ nguyên Người thiết lập khác xa với thời của Cựu ước.

Sự kết hợp gắn bó giữa Thiên Chúa và con người được so sánh với một hôn lễ. Cách diễn tả này đã có trong thời Cựu ước. Thiên Chúa yêu thương con người, không phải là tình yêu của ông chủ đối với đầy tớ; cũng không như một người thợ đối với tác phẩm mình làm ra. Thiên Chúa yêu thương con người đến “phát ghen”. Ngài mong muốn cho con người được hạnh phúc. Ai phản bội Ngài, cũng giống như người vợ hay người chồng phản bội bạn đời của mình vậy. Chúng ta có thể đọc thấy điều này trong ngôn sứ I-sa-i-a và nhất là ngôn sứ Hô-sê.

“Vì ngươi sẽ được Chúa đem lòng sủng ái, và Chúa lập hôn ước cùng xứ sở ngươi”. Bảy thế kỷ trước Chúa Giê-su, ngôn sứ I-sa-i-a đã say sưa chiêm ngắm cảnh huy hoàng của Giê-ru-sa-lem trong tương lai, khi Đấng Cứu tinh xuất hiện. Đó cũng là lúc Ít-ra-en được phục hồi, không còn cảnh hoang tàn như xưa nữa. Những hình ảnh được dùng để minh họa giúp chúng ta mường tượng một cuộc sống thanh bình, hạnh phúc chan hòa. Giê-ru-sa-lem và dân tộc Ít-ra-en sẽ là niềm vui cho Thiên Chúa.

Niềm vui và vinh quang ấy đã thành hiện thực trong tiệc cưới Ca-na. Thánh Gio-an là tác giả duy nhất thuật lại sự kiện này. Trong tác phẩm của mình, vị tác giả này rất “tiết kiệm” khi kể lại các phép lạ. Ông chỉ tường thuật bảy phép lạ của Chúa Giê-su mà ông gọi là “dấu lạ”. Mỗi dấu lạ đều diễn tả một khía cạnh trong sứ vụ của Chúa Giê-su và đều kèm theo một thông điệp quan trọng. Tác giả Phúc âm thứ bốn đã làm độc giả ngỡ ngàng khi tả lại việc Đức Giê-su và các môn đệ đi dự tiệc cưới. Qua sự kiện này, thánh Gio-an muốn khẳng định: Đức Giê-su là Thiên Chúa mang thân phận con người. Người là một Con Người như mọi người chúng ta, chỉ trừ tội lỗi. Người tôn trọng tất cả những gì là tốt đẹp và hợp pháp trong cuộc sống đời thường. Sự hiện diện của Người có sức thánh hóa mọi mối quan hệ, tình cảm và những niềm vui. Không có điều gì thuộc cuộc sống con người mà lại xa lạ đối với Người.

Nếu thánh Gio-an diễn tả một tiệc cưới, thì chúng ta lại thấy vai trò của cô dâu chú rể rất mờ nhạt, trong khi thông thường, hai nhân vật này là trung tâm của bữa tiệc và của mọi lời chúc tụng. Chính Chúa Giê-su là nhân vật chính trong trình thuật này. Phải chăng tác giả muốn ngầm giới thiệu với chúng ta: Đức Giê-su là Chú Rể. Người đến để dẫn đưa nhân loại sang một kỷ nguyên mới. Người thiết lập mối thân tình giữa Thiên Chúa và nhân loại. Nơi chính bản thân Người, là sự kết hợp kỳ diệu giữa nhân tính và thiên tính. Chính vì vậy, kết quả của dấu lạ Ca-na, theo thánh Gio-an, là: Đức Giê-su bày tỏ vinh quang của Người và các môn đệ tin vào Người. Đây là mục đích chính của dấu lạ và đây cũng là chủ ý của tác giả, khi thuật lại sự kiện này.

Nếu Đức Giê-su đã làm phép lạ năm xưa để tỏ bày vinh quang của Người, thì hôm nay, vinh quang Thiên Chúa vẫn tỏ hiện nơi cuộc đời chúng ta. Thánh Phao-lô đã khẳng định như thế trong Bài đọc II: Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung. Thánh nhân đã liệt kê những đặc sủng (tức là ân sủng đặc biệt, thể hiện qua những khả năng phi thường): ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn chữa bệnh, ơn làm phép lạ, ơn nói tiên tri, ơn phân định… Thiên Chúa vẫn tỏ hiện quyền năng và vinh quang của Ngài nơi chúng ta. Với thiện chí nỗi lực, chúng ta đang cộng tác với Ngài để làm cho hiệu quả của những ơn chúng ta đã lãnh nhận lan tỏa mọi nơi trong cuộc đời trần thế.

Sự kiện Ca-na có sự can thiệp của Đức Trinh nữ Ma-ri-a. Hôm nay, Đức Mẹ vẫn đang nói với chúng ta: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”. Quả vậy, lắng nghe và thực hiện ý Chúa, sẽ đem lại cho chúng ta bình an hạnh phúc. Hơn thế nữa, việc thực hiện ý Chúa sẽ đem lại những điều lạ lùng trong cuộc đời. mục lục

+ ĐTGM. Giu-se Vũ Văn Thiên

NĂM THÁNH CÓ ĐỨC MẸ DẪN TỚI NGUỒN HY VỌNG

Thánh Gioan không gọi "hiện tượng lạ" xuất phát từ Chúa Giêsu là "phép lạ", mà là "dấu lạ". Trọn sứ điệp Tin Mừng của mình, từ khi bắt đầu đời công khai đến khi hoàn tất cuộc đời trần thế của Chúa, thánh Gioan chỉ ghi nhận bảy dấu lạ: Biến nước thành rượu (2, 1-11); Chữa con trai quan cận vệ nhà vua (4, 46-54); Chữa người bất toại tại cửa Chiên Đền thờ gần hồ Bétsaiđa (5, 1-15); Hóa bánh ra nhiều nuôi dân (6, 5-13), Đi trên mặt nước (6, 16-21), Chữa người mù bẩm sinh (9,1-7), Khiến Ladarô sống lại (11,1-44). 

Mỗi dấu lạ là bài học hay ý nghĩa thần học rõ rệt. Tựu trung qua dấu lạ, thánh Gioan muốn chúng ta tuyên xưng: Chúa Giêsu không chỉ là người mà còn là Thiên Chúa thật. Chúa Giêsu uy quyền như Thiên Chúa uy quyền. Chúa Giêsu thống trị muôn vật như Thiên Chúa thống trị. Chúa Giêsu phép tắc như Thiên Chúa phép tắc. Chúa Giêsu trao ban tình yêu như Thiên Chúa trao ban...

Mặt khác, trọn sứ điệp Tin Mừng của mình, chỉ hai lần thánh Gioan ghi nhận sự hiện diện của Đức Maria. Nhưng cả hai lần đều rất quan trọng trong cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu: 

- Tiệc cưới Cana: Chúa khởi đầu sự xuất hiện công khai.

- Bên chân Thánh giá: Chúa kết thúc sứ mạng trần thế.

