SUY NIỆM CHÚA NHẬT 3 THƯỜNG NIÊN_C

25-01-2025 141 lượt xem

Lời Chúa: Nkm 8,2-4a.5-6.8-10; 1 Cr 12,12-30; Lc 1,1-4; 4,14-21

Mục Lục

HỌC HỎI PHÚC ÂM – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

CHÚA SAI TÔI ĐI… – + ĐTGM. Giu-se Vũ Văn Thiên

NĂM THÁNH – NĂM HỒNG ÂN – Lm. Ant ôn Nguyễn Văn Độ

LỜI CHÚA CÓ ỨNG NGHIỆM TRONG ĐỜI TÔI?  Phêrô Phạm Văn Trung

NĂM THÁNH HAY MỘT TRIỀU ĐẠI THÁNH CỦA CHÚA KITÔ – Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng

LỜI THIÊN CHÚA – Jorathe Nắng Tím

BÀI GIẢNG TUY NGẮN NHƯNG ĐẦY ĐỦ!  Lm. Yuse Mai Văn Thịnh, DCCT

TẾT – MỘT KHỞI ĐẦU MỚI – Lm. Giuse Trần Văn Ngữ, S.J.

BƯỚC VÀO TIN MỪNG LUCA – Lm. Phêrô Phan Văn Lợi

LỜI QUYỀN NĂNG LÀ THẦN TRÍ VÀ LÀ SỰ SỐNG – Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

HỌC HỎI PHÚC ÂM (Lc 1,1-4; 4,14-21)

CÂU HỎI TÌM HIỂU

1. Đức Giêsu trở về miền Galilê trong quyền năng của Thần Khí (Lc 4,14). Điều này có làm bạn ngạc nhiên không? Đọc Lc 1,35; 3,22; 4,1.14.18.21;10,21.

2. Bạn biết gì về ngôi làng Nadarét? Nó ở đâu? có khoảng bao nhiêu dân cư, giàu hay nghèo?

3. Bạn biết gì về phụng vụ trong một hội đường Do-thái vào ngày sa-bát?

4. Câu Kinh thánh Đức Giêsu đọc ở đây được lấy từ sách nào trong Cựu Ước? Đọc Is 61,1-2 và Is 58,6.

5. Đọc Lc 3,22; 4,18. Đức Giêsu đã được xức dầu Thánh Thần khi nào? Ngài được xức dầu để làm những việc gì, cho ai?

6. Trong Lc 4,19, Đức Giêsu công bố “một năm Đức Chúa thi ân.” Năm ấy đã đến chưa? Đọc Lc 4,21.

7. Tin Mừng Luca dùng nhiều lần từ hôm nay? Theo bạn, có bao nhiêu từ hôm nay trong Tin Mừng Luca? Lối dùng này có ý nghĩa gì?

8. Tin Mừng Luca nói nhiều đến người nghèo. Hãy tìm ba đoạn Tin Mừng Luca trong đó Đức Giêsu quan tâm đến người nghèo. Đọc Lc 14,13; 18,22; 21,2-3.

GỢI Ý SUY NIỆM:

Khi sống trên trần gian, Đức Giêsu đã làm nhiều điều tốt cho con người (chữa mọi thứ bệnh, trừ quỷ, giảng dạy, loan báo Tin Mừng, nuôi dân, tha thứ cho tội nhân…). Bạn thích việc làm nào nhất, tại sao?

PHẦN TRẢ LỜI

1. Ngay từ đầu, Thánh Thần đã ngự xuống trên Mẹ Maria và Mẹ đã thụ thai Đức Giêsu bởi quyền năng của Đấng Tối Cao (Lc 1,35). Thánh Thần đã ngự xuống trên Đức Giêsu khi Ngài cầu nguyện sau lúc chịu phép rửa ở sông Gio-đan (Lc 3,21-22). Sau đó Đức Giêsu đầy Thánh Thần từ sông Gio-đan trở về và được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa, nơi đó Ngài chịu quỷ cám dỗ (Lc 4,1-2). Bởi đó chúng ta không ngạc nhiên khi thấy Đức Giêsu trở về miền Galilê trong quyền năng của Thần Khí (Lc 4,14). Cuối cùng, khi giảng dạy ở hội đường Nadarét, Đức Giêsu đã đọc lời của ngôn sứ Isaia về Thần Khí của Đức Chúa (Is 61,1), và khẳng định lời ấy được ứng nghiệm nơi bản thân mình (Lc 4,18.21). Có thể nói Thánh Thần đã ngự xuống trên Đức Giêsu và không bao giờ lìa bỏ Ngài (xem thêm Lc 10,21).

2. Vào thời Đức Giêsu, Nadarét là một ngôi làng nhỏ, không có gì nổi bật (Ga 1,46), nằm ở phía nam Galilê. Nó không phải là một thành phố như Mt 2,23 và Lc 1,26 quen gọi, nhưng nó cách một thành phố lớn là Sepphoris dăm sáu cây số. Nadarét không bao giờ được nhắc đến trong Cựu Ước hay các tài liệu cổ khác. Số dân ở đây ước chừng vài trăm người, tương đối nghèo. Đây là nơi Đức Giêsu đã sống và lớn lên, lao động và trưởng thành, cho đến ngày Ngài lên đường đi thi hành sứ vụ Cha giao. Ngày nay khoa khảo cổ tìm được cái vực, nơi có thể ngày xưa dân làng Nadarét định xô Đức Giêsu xuống, nằm ở phía Tây của nhà thờ Truyền Tin ngày nay (Lc 4,28-29).

3. Ngày sa-bát (là thứ bảy, nhưng bắt đầu từ chiều tối ngày thứ sáu) là ngày lễ nghỉ của người Do-thái. Họ đến hội đường để dự lễ. Nghi thức phụng vụ của ngày sa-bát có thể gồm việc hát một Thánh vịnh, đọc kinh Shema (Đnl 6,4-9), đọc một đoạn Sách Thánh trong sách Luật (torah) và một đoạn trong sách các Ngôn sứ (x. Cv 13,15). Kế đó là bài giảng giải về hai đoạn Sách Thánh trên. Kết thúc là lời chúc lành của ông trưởng hội đường.

Đức Giêsu hẳn đã được ông trưởng hội đường mời đọc và giải thích đoạn Sách Thánh. Ngài được trao cuộn sách ngôn sứ Isaia. Việc Ngài đọc đoạn sách Isaia ở chương 61,1-2 chắc không phải chuyện tình cờ, vì Ngài đã cố ý “tìm thấy chỗ” viết bản văn này (Lc 4,17). Đức Giêsu đọc sách Isaia trong tư thế đứng (x. Cv 13,27), rồi cuộn sách lại, trả cho người giúp việc, và giảng dạy trong tư thế ngồi.

4. Theo Lc 4,18-19, trong hội đường Nadarét, Đức Giêsu đã đọc một câu trích trong sách ngôn sứ Isaia. Thật ra đây là một câu ghép một phần của Is 61,1-2 với một phần của Is 58,6 (câu “trả lại tự do cho người bị áp bức”). Thánh sử Luca đã coi câu ghép này là một chương trình hành động hay một bản tuyên ngôn của Đức Giêsu lúc khởi đầu sứ vụ. Chúng ta sẽ thấy Đức Giêsu thực hiện chương trình này trong thời gian sắp tới.

5. Khi đọc câu Is 61,1: “Thần Khí của Đức Chúa ngự trên tôi, vì Đức Chúa đã xức dầu cho tôi,” Đức Giêsu đã nhớ đến biến cố xảy ra cho Ngài khi Ngài chịu phép rửa ở sông Giođan. Tại đây, “Thánh Thần đã ngự xuống trên Ngài” (Lc 3,22). Khi nhận được Thánh Thần, Đức Giêsu biết mình được Thiên Chúa xức dầu tấn phong để trở nên một ngôn sứ, một Đấng Mêsia (Cv 10,38). Khi đọc Sách Thánh, Đức Giêsu thấy sứ mạng của vị ngôn sứ được nói đến ở Is 61,1-2; 58,6, là sứ mạng Đức Chúa trao cho mình hiện nay, và Ngài sẽ là người làm ứng nghiệm những lời vừa đọc. Như thế, Ngài được sai tới cho bốn nhóm người: kẻ nghèo hèn, kẻ bị giam cầm, người mù, và người bị áp bức. Ngài loan báo Tin Mừng cho người nghèo, cho người mù được sáng mắt. Còn đối với kẻ bị giam cầm và người chịu áp bức thì Ngài cho họ cùng một ơn, đó là được tha, được tự do hay được giải thoát (aphesis).

6. Đọc Lc 4,19 ta thấy Đức Giêsu còn công bố một năm đặc biệt, đó là năm Đức Chúa thi ân. Khi Isaia viết câu: “một năm Đức Chúa thi ân” ở Is 61,2a, ông muốn mô tả thời kỳ Đức Chúa ban ơn giải thoát cho những người Do-thái bị lưu đày ở Babylon. Còn khi đọc câu Is 61,2a, Đức Giêsu muốn công bố thời kỳ đặc biệt của Ngài, thời kỳ Thiên Chúa ban ơn cứu độ cho cả nhân loại một cách mới mẻ. Trong Lc 4,21, Ngài khẳng định những lời tiên tri ấy đã bắt đầu được ứng nghiệm.

7. Tin Mừng Luca hay sử dụng trạng từ “hôm nay” (Lc 2,11; 4,21; 5,26; 19,5.10; 23,43). Qua lối dùng này, Luca muốn nhấn mạnh rằng thời kỳ của Đức Giêsu là thời kỳ mà ơn cứu độ đã bắt đầu đến cho nhân loại. Không cần đợi thêm gì nữa, vì “hôm nay một Đấng Cứu độ đã được sinh ra,” hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này,” “hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng.”

