SUY NIỆM CHÚA NHẬT I MÙA CHAY_C

09-03-2025 291 lượt xem

CN I Mùa Chay_C: Đnl 26,4-10;  Rm 10,8-13;  Lc 4,1-13

Mục Lục

SỐNG MÙA CHAY VỚI ĐỨC ĐỨC TIN KIÊN CƯỜNG VÀ TỈNH THỨC  + ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm

VẺ ĐẸP CHIẾN THẮNG – Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng

CHÚA GIÊSU CHỊU CÁM DỖ CHỈ RA CON ĐƯỜNG HOÁN CẢI – Phêrô Phạm Văn Trung

VŨ KHÍ ĐỂ CHIẾN THẮNG – Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

HAI MẶT CỦA MỘT CƠN CÁM DỖ - Lm. Phêrô Phan Văn Lợi

ĐI VÀO MÙA CHAY THÁNH – Nguyễn Tiến Cảnh

+ ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm

VẺ ĐẸP CHIẾN THẮNG

1. Chúa nhật I mùa chay, dù năm A hay B hay C, dù là thánh sử nào, câu chuyện Chúa Giêsu chịu cám dỗ vẫn được nhắc lại như muốn dạy:

- Chúa Giêsu chay tịnh. Vì thế, Hội Thánh mời gọi chúng ta chay tịnh, hãm mình, bác ái, làm việc lành, cầu nguyện, gắn bó cùng Thiên Chúa... Chính Chúa Giêsu là gương cần thiết giúp chúng ta sống mùa chay.

- Ma quỷ tấn công Chúa Giêsu trong thời gian Chúa chay tịnh, là lời cảnh báo quan trọng: Ngay cả khi ta đang tham dự vào việc thiêng liêng nhất, đang sống trong bầu khí đạo đức nhất, vẫn có bàn tay ma quỷ. Ma quỷ không chừa bất cứ cơ hội nào, thủ đoạn nào nhằm đánh gục ta.

Bởi Chúa Giêsu, dù là Thiên Chúa làm người, lại đang tham dự vào một hoàn cảnh thánh thiện, đó là chay tịnh, tĩnh tâm nhiệm nhặt, cầu nguyện sốt sắng, đang gặp gỡ và kết hợp mật thiết với Chúa Cha, nhưng ma quỷ không bỏ qua. Nó hiện diện. Nó chìa bàn tay thao túng của nó.

- Vì Chúa Giêsu chiến thắng cám dỗ. Qua đó, Thánh Kinh dạy, nếu ta biết cậy dựa vào Chúa, chỉ để Chúa làm chủ đời mình, biết bắt chước Chúa luôn đặt mình trước tôn nhan Thiên Chúa, ta sẽ không sợ cám dỗ, không sợ ngã nhào. Chúa chiến thắng, ta cũng sẽ chiến thắng.

2. Chúa Giêsu trải qua ba cám dỗ:

- Về vật chất: Đây là cơm dỗ thường xuyên nhất, rõ ràng nhất, đụng chạm đến mọi người dù người giàu hay người nghèo, dù người lớn hay trẻ con, dù dân thường hay quan lớn... Có thể nói, không ai trong cuộc đời này không bị vật chất lôi kéo.

- Về quyền lực: Biết bao nhiêu sự thống trị lẫn nhau từng xảy ra trong gia đình, ngoài xã hội, trong Hội Thánh. Đã có những bạo quyền, những độc tài, những lấn lướt gây bao nhiêu đổ vỡ và đau khổ. Chúng khiến những kiểu sống tranh giành, mạnh được yếu thua, đè đầu cởi cổ, uy hiếp, bắt nạt... cứ nổi trội. Bất chấp công bằng, công lý, lẽ phải, tình yêu, nhân nghĩa, tương trợ, xót thương... cứ mãi bị đẩy lùi, cứ mãi xa vắng trong nhiều hoàn cảnh, nhiều nếp nghĩ, nếp sống...