Thánh nhân không gọi tên Đức Mẹ, nhưng là "Mẹ của Chúa Giêsu". Chúa Giêsu cũng không gọi Đức Mẹ là "Mẹ" nhưng là "Bà". Đó là một trong những điểm thần học làm cho Tin Mừng thứ tư khác biệt các Tin Mừng khác. 

Tất cả những điểm thần học lý thú vừa nói, mang nhiều ý nghĩa. Bởi sứ điệp được trình bày trong Tìn Mừng này, không đơn thuần ghi nhận những biến cố, sự việc, nhưng chắt lọc suy tư được ôm ấp, được nghiền ngẫm về cuộc đời Chúa Cứu Thế, về tất cả những gì liên quan đến Ngài trong thời gian dài.

Qua những suy tư bằng trọn chiều sâu đã chín mùi ấy, thánh Gioan như nhắn gửi, những gì đã xảy ra trong đời sống của Chúa Kitô, cũng được và cũng cần được diễn ra trong Hội Thánh hiện tại. 

Đặc biệt, Hội Thánh cần noi gương Chúa Kitô, để Đầu thánh thiện, thân mình cũng phải thánh thiện. Vì thế, từ những kỷ niệm mang tính lịch sử và cứu độ xuất phát từ Chúa Giêsu, được sức mạnh Thánh Thần linh hứng, Tin Mừng thánh Gioan diễn tả xuyên qua những câu chuyện lịch sử ấy, ý nghĩa thần học phong phú, để Hội Thánh sống và sống dồi dào.

Tuy nhiên, nơi dấu lạ Biến nước thành rượu, dấu lạ thứ nhất mà Tin Mừng Chúa nhật thứ hai trình bày, thánh Gioan như muốn trao cho độc giả ý nghĩa lớn này: Chúa Giêsu bày tỏ chính Ngài là Đấng Mêsia của Thiên Chúa đã đến trần gian. Ngài là Đấng ban sự an nghỉ thật và sự sống dư dật cho bất cứ ai tin Ngài. Chính trong chiều hướng đó mà thánh Gioan ghi nhận ở cuối trình thuật: "Chúa Giêsu... đã tỏ vinh quang Người và các môn đệ Người tin Người".

Trong cái nhìn thần học thâm thúy ấy, Đức Maria của Tin Mừng thứ tư có chỗ đứng hết sức trang trọng. Đức Mẹ không chỉ làm Mẹ Chúa Cứu Thế mà còn có vai trò lớn trong công trình cứu độ của Chúa Cha ngang qua Chúa Giêsu. Trình thuật tiệc cưới Cana cũng thể hiện ý nghĩa ấy.

Cửa Năm Thánh 2025 đã mở. Và chúng ta, những Người Hành Hương đang tiến qua cửa ấy mang theo trọn niềm hy vọng vào tình yêu và sự cứu độ của Thiên Chúa. Chúng ta, những kẻ ra đi để tiến về Nhà Cha trong hy vọng. 

Con đường ta đi là nẻo đường thế gian, nhưng không đến đích thế gian mà vượt qua thế gian bằng hy vọng vươn tới chân, thiện, mỹ là trời cao, là siêu nhiên, là cõi phúc, là ơn gọi nên thánh, là chính cung lòng Thiên Chúa.

Chúng ta cần Đức Mẹ đồng hành. Đức Mẹ là lẽ cậy trông, là sự giáo dục chính đáng, là môi giới tin tưởng. Đức Mẹ nhẹ nhàng giới thiệu chúng ta cho Chúa Giêsu, giới thiệu mọi cảnh huống của cuộc đời mà chúng ta lâm vào như đã từng giới thiệu hoàn cảnh tưởng chừng bế tắc của đám cưới Cana xưa.

1. Đức Mẹ giáo dục chúng ta tín thác vào Chúa bằng chính tấm gương tin tưởng của Đức Mẹ. Đức Mẹ tin nên mới ngỏ: "Họ hết rượu rồi". Trước thái độ cứng cỏi của Chúa: "Tôi với bà có can chi? Giờ tôi chưa đến", không làm Đức Mẹ nao núng, nhưng rất tự tin và bình tĩnh nói với gia nhân: "Người bảo gì, các anh cứ làm theo", cho thấy Đức Mẹ hoàn toàn tin tưởng vào Chúa. Lòng tin nơi Đức Mẹ là đức tin mạnh mẽ.

Hành trình của năm Thánh, hơn thế, hành trình của cuộc đời, học lấy bài học đức tin nơi Đức Mẹ, chúng ta tín thác vào Chúa mọi hoàn cảnh, mọi thời gian sống, suy tư, dự tính, nỗ lực... của bản thân. Xin Đức Mẹ đồng hành, đỡ nâng và dạy chúng ta đừng rời xa lòng tín thác vào Chúa, để từ nay đến muôn đời, ta hưởng nhờ tình yêu và sự cứu độ mà Chúa dành cho.

2. Đức Mẹ dạy chúng ta vững tin và thực hành Lời Chúa, nhanh nhẹn vâng theo thánh ý Chúa. "Người bảo gì, các anh cứ làm theo" là gia sản quý giá Mẹ chúng ta để lại. Nếu ngày ấy, gia nhân không nghe lời dạy của Chúa đổ đầy nước, dấu lạ đã không diễn ra. Vì không nghe cũng là không tin. Nhưng họ vâng lời Đức Mẹ: tin Chúa, thi hành thánh ý Chúa trọn vẹn. Hạnh phúc tiếp tục, và tiếp tục ở mức độ cao nhờ tin, lắng nghe và thi hành ý Chúa.

Noi gương Đức Mẹ, chúng ta tự trang bị cho mình sự vâng phục thánh ý Chúa tuyệt đối và không bao giờ lay chuyển. Càng đối diện khó khăn, càng mở Lời Chúa, nhất là mở sách Tin Mừng để nghiền ngẫm, để thấm thía thánh ý Chúa và sống thánh ý ấy trọn vẹn. Có rất nhiều lời của Kinh Thánh và lời của Tin Mừng trao cho ta sức mạnh, sự ủi an để ta vượt lên mọi thách đố, mọi cám dỗ trong đời, giúp ta tiến xa về phía Chúa như Đức Mẹ đã đạt được.

Ước mong hồng ân năm Thánh càng khiến chúng ta yêu mến Chúa như Đức Mẹ, tin tưởng và cậy trông Chúa hoàn toàn như Đức Mẹ! mục lục

Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng

ĐỨC MẸ LÀ LẼ CẬY TRÔNG

Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy bất an, bất ổn. Súng chưa ngừng nổ, đạn tiếp tục rơi, vũ khí giết người hàng loạt đang rình rập đe dọa con người, khiến cho lòng người xao xuyến, đức tin bị thử thách. 

Lòng người vốn bất an nên sinh ra bất hòa, bất mãn, bất bình, bất nhân, bất nghĩa, bất cần đời….bao nhiêu là chữ “bất”, dẫn đến các cuộc khủng hoảng về chính kinh tế, chính trị, tài chính v..v… nhất là khủng hoảng về gia đình: số người lập gia đình rồi ly dị ngày càng gia tăng; nhiều người trẻ không muốn lập gia đình; một số người chủ trương nếu thích nhau thì cứ sống chung với nhau, đến khi nào không thích nhau nữa thì chia tay, cần gì mà phải cam kết chung sống chung trọn đời.