8. Khi đãi tiệc, hãy mời người nghèo (Lc 14,13); hãy bán tất cả tài sản mà cho người nghèo (Lc 18,22); bà góa nghèo đã bỏ tiền nhiều hơn mọi người (Lc 21,2-3). Xem thêm Lc 6,20; 16,20.22. mục lục

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

CHÚA SAI TÔI ĐI…

Ngày 30-9-2019, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã ấn định, Chúa Nhật thứ ba của mùa Thường niên là Chúa Nhật Lời Chúa. Mục đích của Đức Thánh Cha là giúp các tín hữu ý thức tầm quan trọng của việc đọc và suy niệm Lời Chúa. Đức Thánh Cha đã trích lời Thánh Giê-rô-ni-mô: “Không biết Kinh Thánh là không biết Chúa Ki-tô”. Và thật là một trùng hợp có ý nghĩa, vì Chúa Nhật hôm nay, Bài đọc I và bài Tin Mừng đều giới thiệu với chúng ta về việc loan báo Lời Chúa. Hai sự kiện ở hai thời điểm lịch sử khác nhau, nhưng đều mang một thông điệp, đó là hãy lắng nghe Lời Chúa và hãy trở nên những ngôn sứ để loan báo Lời của Ngài.

Sách Nơ-khe-mi-a là một cuốn sách nằm trong Kinh Thánh Cựu Ước. Sách gồm có 13 chương, không rõ tác giả là ai. Thời gian viết vào khoảng năm 440-350 TCN, thời gian được tường thuật trong sách vào khoảng năm 445-425 TCN. Nhân vật chính cũng là tên của cuốn sách này. Ông là người nỗ lực xây lại tường thành và Đền thờ Giê-ru-sa-lem sau khi từ nơi lưu đày trở về. Công việc này vô cùng khó khăn, vừa do dân ngoại Sa-ma-ri-a âm mưu chống phá, vừa do một số người Do Thái nản chí trước khó khăn. Tuy vậy, Nơ-khê-mi-a đã hoàn thành bức tường thành và ông tổ chức khánh thành trọng thể. Nghi thức chính là việc đọc sách Luật, do thầy tư tế Ét-ra thực hiện. Nghi thức này diễn ra trong bảy ngày, và tường thuật của Bài đọc I chúng ta nghe hôm nay là ngày cuối cùng. Có thể nói, sự kiện này là sự hồi sinh của dân tộc Do Thái và cũng là của Đạo Do Thái, sau gần 50 năm sống cảnh lưu đày xa quê hương. Dân chúng vừa than khóc vì tội lỗi quá khứ, vừa hoan hỷ vui mừng vì đã đến thời dân tộc được phục hưng.

Trong Tin Mừng theo thánh Lu-ca, hình ảnh thầy tư tế Ét-ra đọc sách tại Giê-ru-sa-lem năm xưa, nay người dân Na-da-rét lại được chứng kiến. Nhân một chuyến về thăm quê hương, Đức Giê-su đã vào Hội đường và đọc đoạn sách I-sai-a trước đó khoảng bảy thế kỷ, với nội dung nói về sứ vụ của vị ngôn sứ được Chúa xức dầu và sai đi. Nếu Ét-ra và Nơ-khe-mi-a tuyên bố thời hồi sinh của Đạo Do Thái sau lưu đày, thì Đức Giê-su lại khẳng định: một kỷ nguyên mới đã được khai mở. Đó là kỷ nguyên của thời thiên sai. Người đến trần gian để công bố năm hồng ân của Thiên Chúa. Người khẳng định với thế giới: Thiên Chúa yêu thương con người, và Ngài đã sai Con Một đến trần gian, để quảng diễn tình yêu vô bờ ấy. Khi tuyên bố với những ngươi đồng hương: “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”, Đức Giê-su khẳng định: thời của ân sủng đã đến, và những ai thành tâm thiện chí sẽ được đón nhận muôn vàn ân huệ của Thiên Chúa.

“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn…” Nhờ bí tích Thanh tẩy, mỗi Ki-tô hữu cũng có thể áp dụng những lời này cho bản thân, vì mỗi chúng ta đã đều được xức dầu và mỗi chúng ta đều là ngôn sứ. Nơi mỗi chúng ta đều có Thần Khí hoạt động và chúng ta đều được sai lên đường đến với những anh chị em đồng loại, để nói với họ: Thiên Chúa yêu thương con người. Thánh Phao-lô diễn tả hoạt động của Thần Khí nơi Giáo Hội qua hình ảnh một thân thể bao gồm nhiều chi thể. Không có chi thể nào là hèn kém và bị coi thường. Đó là hình ảnh cộng đoàn đức tin. Chính Thần Khí hay Chúa Thánh Thần nối kết mọi thành viên để trở nên một thân thể, luôn hiệp thông và thăng tiến. Linh dược làm cho cơ thể là Giáo Hội được khỏe mạnh, chính là Chúa Thánh Thần. Ngài ngự trong mỗi chúng ta, như xưa Ngài đã ngự trên Chúa Giê-su và thêm sức cho Chúa Giê-su trong hành trình loan báo Tin Mừng cứu độ. Ngày hôm nay, qua các tín hữu Ki-tô, Chúa Thánh Thần vẫn hoạt động, để soi sáng và ban sức mạnh siêu nhiên, nhờ đó chúng ta có thể hoàn thành nhiệm vụ ngôn sứ mà Chúa đã trao cho chúng ta qua bí tích Thanh tẩy.

Những ngày này, chúng ta đang rộn ràng tưng bừng đón xuân Ất Tỵ. Đối với người tin Chúa, đây là thời điểm để chúng ta dâng lời tạ ơn Chúa vì Ngài luôn gìn giữ chúng ta. Giống như những người Do Thái trở về quê hương sau thời lưu đày, chúng ta tạ ơn Chúa và cầu xin Ngài tiếp tục nâng đỡ phù trợ chúng ta trên con đường lữ thứ trần gian. Một ơn quan trọng cần phải cầu xin trong những ngày đầu năm, đó là ơn vững đức tin. Giữa bao thử thách của cuộc đời, xin cho chúng ta biết cậy trông vào Chúa, như chiếc mỏ neo giữ cho chiếc thuyền vững vàng trước phiêu bạt của giông tố cuộc đời. mục lục

+ ĐTGM. Giu-se Vũ Văn Thiên

NĂM THÁNH – NĂM HỒNG ÂN

Chúng ta đang sống trong giai đoạn đầu của Năm Thánh lệ thường 2025, Năm Hồng Ân đặc biệt, Năm mà chúng ta được mời gọi nhận biết Thiên Chúa là Cha nhân từ luôn tha thứ tội lỗi và hình phạt do tội lỗi chúng ta gây ra. Năm hoán cải và sám hối, năm hòa giải giữa người với người, và trên hết, Năm Thánh là năm được Chúa Kitô công bố là “Năm hồng ân của Thiên Chúa”.

Năm Thánh

Trong thời Cựu Ước, Luật Mô-sê đã ấn định và nói rõ mục đích của Năm Thánh: “Các ngươi sẽ công bố năm thứ năm mươi là năm thánh và sẽ tuyên cáo trong xứ lệnh ân xá cho mọi người sống tại đó. Đối với các ngươi, đó là thời kỳ toàn xá: mỗi người trong các ngươi sẽ trở về phần sở hữu của mình, mỗi người sẽ trở về dòng họ của mình. Đối với các ngươi, năm thứ năm mươi sẽ là thời kỳ toàn xá: các ngươi không được gieo, không được gặt lúa tự nhiên mọc, không được hái trong vườn nho không cắt tỉa. Vì đó là thời kỳ toàn xá, một năm thánh đối với các ngươi, các ngươi sẽ ăn hoa lợi của đồng ruộng” (Lê-vi, 25, 1-13).  

Trong Tân Ước, Chúa Giêsu tự giới thiệu mình là Đấng làm cho Năm Thánh được trong Cựu Ước được ứng nghiệm, vì Người đến để “công bố năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,19).

Theo nguyên gốc Latinh An-num Giu-bi-lê-i (Annum Jubilaei), Năm Thánh, được hiểu là Năm Hồng Ân hay Ðại Xá, là thời gian mà người tội lỗi hoán cải được ban ơn tha thứ các hình phạt do tội gây ra, con người phải thống hối và canh tân cũng như hòa giải với Thiên Chúa và anh chị em. Ðể được hưởng những ơn lành Thiên Chúa ban cho trong Năm Thánh này, Kitô hữu phải nhận thức trước hết Năm Thánh là nhằm thánh hóa cuộc sống, củng cố đức tin, tạo cơ hội thuận tiện để xây dựng tình liên đới và hiệp thông huynh đệ trong lòng Giáo Hội và thế giới, khuyến khích mọi người tuyên xưng đức tin một cách chân thành và sống động hơn nơi Ðức Kitô, Ðấng Cứu Ðộ duy nhất của nhân loại.

Giáo hội đươc sai đi công bố Năm Thánh

Nếu như Chúa Giêsu được Chúa Cha xức Dầu và sai đi vào dòng đời để cứu vớt những kẻ cơ hàn, mang lại niềm vui và hạnh phúc cho biết bao con người, khai mở năm hồng ân để thi ân giáng phúc cho nhân loại, thì đến lượt mình, Người cũng trao lại sứ mạng đó cho Giáo hội: "Như cha đã sai Thầy, Thầy sai anh em" (Ga 20,21). Giáo hội cũng được xức dầu như Chúa Kitô và được sai đi. Người cũng ban tràn đầy Thánh Thần cho Giáo hội: "Hãy nhận lấy Thánh Thần" (Ga 20,22). Chúa Thánh Thần là linh hồn của sứ mạng Giáo hội, là Chúa Giêsu nối dài, tiếp nối mầu nhiệm nhập thể và sứ vụ của Chúa Giêsu đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó.

Người Kitô hữu được khuyên sống Năm Thánh

Chúng ta, những người được xức Dầu khi chịu Phép Rửa tội và Thêm Sức, được "thánh hiến" cho Thiên Chúa và được sai đi loan báo Tin Mừng. Sống đạo là bước theo Chúa Giêsu trong sự hướng dẫn của Chúa Thánh. Rập khuôn thầy Giêsu, điều đó chúng ta không làm nổi, nhưng với khả năng Chúa ban, chúng ta đủ sức thực thi những việc tha nhân đang cần chúng ta bằng tất cả đời sống.

Năm Thánh, Năm Hồng Ân là năm thực hiện công lý, thể hiện công bình và bác ái, và cũng là thể hiện lòng mến đối với mọi người, đặc biệt là đối với những người hèn mọn. Một sự trùng hợp kỳ diệu vì chúng ta đang sống trong Năm Thánh lệ thường (từ 24-12-2024 tới 28-12-2025).