Đừng quên chỉ có Chúa mới có mọi quyền lực và là chính Đấng quyền phép, nhưng không bao giờ xử với thụ tạo bằng quyền lực.

Đúng hơn, Chúa chỉ còn thể hiện nơi Chúa quyền lực của tình yêu. Trong tình yêu vô cùng ấy, Chúa đã để Con của Ngài chết cho chúng ta, trong khi chúng ta là kẻ tội lỗi, kẻ chống lại đường lối của Chúa. 

Thiên Chúa chỉ sử dụng quyền lực của tình yêu để chúng ta bắt chước mà lấy yêu thương xử sự cho nhau, vì nhau. Chúng ta bắt chước cách hành xử của Chúa để ma quỷ không còn cơ may sách động hay nắm chủ quyền, xuôi khiến ta đi theo ý đồ của chúng.

- Về danh vọng: Khi ma quỷ đưa Chúa Giêsu lên đỉnh cao của Đền thờ Giêrusalem và bảo Chúa nhảy xuống, để được các thiên thần đỡ nâng và sẽ bình yên. Đó là cơn cám dỗ về sự háu danh.

Gieo mình xuống từ trên cao an toàn thì chắc chắn tiếng tăm sẽ vang dội. Danh tính chắc chắn nổi như cồn.

Cơn cám dỗ về sự háu danh vẫn tồn tại trong mỗi người. Chúng ta ham thích được nổi tiếng, được đề cao, được tiến cử, được đề bạt. Được ai khen, ta thích thú. Có thể bề ngoài tỏ ra e thẹn, nhưng trong lòng lại muốn nghe lời khen lần hai. Nhưng nếu được ai góp ý, được nhắc nhở, lòng ta buồn vời vợi, có khi còn giận, còn oán người góp ý mình.

3. Cả ba cơn cám dỗ ấy lại xoay quanh một cái trục duy nhất, đó là kiêu ngạo, là cá nhân chủ nghĩa, là quy về bản thân.

- Bởi kiêu ngạo, nên cậy vào của cải, vật chất. Tự hào vì mình giàu hơn người khác. Hoặc nghèo hơn thì lại khó chịu, lại muốn xa lánh mọi người, ghanh ghét những ai giàu hơn mình.

- Bởi kiêu ngạo, nên cậy dựa vào quyền lực. Thích thú khi nắm được thứ quyền hành nào đó trong tay. Ngược lại sẽ bực tức, căm ghét ai có quyền trên mình, ai thực thi quyền hành của họ.

- Cũng vì kiêu ngạo, chúng ta bám víu vào chút danh vọng nào đó. Bản thân cảm thấy sợ hãi khi uy danh bị đe dọa. Cảm thấy buồn bực cho rằng danh dự, uy tín bị tổn thương. Cảm thấy đau khổ khi ảnh hưởng bị mất mát, bị giảm sút, bị lép vế.

4. Chúa Giêsu chiến thắng cám dỗ. Xin Chúa giáo dục, uốn nắn chúng ta để từng bước một chúng ta sẽ càng trưởng thành trong ơn thánh.

Xin Chúa ban ơn giúp sức, để ta nhận ra những cám dỗ, những hiểm nguy mà cám dỗ gây nên, từ đó ta có thể vượt lên và vượt xa, nhằm chiến thắng thói hư tật xấu, chiến thắng những toan tính không phù hợp...

Bằng đời sống đức tin, tin tưởng vững chắc vào sức mạnh của ơn Chúa, biết cầu nguyện nhiều hơn, biết để tâm thực thi việc lành, lo suy niệm, lắng nghe Lời Chúa, siêng năng lãnh bí tích... Các phương thế thiêng liên ấy sẽ là chìa khóa giúp ta mở ra chân trời của sự thánh thiện, từ đó đủ sức chiến thắng cám dỗ.