Cuộc sống gia đình quả là rất khó khăn: Ngày mới cưới, tình yêu vợ chồng thắm nồng như ly rượu tân hôn. Nhưng chẳng bao lâu sau, rượu nhạt tình phai, thậm chí còn thiếu rượu. Tình yêu thủy chung, luôn cho đi mà không hề mệt mỏi, không ngừng nhường nhịn và tha thứ cho nhau. Một tình yêu như thế ở thời nay quả là một phép lạ.

Chúa là Tình Yêu

Thiên Chúa yêu thương con người bằng một tình yêu hào phóng khi tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa. Ngài cũng yêu con người bằng tình yêu cứu chuộc, khổ đau vì yêu. Ngài đã dùng nhiều hình ảnh như tình phụ tử, tình mẫu tử, nhất là tình phu thê để diễn tả tình yêu của Ngài đối với con người, giúp con người hiểu được phần nào mà sống trung thành và đáp đền cho xứng như đoạn trích Sách Tiên tri I-sai-a hôm nay. Thiên Chúa “tỏ tình” với con người và nói: “Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ” (Is 62,5).

Nhìn về quá khứ, I-sai-a hiểu rằng lưu đày là hình phạt xứng đáng đối với tội bất trung của dân. Nhưng với phút hiện tại, tác giả cảm nhận được tình yêu nồng nàn của Chúa dành cho dân, dù dân đã bội nghĩa bất trung nhưng Chúa vẫn một lòng yêu thương gắn bó. Ngài đã cứu họ khỏi cảnh khốn cùng: “Chẳng còn ai réo tên ngươi là ‘đồ bị ruồng bỏ’, xứ sở ngươi hết bị tiếng là ‘phận bác duyên đơn’” (Is 62,3). Chẳng những thế, Chúa còn yêu đem lòng sủng ái dân: “Ta đã một thời ngoảnh mặt chẳng nhìn ngươi, nhưng vì tình nghĩa ngàn đời, Ta lại chạnh lòng thương xót” (Is 54,8).

Thánh hóa mối tình của họ

Khi ấy có Tiệc cưới tại Ca-na. Đức Mẹ và Chúa Giê-su cũng được mời. Tiệc đang vui thì hết rượu. Đức Mẹ ghé tai nói nhỏ với Chúa Giê-su rằng: “Họ hết rượu rồi” (Ga 2,3). Nhưng Chúa Giê-su trả lời ngay: Thưa Bà “Việc đó đâu có liên can gì đến Bà và Con, Giờ Con chưa đến“.

Rõ ràng và quyết liệt như thế, bình thường, người nghe đã nản, hết hy vọng, thấy mình lỡ lời, sao lại can thiệp vào việc của người ta! Nhưng ơn Chúa Thánh Thần và đức Bác ái thúc đẩy, Đức Mẹ không nói nước đôi: Nếu Người bảo gì, hoặc: Có thể Người bảo gì, nhưng Mẹ nói xác quyết với niềm tin mạnh mẽ, Đức Mẹ nói với các người giúp việc: “Hễ Người bảo gì, thì phải làm theo” (Ga 2,5).  Và Phép lạ lẫy lừng chưa từng có, đã xảy ra ngay. Nước rửa tay bình thường của Cựu ước đã trở thành Rượu hảo hạng của Tân Ước. Lý do là dâu rể đã mời Đức Mẹ và Chúa Giê-su đến dự tiệc cưới. “Có Mẹ mọi lẽ đều xuôi”.

Đức Mẹ là Lẽ Cậy Trông

Cửa Năm Thánh được mở ra với khẩu hiệu Người Hành Hương Hy Vọng là lời mời gọi chúng ta sống niềm hy vọng. Thật ý nghĩa, bởi chính Mẹ là lẽ cậy trông của chúng ta trên đường dương thế.

Có Đức Mẹ mọi nhẽ sẽ xuôi là xác tín của những người hết lòng trông cậy vào tình mẫu tử của Đức Mẹ. Ngay từ khởi đầu, lịch sử Hội Thánh đã cho chúng ta thấy những ai biết chạy đến nương nhờ vào tình thương của Mẹ, núp dưới bóng Mẹ và tà áo của Mẹ đã trọ giúp, chở che trong mọi hoàn cảnh. Chúng ta hãy dâng những kế hoạch, dự tính tương lai cho Mẹ. Hãy đến với Mẹ bằng niềm xác tín “có Mẹ mọi nhẽ sẽ xuôi”.

Noi gương gia đình Ca-na, khi hết rượu, nghĩa là tình gia đình nhạt phai, giảm đằm thắm, hãy mời Đức Mẹ đến nhà, trình bày cho Mẹ những bất hòa của chúng ta. Khi chúng ta ở trong những tình cảnh khó khăn, gặp khó khăn mà chúng ta không biết cách giải quyết, hay khi chúng ta lo lắng đau khổ, hoặc thiếu niềm vui, hãy đến với Mẹ Ma-ri-a và thưa: “Mẹ ơi, chúng con hết rượu rồi, con biết làm sao đây, xin Mẹ giúp con với“. Hãy thưa với Mẹ. Chắc chắn Mẹ sẽ đến với Chúa Giê-su và nói: “Con ơi, nhìn xem người kia kìa, họ hết rượu rồi”. Và Mẹ sẽ trở lại và nói với chúng ta: “Hễ Người bảo gì, thì phải làm theo” (Ga 2,5).

Với lòng từ mẫu hay thương, Mẹ sẽ ngỏ lời cùng Chúa Giê-su, Con yêu dấu của Mẹ, miễn sao chúng ta hãy hết lòng tin tưởng chạy đến cùng Mẹ, để Mẹ làm chủ tình cảnh thiếu thốn của cuộc đời ta. Ở đâu có Mẹ thì ở đó mọi nhẽ sẽ xuôi.

Chúng ta hãy hướng về Mẹ Hy Vọng, xin Mẹ ghé mắt xót thương nhìn đến và dẫn dắt chúng ta, phận lữ hành trong niềm hy vọng luôn vững tin vào Chúa. Ở Ca-na, Chúa Giê-su đã làm phép lạ như thế: khi người ta thiếu rượu, Người đã làm cho có rượu dồi dào; và rượu ấy Người đã làm ra từ những chum nước lã. Phép lạ này ngày nay Chúa vẫn tiếp tục làm, cho những ai cầu xin với niềm cậy trông phó thác.

Đức Mẹ Hy Vọng, cầu cho chúng con. Amen. mục lục

Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

THẾ GIAN HẾT RƯỢU RỒI!

Anh chị em thân mến,

Dù chúng ta sống ở thời đại nào hay lớn lên trong bất cứ nền văn hoá nào, tiệc cưới luôn là bữa tiệc của niềm vui. Người ta ăn uống nhẩy múa để san sẻ niềm vui với cô dâu, chú rể và hai họ. Theo phong tục của người Do Thái thời Đức Giê-su thì tiệc cuới kéo dài bẩy ngày. Con số bẩy là con số tràn đầy, gợi lại cho chúng ta thời gian mà Thiên Chúa dùng để tạo dựng vũ trụ và vạn vật. Phải chăng theo tập tục này chúng ta nhận ra sự tràn đầy của đôi nam nữ khi kết hợp với nhau thành một gia đình!