Chúng ta cùng đưa ra những quyết định để học hỏi:

Đối với Thiên Chúa, năm nào cũng là Năm Hồng Ân, lúc nào cũng là Năm Thánh. Có ngày này, tháng nọ, năm kia là để nhắc nhở chúng ta đừng quá vui, quá buồn hoặc quá lo mà quên Chúa. Ngày xưa, chính Chúa Giêsu đã nhắc nhở chúng ta qua lệnh truyền, ai cũng phải loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó, đặc biệt là thực thi công lý, cụ thể là “loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm” (Lc 4,18-19), “sự giam cầm” có thể hiểu cả nghĩa đen và nghĩa bóng.

Trong đoạn Lc 4,14-21, Thánh Luca cho biết rằng, Đức Giêsu được quyền năng Thần Khí thúc đẩy nên Ngài trở về miền Galilê. Ngài giảng dạy trong các hội đường chí lý và chí tình nên được mọi người tôn vinh, do đó tiếng tăm Ngài đồn ra khắp vùng lân cận. Hữu xạ tự nhiên hương, đó là điều tất nhiên, không ai có thể chối cãi và phải tâm phục, khẩu phục.

Khi Người về quê hương Nadarét, vào hội đường trong ngày sa-bát, rồi đứng lên đọc Sách Thánh. Họ trao cho Ngài cuốn sách ngôn sứ Isaia. Ngài mở ra, gặp đoạn chép rằng: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4 :18-19). Đó là đoạn Kinh Thánh mà ngôn sứ Isaia đã đề cập Năm Hồng Ân (Is 61:1-3), tức là năm đặc biệt mà chúng ta gọi là Năm Thánh.

Lúc nào chúng ta cũng sống trong Năm Hồng Ân, bao nhiêu tuổi là bấy nhiêu Năm Hồng Ân. Trong Năm Thánh này, ước gì ai cũng tự nhủ như tác giả Thánh Vịnh thế này: “Lời Chúa hứa, lòng con ấp ủ, để chẳng bao giờ bội nghĩa bất trung” (Tv 119:11). Đồng thời cũng mong sao chúng ta can đảm bảo vệ sự sống, bảo vệ chân lý và công lý như Chúa Giêsu đã truyền dạy, để thế giới không còn tình trạng bất công, áp bức, bóc lột,… ai cũng được sống tự do đích thực đúng với nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền. mục lục

Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

LỜI CHÚA CÓ ỨNG NGHIỆM TRONG ĐỜI TÔI?

Hôm nay chúng ta nghe phần mở đầu của sách Tin Mừng theo Thánh Luca, được ghi chép lại từ những “người đã được chứng kiến ngay từ đầu” (Lc 1:2) những câu chuyện về Chúa Giêsu. Những người này là nhân chứng về Chúa Giêsu, là cha ông của chúng ta trong đức tin vì “đã phục vụ lời Chúa truyền lại cho chúng ta” (Lc 4:2). Thánh sử viết về sự khởi đầu sứ vụ công khai của Chúa Giêsu bằng cách thuật rằng “Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Chúa Giêsu trở về miền Galilê, và tiếng tăm Ngài đồn ra khắp vùng lân cận. Ngài giảng dạy trong các hội đường, và được mọi người tôn vinh” (Lc 4: 14-15).

Lắng nghe lời công bố của Chúa Giêsu

Đoạn sách mà Chúa Giêsu đọc là của Isaia, vị đại ngôn sứ 700 năm trước: “Thần khí của Chúa là Chúa Thượng ngự trên TÔI, vì Chúa đã xức dầu tấn phong TÔI, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Is 61: 1-2).

Chúng ta thử hình dung cảnh tượng này: những người lần đầu tiên nghe thấy Chúa Giêsu đứng lên đọc Sách Thánh và cất tiếng nói trong hội đường: “Ngài vào hội đường như Ngài vẫn quen làm trong ngày sabát, và đứng lên đọc Sách Thánh… Ngài bắt đầu nói với họ: Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4:16, 21). Họ không biết những lời Ngài nói đó ám chỉ điều gì. Những lời đó liên quan đến Ngài như thế nào. Cõi lòng họ hẳn đã cháy bỏng hy vọng và khao khát Đấng mà vị đại ngôn sứ đã mô tả trong đoạn Sách Thánh mà họ vừa nghe. Lẽ nào Rabbi Giêsu này là Đấng đó? “Chúa đã xức dầu tấn phong TÔI, để TÔI loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai TÔI đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4: 18-19). Trong đôi mắt họ ánh lên niềm hy vọng ấp ủ từ lâu tận cõi lòng, nay được bộc lộ ra, hướng về Rabbi Giêsu này: “Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Ngài” (Lc 4:22). 

Tất nhiên, sách Tin Mừng được viết ra nhiều năm sau khi Chúa Giêsu đã hoàn tất cuộc đời và sứ mệnh của mình nơi trần thế. Vì vậy, sách Tin Mừng cho biết những gì đã diễn ra trong cuộc đời trần gian của Chúa Giêsu, và minh chứng Chúa Giêsu là niềm hy vọng, là lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện. Ngài là Đấng được xức dầu tấn phong làm Đấng Mêsia, công bố thời kỳ hồng ân của Thiên Chúa. Ngài đem lại tự do cho người bị áp bức, sự tự do mà tất cả mọi người đều mong ước cho cuộc sống của mình, vốn bị giam cầm trong mù tối, cả thể chất lẫn tinh thần.  

Trong những tuần lễ đầu tiên của một năm phụng vụ mới, chúng ta có thể học cách lắng nghe Lời Chúa Giêsu theo một cung cách mới. Trong Thánh lễ, khi được công bố, Lời Chúa Giêsu trở thành Sự Hiện Diện thực sự của Ngài. Sự hiện diện thực sự này, nếu được chúng ta quan tâm và thực lòng đón nhận, sẽ làm nên con người đích thực của chúng ta, như những cá nhân và như một cộng đoàn Hội Thánh, gắn bó với Chúa Giêsu. Việc lắng nghe Lời Chúa thật quan trọng đối với đời sống đức tin của các tín hữu. Phụng vụ và lời công bố Tin Mừng trong mỗi Thánh lễ đều dạy chúng ta cách sống trong trần thế như thế nào, khao khát Chúa như thế nào, cần đến Chúa và phục vụ người lân cận như thế nào, để chúng ta được thứ tha tội lỗi, được sáng soi tâm hồn, có được tự do của người con Chúa, được lãnh nhận mọi hồng ân của Đấng đã công bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4:21).

Đọc các đoạn Tin Mừng và các bài thánh thư hoặc trước hoặc sau mỗi Thánh lễ, trong lặng lẽ một mình, mỗi ngày, là điều đáng khích lệ. Chúng ta không thể hiểu Lời Chúa chỉ bằng cách nghe trong Thánh lễ, rồi sau đó thì thôi. Mỗi người chúng ta phải tự mình làm quen với các hình ảnh, các câu chuyện, các nhân vật, toàn bộ cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu, để bước vào Thánh lễ, hoặc tiếp tục sống Thánh Lễ, mỗi lần mỗi trọn vẹn hơn. Sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu trong Thánh lễ nằm trong lời công bố Tin Mừng, trong hình bánh và hình rượu trở thành Mình Thánh và Máu Thánh của Ngài, và trong cuộc sống đời thường của mỗi chúng ta. Là những người đã lãnh phép rửa tội, chúng ta đầy tràn Thần Khí của Chúa Kitô, trở nên chi thể trong Nhiệm Thể sống động của Ngài, như Thánh Phaolô, trong bài đọc thứ hai hôm nay, đã khẳng định: “Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất…Vậy anh em, anh em là thân thể Chúa Kitô, và mỗi người là một bộ phận” (1 Cor 12: 13, 27). Chúng ta hãy mở các Sách Thánh, cụ thể là sách Tin Mừng theo thánh Luca, đọc các câu chuyện cuộc đời của Chúa Giêsu và bước vào mối tương quan cá vị với Ngài. Rồi ra, chúng ta sẽ dần được biến đổi thành những gì chúng ta cử hành trong Thánh lễ, thành Thân Mình của Chúa Kitô, trong trần thế.

2. Sống lời công bố của Chúa Giêsu Kitô

Mục đích của sách Tin Mừng Luca là giới thiệu Chúa Giêsu cho độc giả là những người Do Thái sống ở nước ngoài, chịu ảnh hưởng Hy Lạp, hoặc cho độc giả không phải là người Do Thái, không quen văn hóa Do Thái. Một số khái niệm và từ ngữ của người Do Thái đã được tác giả trình bày rất ngắn gọn và rõ ràng bằng tiếng Hy Lạp. Tuy nhiên, Sách Tin Mừng của Thánh Luca được viết trước hết là để đọc chung trong một nhóm Kitô hữu tụ họp trong một ngôi nhà, khi họ cùng nhau chia sẻ Bữa Ăn của Chúa. Vì thế, Thánh Luca hướng sự chú ý của mình vào những sứ điệp đặc thù của Kitô giáo hơn là những bận tâm của thế giới Hy-La thời đó.

Cũng vậy, chúng ta có thể nghe linh mục hoặc ai đó đọc Tin Mừng, nhưng việc đó sẽ không giúp chúng ta tiến lên trong đời sống đức tin chừng nào chúng ta chưa chú tâm vào sứ điệp của Chúa Giêsu, chưa có ý định tìm biết ngày càng rõ ràng hơn về con người của Ngài. Có sự khác biệt giữa việc nhớ một vài câu chuyện trong cuộc đời Chúa Giêsu và việc nhận biết đầy đủ về chính Ngài là ai trong cuộc sống của mỗi chúng ta. Lời Chúa Kitô có dần biến đổi đời tôi không và đời tôi có dần trở nên xứng hợp với Lời Chúa Kitô không? Xin cho Lời Chúa Kitô ứng nghiệm trong đời tôi.