Thế mà mới sang ngày thứ ba, họ đã hết rượu. Chi tiết và cách xử dụng phép lạ đuợc thực hiện vào ngày thứ ba khiến cho chúng ta nghĩ đến cụm từ ‘ngày thứ ba’ đuợc dùng để mô tả biến cố Phục Sinh của Đức Giê-su; như vậy rõ ràng có sự nối kết giữa sự việc xẩy ra hôm nay với Mầu Nhiệm Phục Sinh.

Trong tiệc cưới hôm nay có Đức Giê-su, Mẹ Người và các môn đệ của Người nữa. Không khí tiệc cưới thật náo nhiệt, mọi người vui vẻ, đã sang ngày thứ ba rồi nên ai cũng có chút hơi men; vì thế không khí càng sôi nổi hơn. Mẹ của Đức Giê-su ngồi chung với bà con và bạn của Mẹ. Mẹ nhìn sang bàn của Chúa và các môn đệ, thấy họ đang nghe Chúa kể truyện, Người như là nguồn vui cho cả bàn. Mẹ gật gù, mỉm cuời mãn nguyện về con mình.

Kể từ ngày Đức Giê-su rời nhà ra đi rao giảng. Mẹ đã chúc phúc cho Người và vẫn thường xuyên theo dõi các việc làm của Người. Cách đây không lâu, Mẹ nghe bà con kể việc Đức Giê-su chịu phép rửa bên bờ sông Gio-đan. Họ cho Mẹ biết, trong lúc Đức Giê-su đang chịu phép rửa thì tầng trời mở ra và có tiếng Chúa Cha phán “Này là Con ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng.” Họ thật sửng sốt khi chứng kiến việc kỳ diệu đó. Riêng Mẹ thì vẫn ghi nhớ các sự kiện, lời nói xẩy ra cho con mình vào sâu thẳm tận đáy lòng.

Đang chìm đắm trong mối suy tư về con của mình. Bỗng nhiên, Mẹ khám phá ra sự việc tiệc cưới đã hết rượu! Làm sao chuyện như thế này có thể xẩy ra được. Trước khi khai mạc tiệc cưới, họ đã chuẩn bị thật kỹ lưỡng; thế mà làm sao vẫn có thể xẩy ra như thế này. Thật là xấu hổ với nhà gái và bà con hai họ khi để cho tiệc cưới lâm vào hoàn cảnh này. Mọi người đều bối rối.

Trong lúc đó, sau khi kể truyện cho các môn đệ nghe, Đức Giê-su đứng dậy đi dạo chung quanh vườn tiệc và dường như không hề biết chuyện gì đã xẩy ra. Mẹ đứng dậy bước ra gặp Người với dự tính xin Chúa can thiệp. Bỗng nhiên, Mẹ cảm thấy duờng như có một tiếng nói vang lên trong tâm hồn của Mẹ như sau: “Mình đang bảo vệ con hay bảo vệ chính mình.”

Một mặt, lời của cụ già Simeon ‘một luỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà’ vẫn vang vẳng bên tai; mặt khác Mẹ lại nhớ đến điều mà Mẹ suy gẫm hằng ngày là xin Chúa cho Mẹ biết mở rộng con tim, mở rộng vòng tay để hành xử trong tự do và chấp nhận ý định của Thiên Chúa sẽ thực hiện trong và qua con của Mẹ. Vì thế, ‘đừng sợ nhưng hãy tin’ vẫn là châm ngôn trong cuộc sống của Mẹ.

Đến lúc đó, Mẹ biết ngay Giờ của con đã đến. Vì thế, Mẹ mạnh dạn bước đến nói với Đức Giê-su ‘Con ơi, họ hết rượu rồi.’ Mẹ ám chỉ đến tình trạng của đám cuới. Mẹ chỉ nói đuợc như thế.

Phần Đức Giê-su, sau khi nghe Mẹ thông báo về tình trạng hết ruợu của nhà đám, Người nhìn vào trong nhà, thấy rõ vẻ bối rối của họ, Người biết những gì đã xẩy ra. Tuy nhiên, quay sang Mẹ, Người ngập ngừng nói ‘Mẹ ơi’, rồi im lặng mới nói tiếp ‘thưa bà, chuyện đó có can hệ gì đến tôi và bà, giờ tôi chưa đến.’ Câu nói hơi khó nghe. Nhưng ở đây, Đức Giê-su muốn tỏ rõ lập trường về mối quan hệ giữa Đức Maria và Người. Liên hệ máu huyết tuy quan trọng, nhưng vẫn không bằng mối tương quan của những ai luôn tìm kiếm và thực hiện điều Thiên Chúa muốn. Vì vậy, vấn đề quan trọng là Người và Mẹ Người cần thi hành ý định của Thiên Chúa.

Dấu lạ này xẩy ra ở đầu sứ vụ. Việc của Người còn dài. Giờ Thiên Chúa tôn vinh Người chưa đến. Người cần thi hành ý muốn của Chúa Cha trước. Câu trả lời của Đức Giê-su ‘Giờ tôi chưa đến’ ở đây khiến Mẹ nhớ lại lời mà Người đã nói trong đền thờ là ‘Cha Mẹ không biết rằng con phải lo việc cha con sao’.  Mẹ tin vào sự lựa chọn của Đức Giê-su. Người chỉ muốn tùng phục và vâng nghe theo ý của Thiên Chúa mà thôi, nên Mẹ cũng chẳng cảm thấy buồn, bèn quay vào trong nhà và bảo những người giúp việc là “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.” Nghe Đức Maria nói thế, họ nhìn nhau ngạc nhiên. Còn Mẹ thì buớc vào nhà để Đức Giê-su đứng đó cầu nguyện với Cha Ngài là Abba.

Một lát sau. Mẹ nghe thấy Đức Giê-su sai bảo gia nhân đổ đầy nước vào sáu chum đá dành cho việc rửa tay trước khi nhập tiệc. Những người giúp việc nghe xong lịnh truyền của Chúa bèn cảm thấy bối rối. Bởi vì, nghi thức rửa tay trước khi nhập tiệc đã hoàn tất, giờ đây cần đổ đầy nước vào các chum để làm gì! Tuy vậy, họ cũng không hỏi lại Người. Chỉ biết vâng nghe và làm theo. Sau đó Đức Giê-su yêu cầu họ đem nuớc ra cho ông quản tiệc. Nước đã biến thành rượu mà ông quản tiệc không hề biết. Chỉ có những người cộng tác biết mà thôi!

Phần Mẹ, qua mẩu đối thoại hôm nay giúp chúng ta nhận ra niềm tin của Mẹ, luôn kiên cường, phó thác và hết lòng cậy trông, không nghi ngại.

Anh chị em thân mến,

Có một sự biến chuyển thật diệu kỳ ở đây. Đó là từ đầu trình thuật chúng ta chưa hề biết ai là chú rể. Theo tuc lệ của người Do thái thì chú rể là người cung cấp rượu. Đến lúc này, qua việc Đức Giê-su biến nuớc thành rượu chúng ta nhận ra ý của Thánh sử muốn công bố cho chúng ta biết Đức Giê-su không chỉ là rượu mới, mà còn là Chủ cung cấp ruợu cho muôn dân. Người là chủ bữa tiệc hoan lạc của ngày cánh chung, mà hiện nay chúng ta cùng nhau cử hành trong các Thánh lễ.

Tại Cana, trong tiệc cuới hôm nay, Đức Giêsu đã đến khai mạc ngày hoan lạc ấy. Ở Na-im, Người đã biến đổi những giọt nước mắt đau thương của người Mẹ khóc con thành những giọt lệ vui mừng khi cho con của bà sống lại. Ở Giê-ri-cô, Nguời đã biến tâm hồn ích kỷ, chỉ biết vơ vét của ông Da-kêu thành một tâm hồn quảng đại. Cho tới lúc đã bị đóng đinh trên thập giá, lúc mà thiên hạ tưởng như Người đã bó tay; nhưng chính trong lúc đó Người đã biến đổi kẻ trộm thành người khách đầu tiên dự tiệc thiên quốc. Và nhất là trong biến cố phục sinh, Nguời đã biến đổi sự chết thành sự sống.

Vì thế, qua dấu lạ hôm nay, Đức Giê-su đã tỏ bầy cho chúng ta nhìn thấy vinh quang của Người. Phải chăng đây cũng là cuộc hiển linh, cuộc tỏ mình để biến đổi tất cả những ai tin vào Người trở thành rượu thơm ngon hảo hạng, dành cho thế giới đang có nhiều sự đổi thay hôm nay.

Chúng ta đang sống giữa thế giới với nhiều sự đổi thay nhanh như chớp, người tín hữu cần đến với Đức Giê-su là nguồn của mọi sự đổi mới. Chỉ trong Người thì mọi sự thay đổi mới bền vững và có giá trị lâu bền. Hãy đến với Chúa, Người sẽ biến đổi cuộc sống tẻ nhạt, không chút đổi thay của chúng ta thành rượu ngon cho mọi bữa tiệc mà chúng ta cùng tham dự. Amen! mục lục

Lm. Yuse Mai Văn Thịnh, DCCT

HAI DẤU CHỈ Ở CA-NA

Ca-na bây giờ là một làng cách Na-da-rét 6km về phía đông bắc, nhô cao trên nó là gác chuông của một ngôi nhà thờ dòng Phan-xi-cô. Nhà thờ này đã được xây dựng để kỷ niệm “dấu chỉ” đầu tiên trong bảy dấu chỉ mà Tin Mừng Gio-an mô tả cho chúng ta. Như đã biết, “dấu chỉ” là từ mà tác giả Tin Mừng thứ tư dùng để gọi tên các phép lạ Đức Giê-su làm: chúng như bằng chứng cho thấy một ý nghĩa sâu xa hơn so với hành vi kỳ diệu và gây kinh ngạc mà Đức Giê-su hoàn tất. Nơi trình thuật “dấu chỉ” Ca-na, chúng ta thấy ý nghĩa sâu xa là ý nghĩa về Đấng Mê-si-a. Như câu chuyện rất giàu tính biểu tượng của Chúa nhật tuần trước (các chiêm tinh gia), kết cấu trình thuật của Gio-an hôm nay cũng khuyên chúng ta từ bỏ ý nghĩ muốn biết đích xác sự việc xảy ra như thế nào, trái lại hãy theo Gio-an mà lẩy ra ý nghĩa thần học sâu xa tiềm ẩn trong một sự việc cụ thể. Trong câu chuyện duy mình ông kể, cũng thấy xuất hiện Đức Ma-ri-a, mà Tin Mừng thứ tư không bao giờ nói rõ tên, một chỉ nêu tước hiệu: “thân mẫu Đức Giê-su” (được nhắc tới bốn lần trong bản văn này). Các sách ngoại/ngụy kinh, bao giờ cũng với một chút tò mò hay tưởng tượng, cho chúng ta biết sở dĩ Đức Giê-su tham dự bữa tiệc cưới này vì Đức Ma-ri-a là dì của chú rể.

Dấu Chỉ Tiệc Cưới

Chìa khóa thứ nhất dẫn vào lối đọc ý nghĩa biểu tượng của trình thuật là việc lặp đi lặp lại ngay từ đầu chữ “tiệc cưới”, một chữ vốn đã giàu ý nghĩa tiên trưng ngay từ Cựu Ước. Chìa khóa thứ hai là việc quy chiếu các nhân vật và hành động của họ về Đức Giê-su: “thân mẫu Người”, “các môn đệ Người.”

Đang giữa tiệc cưới thì sự cố xảy ra. “Thân mẫu Đức Giê-su nói với Người: Họ hết rượu rồi. Đức Giê-su đáp...”. Ta hãy dừng lại một chút trên cuộc đối thoại có phần lạnh lùng đã khiến các nhà chú giải và nhà thần học đổ không biết bao nhiêu mực: “Chuyện đó can gì đến bà và tôi.” Thật thế, câu nói có nhiều ý nghĩa khác nhau tùy như đã được thốt lên với âm điệu nào, nhưng có lẽ nó chẳng có ý bày tỏ sự bực mình mà chỉ diễn tả thái độ chống đối theo quy tắc lịch sự Đông phương là không muốn dấn thân vào một hành động đề nghị. Tước hiệu “bà” chẳng phải là dấu xa cách lạnh lùng song là một cách gọi nhằm nêu bật vai trò của Đức Ma-ri-a, E-va mới. Rồi đây nó sẽ được dùng lại với Người một lần nữa trong cảnh cuối cùng bên thập giá (“Thưa bà, này là con bà”).

Thoạt tiên, từ chối làm theo yêu cầu của thân mẫu, Đức Giê-su chỉ nhằm cho thấy điều kiện cần thiết để Người can thiệp, tức “giờ” của Người, còn chưa đến. Đối với Gio-an, “giờ” tiêu biểu là giây phút trọng đại, lúc Đức Ki-tô chịu tử nạn và được tôn vinh để trở thành nguồn ơn cứu rỗi cho nhân loại, để “ban rượu Giao ước mới” (Mt 26,27). Như thế, cử chỉ Người sắp thực hiện phải được coi như một “dấu chỉ”, nghĩa là như một mũi tên chỉ về kết cục vinh quang. Đức Giê-su không muốn làm một dấu lạ ngoạn mục để vừa lòng mẹ mình hay giải quyết một khó khăn thường nhật cụ thể. Qua các hành vi quyền phép và kỳ lạ của mình, Người chỉ muốn trao ban mạc khải về mầu nhiệm thần linh tối hậu của mình thôi. Chính dưới ánh sáng đó mà Đức Ma-ri-a hiểu ngay ý nghĩa đích thật trong câu trả lời xem ra tiêu cực của Đức Giê-su, thành thử đã không do dự nói với các kẻ giúp việc: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.”