Thánh Luca bắt đầu sách Tin Mừng của mình bằng lời tựa gửi đến Thêôphilê, tiếng La tinh là Theophilus. Trong nguyên văn Hy Lạp, chữ Theophilus được viết là Θεόφιλος. Đây là một danh từ kép gồm hai chữ θεός - Thiên Chúa - và φιλία - tình yêu hoặc trìu mến. Chữ Theophilus có thể dịch là tình yêu của Thiên Chúa hay người yêu mến Thiên Chúa. Nếu hiểu theo nghĩa thứ hai, thì chữ Theophilus có thể là một danh từ chung, ám chỉ những người yêu mến Chúa, và có thể ám chỉ bất cứ Kitô hữu nào, dù hầu hết những nhà chú giải đều coi điều đó ám chỉ đến một người trở lại Kitô giáo và là người bảo trợ cho Luca viết sách Tin Mừng. Ở đây, Luca thông báo cho Thêôphilê về ý định của mình, đó là dẫn người đọc đến với một giáo huấn vững chắc thông qua một tường thuật “đã cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự” và được “tuần tự viết ra” (Lc 1:3) “về những sự kiện đã được ứng nghiệm giữa chúng ta” (Lc 1:1). Tuy nhiên, Luca không có ý định chứng minh cho Thêôphilê về lịch sử Kitô giáo, vì đó là “những điều mà các người đã được chứng kiến ngay từ đầu” (Lc 1:2), nhưng để khuyến khích đức tin: “mong ngài sẽ nhận thức được rằng giáo huấn mà ngài đã học hỏi thật là vững chắc” (Lc 1:4).

Thánh Luca mong muốn đưa các độc giả của ngài vào câu chuyện cuộc đời của Chúa Giêsu và qua đó giúp họ nâng con người của họ lên tới Chúa Giêsu. Thánh Luca, vốn là “Anh Luca, thầy thuốc yêu quý” (Côlôsê 4:14), mong muốn chữa lành đời sống của họ, vốn “nghèo hèn…bị giam cầm… mù tối… bị áp bức” (Lc 4: 18) cả vật chất lẫn linh hồn. Trong bối cảnh như thế, các câu mở đầu của sách Tin Mừng Luca tưởng như ít quan trọng, nhưng trái lại.

Cũng vậy, khi tham dự Thánh lễ, nghe công bố Lời Chúa, chúng ta không chỉ nhắm lợi ích của riêng mình, mà còn cầu nguyện cho người nghèo, người bị tù đày, người đói khát, những người mà cuộc sống của họ đang gánh chịu những hậu quả của các hệ thống bất công. Chúng ta xin cho Lời Chúa Kitô ứng nghiệm nơi tất cả mọi người trong thế giới.

Có thể nhiều người thời Chúa Giêsu đổ xô đến với Ngài vì vô vọng trong cuộc sống, chúng ta ngày nay không như thế sao? Cả những người ngày nay đang ít nhiều khước từ Ngài, giống như những người đồng hương tại quê nhà Nadarét của Ngài (Lc 4: 16, 23, 24, 29), lại không có khát khao sâu xa được cứu độ sao? Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo viết: “Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ của tất cả mọi người, mọi người đều cần ơn cứu độ, và ơn cứu độ được ban cho mọi người nhờ Đức Kitô” (số 389). Con người ngày nay đang phải chịu đựng những căng thẳng, các mối tương quan tan vỡ, bệnh tật, mất mát, cái chết của những người thân yêu và sự trống rỗng trong sâu xa cõi lòng, không ngừng lao vào làm việc, vào hoạt động, rồi tìm kiếm lạc thú trong tiêu dùng, trong hưởng thụ, quên mất rằng cái chết, vốn hư vô hóa mọi sự, đang chờ đợi mọi người. Trong một thế giới không có Chúa Giêsu, cuộc sống của con người chỉ gồm những thú vui chóng qua, những nỗi đau ngày càng tăng không thể tránh khỏi, cùng sự mơ hồ đáng sợ vào cuối cuộc đời. “Sự khốn cùng của con người xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau: cùng cực về của cải vật chất, sự đàn áp bất công, các bệnh tật thể lý và tâm thần, sau cùng là cái chết; tất cả những sự khốn cùng của con người này là dấu chỉ cho thấy tình trạng yếu đuối nguyên thủy, mà sau tội đầu tiên của ông Ađam, con người sống trong đó, và đó cũng là dấu chỉ cho thấy sự cần thiết của ơn cứu độ; những nỗi khốn cùng đó đã lôi kéo lòng thương xót của Chúa Kitô, Đấng Cứu độ, Đấng đã muốn mang lấy những nỗi khốn cùng đó khi Ngài đồng hóa mình với ‘những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây’, Mt 25,40.45” (GLHTCG, số 2448).

Chúng ta cầu xin Chúa Thánh Thần, ban cho chúng ta Ơn Khôn Ngoan để chúng ta có thể nhận ra thực tế của thân phận phàm nhân chóng qua của chúng ta cần được Chúa Kitô cứu độ. Xin “quyền năng Thần Khí thúc đẩy Chúa Giêsu” (Lc 4:14) cũng thúc đẩy chúng ta, trong cuộc sống hằng ngày, tìm đến gần “Chúa Giêsu, niềm hy vọng của chúng ta, bởi vì Ngài là đích điểm cuộc hành trình dương thế của chúng ta” (Đức Thánh Cha Phanxicô, buổi tiếp kiến chung sáng thứ Tư ngày 18/12/2024). mục lục

Phêrô Phạm Văn Trung

NĂM THÁNH HAY MỘT TRIỀU ĐẠI THÁNH CỦA CHÚA KITÔ

Hai hình ảnh, hai biến cố cách xa nhau, nhưng cùng một hành động, hướng đến một mục đích là trao niềm vui thánh thiện cho dân Chúa:

- Bài đọc 1: tư tế Ezra đưa sách Luật Chúa lên cao, mở ra và công bố trước toàn dân;

-Bài Tin Mừng: Tại hội đường Nazareth, Chúa Giêsu mở Sách Thánh, sách Isaia, công bố sứ điệp của Thiên Chúa trước mặt mọi người.

Tất cả là Lời Chúa ngỏ với loài người. Hơn thế, nơi trang Tin Mừng, Chúa Kitô mới thật là Lời sống động của Thiên Chúa. Và ngay lúc này, Lời sống động bất ngờ tuyên bố: "Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe" (Lc 4,21).

Chúa Giêsu, Lời sống động và vĩnh cửu, Lời của mọi thời gian tuyên bố "Hôm nay..." cho thấy, sự giải thoát của Thiên Chúa không còn là lời hứa, nhưng đã được ứng nghiệm. Từ đây, trong quyền năng của Thiên Chúa, trong sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu, Lời của Thiên Chúa đã thành xác phàm, đến và ở giữa lòng thế giới, hiển trị nơi tâm hồn, nơi cõi lòng mỗi người. Chính Ngài, từ nay là Đấng ban hồng ân, ban sự thánh thiện, chữa lành mọi thương tật, mọi yếu đuối nơi từng con người.

Chính vì ý nghĩa của Lời Sống và Hồng ân Sống được trao ban như thế, Tin Mừng Chúa nhật hôm nay được xem là Tin Mừng của năm Thánh. Đó chính là mạc khải của Thiên Chúa về thời gian cứu độ, thời gian bước đi trong triều đại Hồng Ân, thời gian mà sức sống vĩnh cửu bừng lên từ hiện tại nơi trần thế, thời gian yêu thương mà Đấng Cứu Độ và Lời Sống của Thiên Chúa mang đến dẫn về Nguồn Cứu Độ, Nguồn Sống là chính Thiên Chúa.

Trong khi áp dụng lời tiên báo của sách tiên tri Isaia cho chính mình, Chúa Giêsu cho thấy Thiên Chúa không bao giờ quên lãng nhưng quan tâm đến người nghèo, người bị áp bức. Thiên Chúa nhìn thấy những phận người. Thiên Chúa là Đấng trắc ẩn, Đấng thấu suốt cuộc sống mỗi con người.

Từng ngày chúng ta đang sống không chỉ là năm Thánh, mà là thời gian Thánh. Năm Thánh nhắc ta nhớ cả một thời đại Thánh mà Chúa Kitô từng khai mở và tất cả chúng ta đang hưởng nhờ.

Trong thời gian Thánh, chúng ta càng được nhắc nhở nhiều hơn để ý thức từng ngày: Thiên Chúa không hề xa xôi. Thiên Chúa ở gần. Thiên Chúa muốn giải phóng người nghèo, người đau khổ, người bị nhiều thiệt thòi, người bị khinh khi, người phận nhỏ, người bị giam cầm...

Chính Ngôi Lời của Thiên Chúa, khi đến trần gian, tự mình hóa nên người nghèo, người đau khổ, người bị ruồng bỏ, bị giết hại cùng cả thế giới người khổ đau, không tiếng nói, không quyền lực, bị ghét bỏ, bị bạc đãi...

Chúa Giêsu không sinh trong biệt phủ nhưng trên cánh đồng Bêlem nơi chuồng lừa. 30 năm ở Nazarét, Chúa không thu tóm quyền lực, tiền của nhưng nhận lấy thân phận người lao động con của gia đình lao động.

Khi ra đi rao giảng, Chúa rao giảng trên đất những người nghèo, thu phục đám dân nghèo theo Chúa. Khi chết, Chúa chấp nhận chết trong thân phận của người bị bỏ rơi, bị bách hại...

Bởi Chúa thấu hiểu chúng ta, nên Chúa chăm sóc chúng ta. Chúa liệu cho chúng ta cả một trời hồng ân mà Chúa thiết lập qua mọi thời gian Thánh. Chúa muốn giải thoát những gánh nặng đang đè bẹp chúng ta và đè bẹp mọi người bị khổ đau xiềng xích.

Chúng ta hãy vững tin vào Chúa. Hãy cầm lấy quyển Kinh Thánh và hãy suy niệm Lời Chúa để khám phá trong đó ánh sáng soi chiếu tất cả những tăm tối của cuộc đời chúng ta và của anh chị em mình.

Hãy luôn ghi nhớ: Chúa Giêsu chọn cách sinh, cách sống, cách chết trong thương đau và luôn ở bên lề cuộc đời để những ai bị cuộc đời loại trừ, bị mất quyền sống, quyền làm người, quyền bảo vệ giá trị như một con người... hiểu rằng, họ được Chúa yêu thương, sớt chia và đồng phận.

Năm Thánh, vì thế là niềm vui, là hy vọng dẫn chúng ta đi về cả một thời gian thánh, cả một trời hồng ân, cả một thời đại của yêu thương, của cứu độ.