Lúc ấy, trước đôi mắt sửng sốt của mọi người, xảy ra “dấu chỉ” lớn: sáu chum đá, mỗi chum đựng từ 80 đến 120 lít đã biến thành rượu nho thượng hạng đến độ khiến viên quản tiệc phải kinh ngạc thán phục. Chúng ta chớ nên quên rằng tiệc cưới trong Kinh Thánh là một biểu tượng lớn về Đấng Mê-si-a, về thời Mê-si-a, như được xác nhận qua cảnh đẹp như tranh của “bữa tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế” đã được I-sai-a phác họa (26,6) và được xác nhận bởi chính Đức Giê-su trong dụ ngôn Tiệc cưới của mình (x. Mt 22,1-14). Quả thế, Đấng Mê-si-a đã luôn được trình bày như Hôn phu của dân Người, và rồi đây Khải huyền Gio-an cũng nói vậy qua hình ảnh thời danh là tiệc cưới giữa Con Chiên và Giê-ru-sa-lem. Trong bài đọc thứ nhất của phụng vụ hôm nay, chính Thiên Chúa cũng được trình bày như Hôn phu: “Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ” (Is 62,4-5).

Dấu Chỉ Rượu Ngon

Nhưng sự dư thừa rượu ngon “làm phấn khởi lòng người” (Tv 104,15) còn là một biểu tượng khác của thời Mê-si-a theo các ngôn sứ (x. Am 9,13-14; Hs 14,7; Gr 31,12), đến độ truyền thống Do-thái giáo đã mô tả thời Đấng Mê-si-a tới như sau: bấy giờ mỗi cây nho sẽ có ngàn cành, mỗi cành sẽ có ngàn chùm, mỗi chùm sẽ có ngàn quả, mỗi quả sẽ sản xuất được 460 lít rượu nho! Do đó, rõ ràng là qua tất cả diễn tiến của trình thuật, “dấu chỉ” tiệc cưới Ca-na muốn chuyền cho chúng ta một sứ điệp thần học: Đức Ki-tô là “rượu ngon” và là “rượu cuối cùng”, nghĩa là hồng ân tuyệt hảo của Chúa Cha. Và chính Đức Ma-ri-a, người “đàn bà” hoàn hảo, E-va mới, giới thiệu Đức Ki-tô cho chúng ta trong sứ mệnh cứu thế của Người, trong “giờ” long trọng của Người, nguồn suối hân hoan và sức mạnh giải phóng khỏi mọi cái cũ. Việc nước hóa thành rượu trong bữa tiệc cưới ở làng quê thành thử tượng trưng cho việc Luật cũ chuyển qua Luật mới, Giao ước mới đậm đà như rượu thay thế cho Giao ước cũ là nước đã nên nhạt phèo.

Các chương tiếp theo trong Gio-an sẽ lần lượt cho thấy các kiểu thay cũ đổi mới như thế: Thân thể Đấng Phục sinh sẽ là Đền thờ thay thế đền thờ Giê-ru-sa-lem bằng đá (x. Ga 2); việc sinh lại bởi ơn trên tiếp sau việc sinh ra từ lòng mẹ (x. Ga 3); việc thờ phượng trong Thần Khí và Sự Thật thế chỗ việc thờ phượng ở Giê-ru-sa-lem hay ở Ga-ri-dim (x. Ga 4); Bánh Hằng Sống thay cho man-na thời Xuất hành (x. Ga 6); Mục tử nhân lành thay thế các mục tử giả hiệu (x. Ga 10); Sự Sống Thật tiếp sau sự sống tự nhiên (x. Ga 11); Điều răn mới là phải yêu thương đến hiến mạng như Thầy (x. Ga 13).

Tâm điểm của bản văn hôm nay do đó là chính Đức Ki-tô, nhưng Đức Ma-ri-a cũng ở bên cạnh Người với niềm tin trong suốt và toàn diện, xác tín rằng cần “làm theo tất cả những gì Người bảo.” Và “bà” sẽ lại xuất hiện đúng vào “giờ” của Người, dưới chân thập giá, sẵn sàng đón nhận lời cuối cùng của Con, sẵn sàng “làm theo những gì Người bảo” trong giây phút quyết định đối với tương lai của mình, tương lai làm Mẹ Giáo hội. Chính qua đó mà Đức Ma-ri-a trở nên gương mẫu của tín hữu đích thật, như điệp ca tuyệt vời của phụng vụ Anh giáo sau đây: “Hỡi Đấng mang Lời vĩnh cửu, nghe Lời vĩnh cửu, thực hành Lời vĩnh cửu, Bà là người trung tín và xót thương, hãy ngợi khen Chúa đi nào!”

Vậy là cuối cùng, Vương quốc mới, Đấng cứu độ chung quyết đã xuất hiện. Hết rồi những nghi thức bất toàn, những tập quán cũ kỹ, những lề luật trói buộc. Đức Ki-tô đã mang đến hân hoan, tự do, an bình. Vậy tại sao có biết bao Ki-tô hữu nhiều nơi vẫn bằng lòng với ách độc tài toàn trị, với sự hạn chế nhân quyền, trói buộc tự do, xuyên tạc sự thật, với chính sách khống chế tôn giáo? Hãy noi gương người tín hữu Rumani sau đây:

Lúc ấy, trong một buổi học tập chính trị, tay diễn giả vô thần lên tiếng thóa mạ Đức Ki-tô, gọi Người là tên bịp bợm. Ông ta nói: “Phép lạ Ca-na chỉ là trò ảo thuật của Giê-su. Tôi có thể làm lại việc ông đã làm!” Thế rồi diễn giả huơ huơ tay trên một ly nước để sẵn trên bàn. Đang lúc ai nấy chăm chú nhìn vào bàn tay của ông, thì một viên hóa chất bé tí từ trong tay áo ông rơi nhẹ vào ly và nước hóa nên đỏ thẫm. Vài tiếng vỗ tay lẹt đẹt. Diễn giả đắc chí: “Thấy chưa, ông Giê-su cũng chỉ lợi dụng lúc người ta sơ ý để bỏ một chất gì đó vào các lu nước mà thôi!” Bấy giờ một Ki-tô hữu lên tiếng: “Xin ông vui lòng uống ly rượu đó!” – “Xin lỗi, Không thể được! Đây là chất độc!” Người tín hữu hiền lành liền mạnh dạn nói: “Với rượu của Người, Đức Giê-su đã cho chúng tôi hai ngàn năm hoan lạc! Còn với rượu các ông, các ông đã đầu độc chúng tôi!” mục lục

Lm. Phêrô Phan Văn Lợi

TÌNH MÃI MẶN NỒNG

Trăm năm hạnh phúc là lời chúc không thể thiếu trong các tiệc cưới. Tình duyên mãi sắt son và mặn nồng là điều ai cũng ước mong khi bước vào đời sống hôn nhân – gia đình. Nói về chữ tình thì có lẽ tình hôn nhân đứng hàng đầu so với các thứ tình nhân loại khác như tình mẫu tử, phụ tử, bằng hữu… Đức Bênêđictô XVI đã nhận định: “Tình yêu này, tình yêu giữa người nam và người nữ, trong đó hồn xác kết hợp bất khả phân ly và mở ra cho con người một lời hứa hạnh phúc dường như không cưỡng lại được, có vẻ là kiểu mẫu của tình yêu; bên cạnh tình yêu này, thoạt nhìn mọi hình thức khác của tình yêu hầu như mờ nhạt đi” (TĐ. Thiên Chúa Là Tình Yêu số 2).

Gia đình là tế bào của xã hội, Khi đời sống hôn nhân – gia đình bị hạ phẩm thì xã hội sẽ bất ổn và nền đạo đức dễ bị băng hoại. Thánh Tông đồ dân ngoại đã dùng tình yêu đôi lứa làm dấu chỉ cho tình yêu của Đức Kitô dành cho Hội Thánh. Nhiều Ngôn sứ như Hôsê, Isaia cũng dùng hình ảnh tình yêu hôn nhân để diễn tả tình yêu của Thiên Chúa dành cho dân Người. “Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo người sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Chúa ngươi thờ” (Is 62,5).

Con Thiên Chúa đã làm người, chào đời trong một mái gia đình. Khởi đầu công cuộc rao giảng Tin Mừng và trong lần đầu tiên thể hiện quyền năng, Chúa Giêsu đã cứu giúp một đôi tân hôn khỏi bẽ mặt trước quan khách trong một tiệc cưới. Qua bài tường thuật của tin mừng thánh Gioan về phép lạ hóa nước thành rượu ngon của Chúa Giêsu tại tiệc cưới Cana chúng ta có thể rút ra đôi điều nhận định về đời sống hôn nhân gia đình:

Luôn có đó nhiều sự kiện hay biến cố dù không mong vẫn cứ đến, dù chẳng muốn vẫn cứ xảy ra. Đã tổ chức tiệc cưới thì việc chuẩn bị rượu cách đủ đầy và có dư là điều như tất yếu cahs riêng theo phong tục tập quán của người Do Thái. Tiệc cưới tại Cana có thể nói là đám tiệc không nhỏ. Chúng ta có thể luận suy điều này vì có người quản tiệc và số lượng chum nước dùng cho việc thanh tẩy (sáu chum nước, mỗi chum khoảng từ 80 dến 120 lít nước). Tiệc lớn, ắt gia đình phải khá giả. Nhà khá giả thì chuyện chuẩn bị rượu cho khách không phải là chuyện quá sức và dĩ nhiên ít khi bị xao lãng. Thế mà tiệc chưa tàn thì rượu đã hết!

Quả thật khi đã chung sống, chung mâm, chung nhà, chung… thì khó tránh được sự “chung đụng” do nhiều nguyên nhân khách quan hay chủ quan từ phía này hoặc phía kia. Nhìn nhận hiện thực cuộc sống để rồi chủ động tìm cách giải quyết, khắc phục, nghĩa là để duy trì và phát triển sự mặn nồng của tình yêu.

Ngoài nỗ lực của bản thân người trong cuộc là đôi bạn thì rất cần đến sự giúp đỡ của người thân và cả những người hữu quan miễn là họ vốn có tấm lòng và sự bén nhạy với các tình huống. Với tấm lòng nhạy bén, Mẹ Maria đã nhận ra sự cố thiếu rượu để rồi đến xin Chúa Giêsu ra tay can thiệp, cứu giúp. “Chuyện mình thì quáng, chuyện người thì sáng”. Sự thường người ngoài cuộc thì dễ có sự bình tâm để nhìn nhận vấn đề hơn. Tuy nhiên người ở ngoài này phải có cái tâm, cái tình và cái nhìn cách nào đó như tình người trong cuộc, nghĩa là xem chuyện người như chuyện của mình. Để cho tình yêu hôn nhân vững vàng trước những sóng gió bể đời, thì sự góp phần của mẹ cha, ông bà, thân bằng quyến thuộc là điều đáng trân trọng và đáng cầu mong. Xin đừng quên vai trò thiết yếu và hữu hiệu của người Mẹ đã nhận nhân loại chúng ta làm con khi Người đứng dưới chân thập giá năm nào (x.Ga 19,26-27). Đến với Mẹ thì chắc chắn chúng ta sẽ được Mẹ dẫn đến với Giêsu, Con của Mẹ là Đấng mà không có sự gì là không thể làm được.

Đã yêu thì không chờ cơ hội cũng chẳng đợi đến thời đến buổi. Dù chưa đến giờ bày tỏ vinh quang, nhưng vì yêu thương Chúa Giêsu đã ra tay giáng phúc cho đôi tân hôn hôm ấy. Tình yêu đòi hỏi chúng ta phải làm ngay hôm nay những gì ở trong tầm tay. Thiên Chúa là Tình Yêu và với Người thì mọi sự đều là hiện tại. Đã yêu hay sẽ yêu thì chưa hẳn là yêu. Động từ yêu cần phải luôn ở trong thì hiện tại.

Sự kiện Chúa Giêsu làm cho sáu chum nước tức là khoảng sáu đến bảy trăm lít nước lã hóa thành rượu ngon hảo hạng khiến chúng ta nhận ra một quy luật của tình yêu đó là phải nhiều và mặn nồng hơn mãi. Có lẽ nhiều đôi bạn như chưa nhận thức đủ quy luật này. Tương tự như sự học, chuyện tình yêu như con thuyền đi dòng nước ngược. Không tiến thì ắt lùi.

Để mặn nồng trong tình yêu thì lời căn dặn của Mẹ Maria quả là rất đáng lắng nghe và tuân giữ: “Người bảo gì thì hãy làm theo”. Thực thi lời Chúa dạy là điều tất yếu, nếu muốn vẹn chữ tình. “Hãy đổ nước đầy các chum!” Đây là nước dùng cho việc thanh tẩy theo tục lệ của người Do Thái thời bấy giờ. Việc rửa chân tay không chỉ mang tính lễ nghi thanh tẩy theo truyền thống mà còn để giữ vệ sinh cho sàn nhà, nơi các thực khách nằm mà dùng bữa. Để giữ sự mặn nồng tình yêu thì Chúa Giêsu lại ra lệnh làm một việc của sự thanh tẩy. Điều này nhắc nhớ chúng ta sự thật này: những bất hòa, bất ổn trong tình yêu hôn nhân gia đình thường có nguyên nhân là lỗi hay tội của ai đó hay của cả đôi bên. Thanh tẩy tâm hồn là điều cần thực hiện liên lĩ. Thanh tẩy không nguyên chỉ để cho tâm hồn mình trong sáng, tinh sạch mà còn vì hạnh phúc của người mình yêu thương.

Tu thân - Tề gia - Trị quốc - Bình thiên hạ. Cái nhìn của người xưa vẫn chưa hề lỗi vậy. mục lục

Lm  Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột

PHÉP LẠ CHÚA LÀM CHO MỖI GIA ĐÌNH

“Họ hết rượu rồi.” (Ga 2,3)

 Quý vị thân mến,

Tin Mừng hôm nay dành cho những ai đã, đang và sẽ bước vào đời sống hôn nhân. Thật tốt để chúng ta dừng lại một chút để chiêm ngắm hình ảnh đặc biệt trong Tin Mừng thường niên 2: Tiệc cưới tại Cana (Ga 2,1-11). Làng Cana là nơi xảy ra phép lạ đầu tiên của Chúa Giêsu. Đây là bức tranh họa nên lòng thương xót và sự quan phòng của Thiên Chúa trong những khoảnh khắc đời thường nhất của cuộc sống con người.