Sứ mạng của Chúa Kitô là công bố cho con người triều đại Thánh. Còn chúng ta, một khi bước theo Chúa Kitô, cũng sẽ là cánh tay của Chúa, "đem yêu thưong vào nơi oán thù. Ðem thứ tha vào nơi lăng nhục. Ðem an hòa vào nơi tranh chấp. Ðem chân lý vào chốn lỗi lầm... Đem tin kính vào nơi nghi nan. Chiếu trông cậy vào nơi thất vọng... Dọi ánh sáng vào nơi tối tăm. Ðem niềm vui đến chốn u sầu".

Từ nay, chúng ta hãy theo Chúa Kitô sống năm Thánh của Chúa, hưởng ơn Thánh tràn đầy và loan báo cho mọi người, mọi nơi về triều đại Thánh của Thiên Chúa và của Chúa Kitô. mục lục

Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng

LỜI THIÊN CHÚA

Chân lý nền tảng mà người Kitô hữu không thể không chú tâm, và ghi lòng tạc dạ, đó là Thiên Chúa của Đức Giêsu là “Thiên Chúa nói với con người”, chân lý mà thánh Phaolô đã quảng diễn trong thư gửi giáo đoàn Do Thái: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dậy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài. Người là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa. Người là Đấng dùng lời quyền năng của mình mà duy trì vạn vật” (Dt 1,1-3).

Thực vậy, Thiên Chúa không chỉ nói với con người qua công trình tạo dựng của Ngài như lời thánh vịnh: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm” (Tv 19,2), mà còn nói với chúng ta bằng lời, bằng ngôn ngữ của loài người qua trung gian các ngôn sứ ở Cựu Ước, và qua chính Đức Giêsu, Ngôi Lời làm người ở giữa loài người  để nói với chúng ta lời của Thiên Chúa Cha, như chính Ngài đã khẳng định với các môn đệ: “Lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy” (Ga 14,24), “Thầy không còn dùng dụ ngôn mà nói với anh em nữa, nhưng Thầy sẽ nói rõ cho anh em về Chúa Cha, không còn úp mở” (Ga 16,25), và đặc biệt trong lời cầu nguyện với Chúa Cha của Ngài cho những kẻ thuộc về Ngài  trước  giờ lên đường đi chịu chết: “Giờ đây họ biết rằng tất cả những gì Cha ban cho con đều do bởi Cha, vì con đã ban cho họ lời mà Cha đã ban cho con; họ đã nhận những lời ấy, họ biết thật rằng con đã từ Cha mà đến, và họ đa tin là Cha đã sai con”  (Ga 17, 7-8).

Như thế, Lời chúng ta nghe trong thánh lễ, Lời chúng ta đọc trong Kinh Thánh không là lời của phàm nhân, nhưng là Lời Thiên Chúa nói với con người, đúng hơn là chính Thiên Chúa đang nói với chúng ta. Đó là lý do sau khi nghe công bố Lời Chúa trong thánh lễ, cộng đoàn phụng vụ cùng thưa “Tạ ơn Chúa”, hay “Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa”, vì chính Chúa nói với chúng ta, chứ không là sách nói, dù đó là sách thánh. Nói cách khác, khi đón nhận Lời Chúa, người Kitô hữu mở lòng đón rước Đức Giêsu, và ngợi khen Chúa Giêsu, vì chúng ta tin Lời Chúa là chính Chúa. Chính Lời Chúa duy trì sự tồn tại của vạn vật, ban ánh sáng hy vọng, ban sự sống vĩnh cửu và hạnh phúc đời đời, và cũng chính Lời Chúa tha tội, thanh tẩy, chữa lành, soi sáng, dẫn đưa nhân loại vì Lời Chúa là Lời cứu thế.

Tóm lại, để có thể cung kính Lời Chúa, như toàn thể cộng đoàn đã đứng lên, khi Sách Thánh được mở ra mà ngôn sứ Nơkhemia kể lại trong bài đọc 1, cũng như thái độ trịnh trọng, trang nghiêm của Đức Giêsu khi “Người vào hội đường … và đứng lên đọc Sách Thánh” (Lc 4, 16), chúng ta cần xác tín Lời Chúa được công bố chính là Thiên Chúa đang nói với chúng ta.

Cũng thế, để có thể yêu mến và sống Lời Chúa, người môn đệ Đức Giêsu phải mở lòng trí như Đức Giêsu đã dạt dào tình yêu Chúa Cha khi Ngài mở Sách Thánh  trong hội đường và chú giải đọan nói về Ngài là  Đấng Thiên Chúa sai đến và được xức dầu tấn phong trong sách ngôn sứ Isaia (x. Lc 4,17-19), bởi có mở trí khôn khắc khoải đi tìm chân lý, có mở trái tim tín thác, hy vọng vào Chúa, như hai môn đệ trên đường Emmau, chúng ta mới được  như các ông thấy lòng mình rạo rực  bùng cháy lên, khi nghe Đức Giêsu “nói chuyện và giải thích Kinh Thánh”, mới nhận ra Đức Giêsu phục sinh đồng hành trên hành trình  Kitô hữu  của chúng ta giữa một  thế giới đầy những “lời  có cánh” cám dỗ,  dối trá, xu nịnh. mục lục

Jorathe Nắng Tím

BÀI GIẢNG TUY NGẮN NHƯNG ĐẦY ĐỦ!

Trong phần lời tựa, tác giả soạn tác Tin Mừng theo Thánh Lu-ca đã nói rõ mục đích công việc Ngài làm là ghi lại các lời giảng dậy và những việc làm của Đức Giê-su, để người đón nhận Tin mừng này nhận biết rằng giáo huấn chứa đựng trong đó rất xác thực. Khi trình bầy bối cảnh mà Đức Giê-su rao giảng trong các hội đường, tác giả muốn nhắm đến ý niệm là Đức Giê-su hoàn thành những gì mà truyền thống Cựu Ước đang mong chờ. Cụ thể, tại Ga-li-lê-a và các vùng lân cận, Đức Giê-su đã rao giảng và được mọi người đón nhận và tôn vinh. Nhưng chúng ta không biết nội dung của các bài giảng của Người tại các nơi đó như thế nào.

Hôm nay, trong bài giảng đầu tiên tại Na-da rét, Đức Giê-su quả quyết rằng lời hứa qua miệng các ngôn sứ, đặc biệt ngôn sứ I-sa-ia về sứ vụ của Đấng Thiên Sai được ứng nghiệm. Có nghĩa là những gì mà Thiên Chúa đã hứa thì nay được thực hiện bởi Đức Giê-su. Bài giảng khai mạc thật ngắn gọn và đây phải là mẫu mực của mọi bài giảng của các nhà giảng thuyết sau này. Đơn giản, ngắn gọn và đi thẳng vào trọng tâm. Đức Giê-su công bố Lời Chúa trong sách ngôn sứ I-sa-ia, rồi đơn giản tuyên bố rằng những gì mà anh chị em vừa nghe, hôm nay được ứng nghiệm. Bài giảng kết thúc!

Điều được ứng nghiệm hôm nay diễn tả ước vọng của Thiên Chúa, và cũng là điều mà các ngôn sứ hằng mơ ước. Rất đơn giản, chỉ đủ để thông truyền một sứ điệp là tin vui cho những ai nghèo hèn, luôn trông cậy vào sự giầu có của Thiên Chúa, trả tự do cho kẻ bị giam cầm, cho những ai bị đui mù nay được sáng mắt, những người bị áp bức về tinh thần cũng như vật chất nay được thanh thản tự do và khai mạc Năm Hồng Ân của Thiên Chúa.

Anh chị em thân mến,

Hầu giúp chúng ta thấy rõ điều mới mẻ mà Đức Giê-su vừa công bố, chúng ta hãy ôn lại ý niệm về năm hồng ân của người Do Thái. Như chúng ta được biết, người Do Thái tôn trọng và giữ luật của ngày hưu lễ rất nhiệm nhặt. Sau sáu ngày làm lụng vất vả họ dành riêng một ngày để nghỉ ngơi và dưỡng sức để lấy lại những năng lực đã hao phí trong sáu ngày qua. Ngày đó được gọi là ngày hưu lễ.  Trong ngày hưu lễ, họ không làm gì hết, chỉ nghỉ ngơi. Sau 7 năm họ để ra trọn một năm: năm hồng ân ban ơn toàn xá; và sau bẩy lần bẩy năm, nghĩa là sau 49 năm, họ lại dành ra một năm, năm thứ năm mươi để cử hành một năm gọi là “năm chúa của mọi ngày hưu lễ và gọi là năm hồng ân.”

Họ trù tính rằng trong một kiếp người, dù dài hay ngắn, thì ai ai cũng có thể tiếp nhận được các đặc ân của năm đó. Trong năm ‘chúa của mọi ngày hưu lễ’, toàn thể dân Do Thái được mời gọi tìm lại bản chất đích thực của dân tộc mình. Họ tìm lại sự mới mẻ, trọn vẹn và tinh tuyền cũng như sự tốt đẹp mà Thiên Chúa đã ban cho họ ngay từ những ngày đầu của tạo dựng. Họ phải tuân thủ một cách thật nghiêm ngặt một số qui định sau đây:

1/ Ruộng đất bỏ hoang, không cầy cấy trồng trọt. Việc này có ý nghĩa là hãy quan tâm đến đời sống của mình, vì nó còn quan trọng hơn là trồng cấy. Họ tin tưởng vào sự chăm sóc và nuôi dưỡng của Thiên Chúa trong thời gian này.

2/ Tất cả những ai đang thiếu nợ thì đều được tha. Việc tha nợ nói lên chủ đích là đừng để nợ nần chồng chất từ đời này sang đời khác. Nó cũng nhằm bảo đảm cho những ai dù vất vả suốt đời nhưng vẫn không có khả năng trả nợ, thì được tha hết.

3/ Những ai đang sống trong thân phận nô lệ đều được trả tự do và quyền công dân được phục hồi. Điều lệ này nhằm chống lại việc phân chia giai cấp, vì con người được sinh ra không phải để làm nô lệ cho kẻ khác.

4/ Việc giảng dậy về sự khôn ngoan của lề luật được phổ biến rộng rãi cho toàn dân, ai ai cũng được học hỏi về lẽ khôn ngoan. Đó không phải là điều mà chỉ có những người thuộc thành phần ưu tú hay có địa vị mới được lĩnh nhận mà thôi.