Bạn có bao giờ tự hỏi tại sao phép lạ đầu tiên sao Chúa không chữa lành một bệnh nhân hay phục sinh kẻ chết, mà là để giúp đỡ một đôi tân hôn? Đầu tiên, chính Chúa Giêsu được mời đi đám cưới, và Chúa cũng biết gia cảnh lúc này đang rơi vào cảnh bối rối vì… hết rượu. Hậu kỳ của câu chuyện cho thấy chính Thiên Chúa quan tâm đến cả những nhu cầu đơn sơ nhất của gia chủ, của mỗi chúng ta.

Mẹ Maria tin tưởng và hy vọng

Trong khoảnh khắc ấy, Mẹ Maria là người đầu tiên nhận ra sự thiếu hụt và lo lắng của gia chủ. Lời thỉnh cầu đầy khiêm nhường, nhưng cũng chất chứa sự tín thác của Mẹ: “Họ hết rượu rồi” (Ga 2,3). Chính lúc này, chúng ta thấy mẹ luôn giữ vai trò trung gian với trái tim đầy nhạy cảm trước những nỗi khổ đau, lo toan của con người.

Dẫu chưa từng chứng kiến Con mình là Chúa Giêsu làm phép lạ, nhưng Mẹ vẫn tin tưởng tuyệt đối. Đây là sở trường của Mẹ. Dù trong hoàn cảnh nào, Mẹ luôn tín thác vào Chúa Giêsu. Mẹ rất biết đặt niềm tin vào quyền năng và tình yêu của Chúa Giêsu. Đây chính là bài học lớn lao cho mỗi người chúng ta: hãy đến với Chúa với tâm hồn tín thác, ngay cả khi chưa rõ Chúa sẽ hành động thế nào. Hoặc nói như Đức Giáo Hoàng Phanxicô:

“Mẹ Maria là người bạn luôn luôn quan tâm để cuộc đời chúng ta không thiếu rượu. Mẹ là người phụ nữ có trái tim bị lưỡi gươm đâm thâu và đồng cảm với những nỗi đau của chúng ta. Là Mẹ của mọi người, Mẹ là dấu hiệu hy vọng cho các dân tộc đang quặn đau để sinh ra công lý. Mẹ là người truyền giáo đến gần chúng ta và đồng hành với chúng ta suốt dòng đời, dùng tình mẫu tử để mở lòng chúng ta ra đón nhận đức tin.” (Evangelii Gaudium, số 286).

Tình yêu ẩn mình trong điều bình dị

Đáp lại lời thỉnh cầu của Mẹ, Chúa Giêsu bảo họ: “Các anh đổ đầy nước vào chum đi!”. Họ đã đổ đầy vào sáu chum, mỗi cái chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước. Điều kỳ diệu xảy ra khi nước hóa thành rượu ngon, cứu đôi tân hôn khỏi cảnh bẽ mặt và làm cho bữa tiệc trở nên viên mãn. Đừng quên là những người này đã làm theo lời của Chúa Giêsu. Đây là điều kiện cần để phép lạ xảy ra.

Ở đây, chúng ta thấy một phép lạ không phô trương, không ồn ào, nhưng lại chứa đựng sức mạnh biến đổi diệu kỳ. Đây chính là hình ảnh của ân sủng Thiên Chúa trong cuộc sống hàng ngày. Chúa không chỉ ban cho chúng ta những điều lớn lao, mà còn hiện diện trong từng chi tiết nhỏ nhặt, làm cho những điều bình thường trở nên phi thường.

Tình yêu hôn nhân dưới ánh sáng Tin Mừng

Qua phép lạ tại Cana, Chúa Giêsu không chỉ giải quyết một tình huống khó xử, mà còn đề cao giá trị của hôn nhân. Ngài đã hiện diện ở đó, và biến đám cưới thành dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa. Như Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II từng nói: “Tình yêu giữa vợ chồng là một biểu tượng sống động, là dấu chỉ hữu hình của tình yêu giữa Đức Kitô và Hội Thánh.”

Tuy nhiên, đời sống gia đình không phải lúc nào cũng ngập tràn niềm vui như ngày lễ cưới. Những sóng gió, thử thách và khủng hoảng là điều không thể tránh khỏi. Chính trong những khoảnh khắc “hết rượu” ấy, chúng ta cần mời Chúa Giêsu bước vào đời sống hôn nhân để Người làm mới lại tình yêu và mang đến nguồn rượu thiêng của ân sủng.

Cách đây vài năm, Đức Giáo hoàng Phanxicô viết một Tông Huấn dành cho các gia đình: Niềm vui của tình yêu. Trong đó, ngài viết:

“Sự thật là mối hiệp thông gia đình chỉ có thể được gìn giữ và hoàn thiện với một tinh thần hi sinh rất lớn. Thật vậy, nó đòi hỏi sự cởi mở và sẵn lòng quảng đại của mọi người và từng người, để cảm thông, khoan dung, tha thứ và hòa giải”. (Amoris Laetitia, số 106).

Với những lời trên, thật tốt để Chúa bước vào cuộc sống chúng ta. Hãy mời Chúa Giêsu tham dự vào “bữa tiệc” của cuộc đời mình. Khi Chúa hiện diện, dù trong những lúc tưởng chừng như nhỏ bé hoặc thách đố nhất, cuộc đời chúng ta sẽ ngập tràn niềm vui, ân sủng và bình an.

Quý vị thân mến, 

Cana không chỉ là câu chuyện của một bữa tiệc cưới cách đây 2000 năm. Cana là câu chuyện của mỗi người chúng ta, khi đối diện với những thử thách, bế tắc trong cuộc sống. Trong mọi tình huống, hãy nhớ đến lời khuyên của Mẹ Maria: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5). Chỉ cần vâng theo lời Chúa, phép lạ sẽ xảy ra, và nước lạnh nhạt nhẽo của cuộc đời sẽ được biến đổi thành rượu ngọt ngào của tình yêu.

Lạy Chúa, xin hãy đến và hiện diện trong cuộc sống chúng con. Xin hãy biến đổi những thiếu sót, yếu đuối của chúng con thành niềm vui và phúc lành. Chúng con tín thác nơi Chúa, vì chúng con biết rằng chỉ có Ngài mới làm cho bữa tiệc đời chúng con trọn vẹn. Amen. mục lục

Lm. Giuse Phạm Đình Ngọc, S.J

Với mục đích để Lời Chúa được loan truyền và thông tin Giáo hội được lan tỏa, Legio Mariæ sẵn lòng để các tổ chức và cá nhân sử dụng lại tin bài đã đăng trên báo giấy và báo mạng legiomariævn.com của mình.

Tuy nhiên, vì đức công bằng và sự bác ái, xin quý vị vui lòng ghi đầy đủ nguồn như sau: “Theo Đạo Binh Đức Mẹ, website: legiomariævn.com”.

Ngoài ra, nếu chia sẻ bài lên mạng xã hội (Facebook, Twitter…), đề nghị dùng đường dẫn gốc trên website của Đạo Binh Đức Mẹ.

Tin liên quan