Mục đích mà chúng ta ôn lại cách hiểu biết của người Do Thái về năm hồng ân, năm toàn xá giúp cho chúng ta hiểu về những điều mới mẻ mà Đức Giê-su muốn kiện toàn qui định này. Hãy nhìn vào sứ vụ và lời rao giảng của Đức Giêsu về Nước Thiên Chúa, chúng ta nhận thấy tất cả lề luật của đạo Do Thái, đặc biệt là các qui định về năm hồng ân đã được kiện toàn, trở nên sống động và ứng nghiệm nơi bản thân Chúa.

Cụ thể như trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đọc xong rồi ngồi xuống như cách mà các kinh sư thường làm. Tất cả đều chăm chú nhìn Người chờ đợi. Đức Giê-su đã tuyên bố cho họ biết rằng những lời mà ngôn sứ I-sa-ia đã loan báo khi xưa, nay đuợc thể hiện nơi bản thân và sứ vụ của Người. Người mạc khải cho họ biết chính Người là Đấng đuợc Thiên Chúa sai đến.

Với tư cách ấy, Người rao giảng Tin Mừng cho người nghèo, loan báo niềm vui đuợc giải thoát cho những ai bị giam cầm, bị trói buộc bởi gông cùm của tội lỗi và thiết lập những nguyên tắc đem đến cho con người một sự tự do đích thật. Quan trọng hơn cả là công bố và thiết lập năm hồng ân của Thiên Chúa nơi bản thân và sứ vụ của Người.

Nói khác đi, thời đại của Hồng Ân đã được loan báo bởi các ngôn sứ xưa kia, nay được ứng nghiệm nơi sự hiện diện của Người. Thời đại đó không còn chỉ dành riêng cho người Do Thái, nhưng cho mọi dân tộc trên thế giới. Hơn thế nữa, Người không chỉ là dấu chỉ của Hồng Ân, mà còn là ‘Con Người Hồng Ân’. Tất cả những ai đã gặp Người đều cảm nghiệm được điều đó. Bằng chính cuộc sống cũng như các lời giảng dậy, Đức Giêsu đã là Tin Vui cho người nghèo, những kẻ thấp cổ bé miệng, bị bỏ rơi và thân phận không được tôn trọng. Người đã không chỉ giải thoát con người khỏi ách nô lệ của tội lỗi mà thôi, nhưng còn lôi họ ra khỏi sự giam cầm của thứ luật lệ đã giam hãm và làm mất đi phẩm giá của họ. Từ sự giải thoát ấy, họ cảm nghiệm được lối sống phát sinh từ sự tự do của ân sủng nơi Người.

Anh chị em thân mến,

Khi nói đến Năm Hồng Ân, chúng ta thường nghĩ đến việc tổ chức các chuyến hành hương, gia tăng công việc đạo đức để lãnh ơn Toàn Xá. Đó là điều tốt, nhưng không phải là việc quan trọng. Bởi vì, không phải chờ đến năm Hồng Ân,  chúng ta mới nhận được các ân sủng của Chúa. Nhưng mỗi giây, mỗi phút trong cuộc sống của chúng ta đều là ân sủng. Tất cả đều là hồng ân mà.

Còn năm hồng ân theo tinh thần của Đức Giê-su không chỉ nhắc nhở chúng ta nhớ đến các hồng ân của Chúa ban tặng mà còn là lời mời gọi chúng ta sống yêu thương hơn, sống tha thứ và biết bỏ qua những nợ nần của nhau. Hãy can đảm để đổi mới cách sống: thay vì nhìn nhau bằng cặp mắt soi mói, ghen tương, lên án hay hận thù thì hãy trao cho nhau sự tin tưởng, lòng nhân ái và hãy thông cảm những yếu hèn, sự mỏng giòn trong thân phận kiếp người của nhau.

Khi thi hành các trách vụ đó, chúng ta không mong tìm được lợi ích cho bản thân, nhưng quyết tâm chu toàn bổn phận của người quản lý trung tín để phục vụ cộng đồng nhân loại và đổi mới bộ mặt của thế gian. Bởi vì, chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa luôn chăm sóc cho dân của Người.

Chúng ta tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Ngài đã dọn sẵn cho chúng ta một chỗ ở mới, một thế giới mới và ở nơi đó công bằng sẽ ngự trị. Hạnh phúc tại nơi ấy sẽ thỏa mãn và lắp đầy mọi ước vọng của sự an bình luôn trào dâng trong lòng con người... Vì tất cả đều là hồng ân, không chỉ ban tặng trong năm hồng ân mà thôi. Nó đã đuợc khai mạc bởi Đức Giê-su và sẽ kéo dài cho đến muôn thế hệ.

Trong tinh thần đó, chúng ta hãy sống mọi ngày như những ngày của hồng ân mà nhìn lại chính mình, sắp xếp lại cuộc sống và vui mừng dấn bước trong công việc tái thiết cũng như xây dựng gia đình mình, xóm giáo, họ đạo, cộng đoàn, giáo xứ và tập thể chung của nhân loại để trở thành một cộng đồng yêu thương, đầy tràn công lý và bình an, trong đó mọi người đều có thể cảm nhận được hồng ân của Thiên Chúa ban cho họ qua sự cộng tác của các tín hữu.

Cầu xin Chúa gìn giữ và giúp cho chúng ta đạt được nguyện ước đó để làm cho kho tàng hồng ân của Thiên Chúa mỗi ngày mỗi phong phú và đầy tràn hơn. Amen! mục lục

Lm. Yuse Mai Văn Thịnh, DCCT

TẾT – MỘT KHỞI ĐẦU MỚI

Chúng ta đang sống trong những ngày cuối cùng của năm âm lịch. Thời gian chuẩn bị đón Tết Nguyên Đán và chào đón năm mới chính là lúc bắt đầu một khởi đầu mới. Mùa xuân mời gọi chúng ta sống với niềm hy vọng. Mọi người đều được ban tặng 365 ngày tràn đầy hy vọng trong năm mới. Mỗi ngày là món quà, hy vọng và cơ hội để bắt đầu lại. Vì thế, chúng ta cần trân trọng và sống sao cho món quà ấy trở nên ý nghĩa hơn, không chỉ cho bản thân mà còn mang lại giá trị cho những người xung quanh. 

Bài Tin Mừng hôm nay dẫn chúng ta bước vào sự khởi đầu sứ vụ công khai đầy ý nghĩa của Đức Giê-su. Ngài trở về quê nhà, đến hội đường, đọc đoạn sách ngôn sứ I-sai-a và tuyên bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.” Đó là lời loan báo một năm hồng ân của Thiên Chúa – một thời khắc đem đến sự đổi mới, ơn giải thoát và niềm hy vọng cho mọi người.

Đức Giê-su không chỉ công bố đoạn Kinh Thánh, mà Ngài còn xác nhận rằng chính Ngài là sự ứng nghiệm của lời hứa đó. Năm hồng ân của Chúa không còn là một khái niệm xa vời, nhưng đã trở thành hiện thực nơi Ngài và thể hiện trong sứ vụ của Người. Điều này nhắc nhở chúng ta rằng mỗi khởi đầu mới trong cuộc sống đều là cơ hội để gặp gỡ Thiên Chúa, Đấng mang đến sự giải thoát, tự do và hy vọng.

Khi chuẩn bị đón Tết, chúng ta được mời gọi mở ra cho một khởi đầu mới. Tết không chỉ là thời điểm để trang hoàng nhà cửa, hay sum họp gia đình, mà còn là dịp để nhìn lại và đổi mới tâm hồn, để chuẩn bị đón nhận năm hồng ân, mà Thiên Chúa dành cho mỗi người.

Đức Thánh Cha Phan-xi-cô thường nhấn mạnh rằng, người Ki-tô hữu không chỉ đọc Tin Mừng, mà còn phải để cho Lời Chúa hướng dẫn và trở thành sức sống trong mỗi hoạt động của chúng ta. Một cách cụ thể, chúng ta được mời gọi hãy lắng nghe tiếng kêu của người nghèo, người bị gạt ra bên lề xã hội, và quan tâm đến những ai cần sự giúp đỡ, cần được chữa lành…. bởi năm hồng ân không phải là một lời hứa cho tương lai xa xôi, mà phải được thực hiện hóa trong từng ngày sống của chúng ta.

Tết là thời điểm chúng ta trở về nhà, trở về nơi mình được sinh ra và lớn lên. Đây là cơ hội tốt để chúng ta chú ý đến những mối tương quan cần được chữa lành, những tha thứ cần được thực hiện, và những hy vọng cần được khơi dậy. Như Chúa Giê-su đã mở cánh cửa hy vọng qua lời công bố: Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe, chúng ta cũng được mời gọi trở thành những sứ giả đem sự đổi mới và hy vọng cho gia đình, cho quê hương và cho những người chúng ta gặp gỡ trong ngày đầu năm mới.

Hôm nay, chúng ta chiêm ngắm sự kiện Đức Giê-su trở về quê nhà, nhiều người trong vùng Ga-li-lê đã nghe đồn về Ngài, nên họ niềm nở đón tiếp với tất cả niềm vui và sự hãnh diện. Nhưng chẳng bao lâu sau đó, nhiều người trong số họ đã nhanh chóng thay đổi, họ đã trở nên ghen ghét đến mức lên án Ngài và muốn treo Ngài lên thập giá.

Trong những ngày chuẩn bị khởi đầu năm mới, thật tốt, nếu mỗi người chúng ta dành chút thời gian để suy ngẫm về thái độ háo hức và hy vọng lúc ban đầu của người Ga-li-lê. Có lẽ, đó là thái độ cần có, mỗi khi chúng ta bắt đầu một ngày mới – sống hy vọng, lạc quan và dám bắt đầu lại.

Tại sao chúng ta cần làm mới lại tinh thần đó mỗi ngày? 

Đức Giê-su từng kể dụ ngôn người gieo giống để chỉ cho chúng ta cách đón nhận Lời Chúa, và làm sao để Lời Chúa sinh hoa trái. Hạt rơi trên đất sỏi đá, bụi gai, hay đất tốt đều nảy mầm, chỉ có hạt rơi bên vệ đường là không, vì chim trời đến ăn mất. Đó là hình ảnh ẩn dụ về những người thờ ơ, chẳng quan tâm đến Lời Chúa. Còn trong bài Tin Mừng hôm nay, người dân Ga-li-lê phấn khởi chào đón Đức Giê-su – một khởi đầu rất tuyệt! Nhưng giống như dụ ngôn người gieo giống, chỉ những hạt rơi trên đất tốt mới thực sự đơm bông kết trái.

Như vậy, làm thế nào để sự hứng khởi và hy vọng của năm mới thực sự đơm hoa kết trái trong đời sống chúng ta? 

Trước hết, hãy khởi đầu mỗi ngày trong năm mới với một tâm thế tích cực, đầy hy vọng và niềm vui. Nhưng đừng chỉ giữ những hy vọng ấy trong suy nghĩ, mà hãy biến chúng thành những hành động cụ thể: một nụ cười, một lời động viên, hay một việc làm tốt lành. 

Thiên Chúa luôn muốn Lời Ngài trở thành nguồn động lực mới mẻ, giúp mỗi người thay đổi từ sâu thẳm trong tâm hồn. Hãy để sự hứng khởi và niềm hy vọng bừng cháy trong tim, như những người dân Ga-li-lê lần đầu tiên nghe Đức Giê-su giảng dạy. Nếu đôi lúc cảm thấy mệt mỏi hay thất vọng, hãy nhớ lại tâm hồn đầy háo hức đón nhận Tin Mừng của họ, để niềm hy vọng trong chúng ta được khơi dậy. Hãy để cho lòng hứng khởi ấy truyền lửa cho chúng ta sống mạnh mẽ và lan tỏa tinh thần Tin Mừng qua từng việc làm nhỏ.

Tết Nguyên Đán mang đến vô số biểu tượng của hy vọng và đổi mới: hoa mai nở rộ, bánh chưng xanh, và những câu chúc tốt lành… Nhưng trên hết, điều quan trọng là thái độ mở lòng để đón nhận ân sủng của Thiên Chúa và lan tỏa yêu thương đến mọi người xung quanh.

Trong thời gian vui Tết, hãy dành thời gian cầu nguyện, xin Chúa giúp chúng ta mở rộng con tim, giúp ta cảm nhận niềm vui thực sự từ tình yêu của Ngài. Mỗi hành động yêu thương, mỗi lời động viên, hay bất kỳ sự tha thứ nào đều là cách chúng ta biến năm mới thành một năm hồng ân đầy ý nghĩa, làm cho Tin Mừng trở nên sống động và hiện thực trong cuộc sống. 

Lạy Chúa, chúng con cảm tạ vì biết bao hồng ân Ngài đã ban suốt năm qua. Xin Chúa chúc lành cho năm mới, để chúng con biết sống theo gương Chúa Giê-su, đem niềm vui, hy vọng và bình an đến với mọi người. Xin cho mỗi ngày trong cuộc đời chúng con đầy ắp niềm vui và hy vọng. mục lục

Lm. Giuse Trần Văn Ngữ, S.J.

BƯỚC VÀO TIN MỪNG LUCA

Tại Milanô, Italia, trong thư viện thánh Ambrôsiô, còn giữ lại một mảnh chỉ thảo được biết như là “Quy điển Muratori”, theo tên của sử gia Antonio Muratori (1672-1750), nhà khám phá mảnh chỉ thảo: ông đã thu thập được bảng danh sách các tác phẩm chính lục của Kinh Thánh có kèm thời giải thích, nghĩa là bảng liệt kê các sách được thừa nhận như do Thiên Chúa linh ứng của Giáo đoàn Rô-ma thế kỷ thứ II. Đến chỗ Tin Mừng theo Lu-ca, tác giả của tài liệu tối cổ này viết : “Thứ ba là sách Tin Mừng theo Lu-ca. Ông Lu-ca này là một y sĩ, mà sau khi Đức Giê-su về trời, Phao-lô đã đem theo như bạn đồng hành. Ông đã tự mình viết theo quan điểm của mình mặc dù ông đã không đích thân thấy Chúa trong xác thịt.”

1. Vài nét về tác giả

Qua dòng phác thảo vừa thấy, chúng ta có được một vài dữ kiện tiểu sử về tác giả Tin Mừng thứ ba, được truyền thống Ki-tô giáo thu nhận: y sĩ (hãy nghĩ đến chi tiết mồ hôi máu của Đức Giê-su, việc tránh nói xấu giới y sĩ trong câu chuyện người đàn bà bị băng huyết), môn đồ của thánh Phao-lô (x. Cl 4,10-12; 1 Tm 4,11), truyền giáo như người trong thế giới dân ngoại (như xác nhận trong công trình thứ hai của Lu-ca, sách Công vụ Tông đồ), văn sĩ độc đáo (tiếng Hy-lạp của Lu-ca là hay nhất trong toàn bộ Tân Ước), chứng nhân gián tiếp. Truyền thống về sau đã tô thêm bức chân dung sơ sài này với nhiều đường nét thường là tưởng tượng : nổi tiếng nhất là việc gán cho Lu-ca danh hiệu họa sĩ vẽ các ảnh “Đức Mẹ đen” (Black Madonna, ví dụ ở Bologna, ở Đền thờ Đức Bà Cả Rô-ma). Thực tế, các bức ảnh tuyệt đẹp hơn đã được Lu-ca vẽ trong các trang của tác phẩm người.

Và từ Chúa nhật này rồi suốt năm phụng vụ (năm C), chúng ta sẽ đến với Tin Mừng Lu-ca, một tác phẩm được sinh ra, như chính tác giả xác nhận trong bài tựa hôm nay vừa công bố, từ việc “cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự việc để tuần tự viết ra.”

Nói cho đúng, tác phẩm của Lu-ca gồm hai cuốn sách trình bày chương trình cứu độ về mặt lịch sử và cả về mặt địa lý.

Xét về mặt lịch sử, thì sau giai đoạn đoan hứa là đến giai đoạn thực hiện với a) thời của Đức Giê-su: Thần Khí xưa đã tác động các ngôn sứ, thì nay càng tỏ hiện tràn đầy trong ngôn ngữ và hành vi của Đức Giê-su (sách Tin Mừng) ; b) thời của Giáo hội: Thần Khí nơi Đức Giê-su nay được tuôn tràn trên trên cộng đoàn môn đệ Người sau khi Người phục sinh (sách Công vụ).

Xét về mặt địa lý thì chương trình cứu độ được diễn ra với điểm xuất phát là Giê-ru-sa-lem. Mọi sự bắt đầu tại đó với lời sứ thần báo tin cho ông Da-ca-ri-a. Sau khi Đức Giê-su lên đấy để hoàn tất cuộc “xuất hành” của Người (sách Tin Mừng), thì các môn đệ cũng từ đó ra đi để đem Tin Mừng cho đến tận cùng trái đất (sách Công vụ).

Vì thế, hôm nay chúng ta sẽ đưa ra một vài nét về các chủ đề căn bản của Tin Mừng Lu-ca, để biết đọc tác phẩm này cách tổng quát, toàn bộ, vượt lên trên vẻ rời rạc do việc cắt xén tác phẩm thành nhiều đoản văn phụng vụ Chúa nhật. Chúng ta làm việc này thông qua một ngữ vựng nhỏ gồm 6 từ :

2. Vài chủ đề chính của tác phẩm

Từ thứ nhất đương nhiên là Giê-su Ki-tô. Lu-ca trình bày Người như “bạn của những kẻ thu thuế và những kẻ tội lỗi” (15,2), như vị Ngôn sứ có lời tối hậu và hoàn hảo của Thiên Chúa cần chuyển cho chúng ta, như kẻ nghèo chẳng có ngay cả gối để kê đầu (9,58), như người lang thang muôn thuở (sinh ra bên đường, sống trên đường và chết ở một góc đường), như Đấng cứu chữa không những các cơn bệnh thể xác mà cả nỗi khổ tâm hồn, như nơi Thánh Thần cư ngụ để rồi từ đó tuôn đổ trên cộng đoàn các môn đệ, như tâm điểm lẫn ý nghĩa và cùng đích của lịch sử nhân loại.

Từ thứ hai thân thiết với Lu-ca là từ tình yêu. Đại thi hào Dante Alighieri, người Italia (1265-1321), trong tác phẩm La ngữ Monarchia (Quân chủ) đã định nghĩa Lu-ca như scriba mansuetudinis Christi (văn sĩ về lòng thương xót của Đức Ki-tô). Dụ ngôn người cha hoang phí (chứ không phải đứa con hoang đàng) ở chương 15, dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân lành, “Diễn từ trên đồng bằng” ở 6,17-49, lòng thương xót của Đức Giê-su đối với những kẻ bị loại trừ, việc lựa chọn giới nghèo khó, việc tự hiến đến hy sinh chính mình, cử chỉ tối hậu là tha thứ và cứu rỗi tên trộm lành, tất cả đều là bấy nhiêu bằng chứng về sự đúng đắn của định nghĩa do Dante đưa ra. Thậm chí, Lu-ca còn vẽ chân dung người môn đệ đích thật của Đức Ki-tô như sau : “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ” (6,36).

Từ thứ ba là từ niềm vui. Lu-ca sử dụng năm động từ khác nhau để diễn tả niềm vui trong 27 đoạn của tác phẩm. Tiêu biểu theo nghĩa này là chương 15; chúng tôi xin mời độc giả liên tục rảo qua các câu 5.6.7.9.10.23.24.32: “Tìm được (con chiên) rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai… và nói: “xin chung vui với tôi…”. Trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng… Tìm được (đồng bạc) rồi, bà ấy nói : “Xin chung vui với tôi…”. Cũng thế, giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng… “Hãy đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng (con ta đã trở về)”... Và họ bắt đầu ăn mừng… “Chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ.”

Nghèo khó là chủ đề thứ tư được đặc biệt nêu bật trong Tin Mừng Lu-ca, một Tin Mừng hết sức nhạy bén với vấn đề xã hội: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó” (Lc 6,20); “kẻ nghèo hèn được loan báo Tin Mừng” (4,18); người hành khất La-da-rô và bà góa cho tất cả là những gương sống; chàng thanh niên giàu có không thể theo Đức Giê-su nếu chẳng phân phát cho kẻ nghèo “mọi thứ mình sở hữu”; tay trọc phú miệt mài thu tích cho mình chứ không phải cho Thiên Chúa là kẻ ngu dại; những ông Pha-ri-sêu (Biệt phái) hám tiền đến độ biến nó thành Chúa thực của mình. “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao! Quả vậy, con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa” (18, 24-25).

Từ thứ năm thân thiết với Lu-ca là cầu nguyện. Đức Giê-su là con người cầu nguyện tiêu biểu. Trong những khúc quanh quyết định của đời Người, Lu-ca luôn trình bày Người cầu nguyện và đối thoại với Chúa Cha : trước khi chịu Phép rửa (3,21), giữa cơn cuồng nhiệt của quần chúng (5,16), trước lúc tuyển chọn Nhóm Mười hai (6,12), trước cuộc tuyên tín của Phê-rô (9,18), trước khi tỏ mình long trọng trong cuộc Biến hình (9,28-29), trước lúc dạy lời kinh đặc trưng của Ki-tô giáo, kinh “Lạy Cha” (11,1), trong giờ quyết định tối hậu trước lúc chịu chết (20,40-46). Và lời sau hết của Người trên trần gian là một lời cầu nguyện: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (23,46).

Từ thứ sáu và cuối cùng, chúng ta có thể đưa vào bảng tổng hợp các chủ đề thân thiết với Đức Giê-su của Lu-ca là từ bỏ. Ám chỉ ơn thiên triệu của Ê-li-sa, kẻ được ngôn sứ Ê-li-a kêu gọi khi đang đi cày, một ngày nọ Đức Giê-su đã thốt lên: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đằng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa” (9,62). Để theo Đức Giê-su cần phải thực hiện một lựa chọn triệt để và cần chữa mình khỏi cơn bệnh luyến tiếc nhớ nhung. Các môn đệ không chỉ từ bỏ “lưới và cha mình” như Mát-thêu nói, mà còn bỏ “tất cả” theo Lu-ca 5,11. Nói về ơn gọi của mình, Mát-thêu chỉ viết: “Ông đứng dậy đi theo Người” (Mt 9,9), trái lại Lu-ca thêm “bỏ tất cả” (Lc 5,28). “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (9,23). Vậy phải nghĩ sao khi ngay cả sự yên thân mà chúng ta cũng chẳng dám từ bỏ để dấn thân vì Tin Mừng, vì tự do của con người và của Giáo hội, vì sự độc lập của đạo Chúa? mục lục

Lm. Phêrô Phan Văn Lợi

LỜI QUYỀN NĂNG LÀ THẦN TRÍ VÀ LÀ SỰ SỐNG

Mở quyển Thánh Kinh, chúng ta thấy ngay sức mạnh của Lời, đó là tạo dựng nên vũ trụ vạn vật. “Thiên Chúa phán: “Phải có ánh sáng.” Liền có ánh sáng…” (x.St 1). Tin Mừng thứ tư khởi đầu bằng những dòng tuyên tín về tính siêu việt, sự tiền hữu cũng như quyền năng của Ngôi Lời: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa...Nhờ Ngôi Lời vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành” (Ga 1,1-3). Thành thật cám ơn anh em Tin Lành đã góp phần một cách nào đó để rồi trong Công Đồng Vatican II Giáo Hội Công giáo mạnh mẽ khẳng định rằng Giáo Hội luôn tôn kính Lời Chúa ngang hàng với Thánh Thể Chúa Kitô (x. MK số 21).

Khi khẳng định mình luôn tôn kính Lời Chúa như Thánh Thể Chúa Kitô, thì Giáo Hội tuyên tín rằng Lời Chúa không chỉ là những gì được Chúa phán dạy mà còn chính là một Hữu thể, một Ngôi vị siêu việt, có từ đời đời và đầy quyền năng. Và Lời quyền năng ấy cũng là Lời Tình Yêu. Chính vì thế hiệu quả của Lời được tuyên ban luôn là những sự tốt đẹp cả về sự hiện hữu lẫn cách thế hiện hữu (x. St 1). “Lạy Chúa, Lời Chúa là thần trí và là sự sống” (Đáp ca).

Lấy lại lời Ngôn sứ Isaia, Chúa Giêsu minh định rằng Thánh Thần ngự trên Người, xức dầu tấn phong cho Người để Người loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Và những hiệu quả của Lời Người loan báo đó là: “công bố cho kẻ bị giam cầm được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa” (Lc 4,18-19).

Công bố năm hồng ân của Thiên Chúa: Đây là năm toàn xá đã được Thiên Chúa thiết lập trong Cựu Ước. Cuối một chu kỳ bảy năm là năm Sabat, thì phải để cho đất đai được nghỉ ngơi, không canh tác. Các nô lệ cũng được trả tự do …(x. Xh 21,2; Lv 25,1-7). Cuối chu kỳ bảy lần bảy năm và bắt đầu ngày mồng mười tháng bảy năm thứ bốn mười chín thì khởi đầu một năm toàn xá (x.Lv 25,8-54). Trong năm này đặc biệt cần phải thực thi ân tình cách khoáng đạt với người nô lệ, người nghèo, khách ngụ cư…như tha nợ, trả tự do, trả lại đồ cầm cố… Những quy định của năm toàn xá không nguyên chỉ để tái lập sự công bằng theo nghĩa công bằng phân phối, vì “ai giàu ba họ, ai lại khó ba đời!”, mà còn nói lên lòng nhân hậu vô biên của Thiên Chúa, đặc biệt dành cho những người nghèo hèn, bé mọn, cô thân, yếu thế. Tự sức mình, những người này như bất lực để giải thoát mình khỏi cảnh bần hàn, túng khổ. Và chỉ có Thiên Chúa mới có thể giải thoát họ. Khi công bố năm hồng ân của Thiên Chúa, Chúa Giêsu muốn nói đến tình yêu vô điều kiện của Cha trên trời, Đấng đã yêu thế gian đến nỗi ban chính Con Một để cho thế gian được sống và sống dồi dào. (x.Ga 3,16).

Cho người mù được sáng mắt: Quả thật Chúa Giêsu đã dùng lời quyền năng của Người cho một vài người mù trong dân Israel thời bấy giờ được nhìn thấy ánh sáng. Tuy nhiên chắc chắn vẫn còn đó nhiều người về thể lý lúc bấy giờ chưa được lãnh nhận ân phúc. Như thế việc công bố Lời ở đây không nhắm đến sự mù hay sáng của đôi mắt thể lý. Chúa đến để công bố Lời giúp nhân loại nhìn thấy chân lý. Chân lý ấy chính là Người, Giêsu Kitô, qua những lời giảng dạy, cách sống, các hoạt động, nhất là cuộc khổ nạn – phục sinh của Người. “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chúng cho sự thật” (Ga 18,37).

Chân lý nền tảng mà Chúa Giêsu đã từng long trọng khẳng định lại lời Kinh Thánh đó là chỉ có một Thiên Chúa duy nhất là Đấng dựng nên mọi sự và là Cha chung của mọi người. Chúng ta phải tôn thờ, yêu mến Người hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết cả trí khôn. Yêu mến Chúa thì phải thực thi lời người phán dạy. Vì thế chúng ta phải yêu mến tha nhân như chính bản thân mình, dù họ thương ta hay ghét ta, dù họ làm ơn cho chúng ta hay bách hại chúng ta (x.Mc 12,28-34; Mt 5,43-48). Chính khi bước đi trong ánh sáng chân lý thì chúng ta sẽ được tự do

Giải thoát, trả tự do cho người bị áp bức, kẻ bị giam cầm: Khi Chúa Giêsu công bố những lời này và khẳng định chúng đang ứng nghiệm thì người anh em họ của Chúa là Gioan Tẩy Giả đang ở trong ngục tù. Khi sai các môn đồ đến hỏi Chúa Giêsu rằng Người có phải là Đấng phải đến chăng, thì có lẽ Gioan Tẩy Giả đang băn khoăn và ít nhiều cũng đang ở trong đêm tối của đức tin (x.Lc 7,18-23).

“Thật, tôi bảo thật các ông: hễ ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội. Mà kẻ nô lệ thì không được ở trong nhà luôn mãi, người con mới được ở luôn mãi. Vậy, nếu người Con có giải phóng các ông, thì các ông mới thực sự là những người tự do”(Ga 8,34-36). Chúa Kitô đến thế gian là để giải phóng chúng ta khỏi cảnh nô lệ thần dữ, khỏi cảnh ngục tù của tội lỗi. Các bức tường gỗ đá của chốn lao tù vẫn không thể cướp đi sự tự do của tâm hồn. Chính tội lỗi mới làm cho chúng ta thành người nô lệ, mặc dù chân vẫn thong dong ngoài đời.

Vì yêu thương nhân loại, Thiên Chúa đã ban Ngôi Lời. Ngôi Lời là Ánh Sáng thế gian. Ánh sáng chân lý dẫn đưa con người thoát cảnh nô lệ tội lỗi đến cảnh đời tự do của phận người con được sống và sống mãi trong tình Cha trên trời. Hãy lắng nghe lời của Esdra: Đừng sầu thảm khóc lóc, nhưng hãy hân hoan vui mừng đón nhận Lời giải thoát, Lời yêu thương. Vậy hãy xét xem, bạn, tôi, chúng ta đã tham dự phần Phụng Vụ lời Chúa trong các Thánh Lễ, đặc biệt Thánh Lễ Chúa Nhật ra sao? Cũng hy vọng rằng các thừa tác viên của Lời trên giảng đài chớ quên rằng những chia sẻ của mình là một phần của Phụng Vụ Lời Chúa. Mong sao những lời ấy cũng có “quyền năng” vì là thần trí và là sự sống. mục lục

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột

Với mục đích để Lời Chúa được loan truyền và thông tin Giáo hội được lan tỏa, Legio Mariæ sẵn lòng để các tổ chức và cá nhân sử dụng lại tin bài đã đăng trên báo giấy và báo mạng legiomariævn.com của mình.

Tuy nhiên, vì đức công bằng và sự bác ái, xin quý vị vui lòng ghi đầy đủ nguồn như sau: “Theo Đạo Binh Đức Mẹ, website: legiomariævn.com”.

Ngoài ra, nếu chia sẻ bài lên mạng xã hội (Facebook, Twitter…), đề nghị dùng đường dẫn gốc trên website của Đạo Binh Đức Mẹ.

Tin liên quan