Sống được như vậy, chắc chắn ta sẽ nên đẹp trước mặt Chúa và trước mặt người đời. Vẻ đẹp chiến thắng sẽ là vẻ đẹp rực rỡ không gì bằng... mục lục

Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng

CHÚA GIÊSU CHỊU CÁM DỖ CHỈ RA CON ĐƯỜNG HOÁN CẢI

Ba sách Tin Mừng nhất lãm đều kể lại câu chuyện quỷ cám dỗ Chúa Giêsu sau khi Ngài chịu phép rửa từ sông Giođan (Mt 4:1-11; Mc 1:12-13; Lc 4: 1-13). Trong phép rửa ở sông Giođan, tiếng nói của Chúa Cha mặc khải căn tính của Chúa Giêsu: “Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” (Lc 3; 21). Chính Satan, khi cám dỗ Chúa Giêsu, đã hai lần nêu rõ căn tính của Chúa Giêsu: “Nếu ông là Con Thiên Chúa…” (Lc 4:3,9). Satan vin vào cớ Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa để cám dỗ Ngài. Lý do quỷ viện dẫn thì không sai, vì Chúa Giêsu quả thực là Con Thiên Chúa, nhưng những lý lẽ “mồi chài” quỷ dùng để cám dỗ Ngài thì đầy mưu kế đánh lạc hướng, dưới vỏ bọc rất hấp dẫn.

1. Ý nghĩa thực sự của căn tính Con Thiên Chúa.

Chúa Cha đã mặc khải Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã nghe rõ điều đó. Thế là quỷ muốn Chúa Giêsu thực hiện phép lạ để chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa   có quyền năng, nhưng lại là thứ quyền năng tự quyết mà không phải phụ thuộc vào bất cứ ai khác. Cám dỗ này khiến chúng ta nhớ đến cám dỗ mà hai ông bà nguyên tổ đã phạm phải trong Vườn Địa Đàng. Ma quỷ dưới hình dạng con rắn đã rủ rê con người hãy coi chừng Thiên Chúa, hãy là các vị thần giữa muôn loài, quyết định điều thiện và điều ác, thống trị mọi thứ vì lợi ích của riêng mình: “Người đàn bà nói với con rắn: Trái các cây trong vườn, thì chúng tôi được ăn. Còn trái trên cây ở giữa vườn, Thiên Chúa đã bảo: Các ngươi không được ăn, không được động tới, kẻo phải chết. Rắn nói với người đàn bà: Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác” (Stk 3: 2-5).

Quyền năng quyết định chuẩn mực thiện ác chính là thứ mà con người tin rằng mình cần phải có. Cám dỗ cơ bản mà quỷ đặt ra cho Chúa Giêsu, cũng như cho mỗi người chúng ta, là đặt mình vào tư thế tự làm chủ chính mình, hành động của mình, số mệnh của mình, không cần đến Thiên Chúa. Thế nhưng bản chất và giá trị của chúng ta không phải là một thứ lợi ích mà chúng ta phải chiếm lấy và bảo vệ một cách ganh tị khỏi Đấng mà chúng ta cứ nghĩ là muốn cướp mất quyền làm chủ của chúng ta. Tự bản chất, chúng ta là một món quà Thiên Chúa ban cho, và chúng ta cần đón nhận trong sự tùy thuộc vào Ngài, như những người con thảo. Bài đọc thứ nhất nói rõ mối tương quan của chúng ta là những người con tùy thuộc vào một Thiên Chúa mạnh mẽ uy quyền luôn cứu giúp con người: “Bấy giờ chúng tôi đã kêu lên cùng Chúa, Thiên Chúa của cha ông chúng tôi; Ngài đã nghe tiếng chúng tôi, đã thấy cảnh khổ cực, lầm than, áp bức chúng tôi phải chịu. Chúa đã dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền, đã gây kinh hồn táng đởm và thực hiện những dấu lạ điềm thiêng, để đưa chúng tôi ra khỏi Ai cập. Ngài đã đưa chúng tôi vào đây, ban cho chúng tôi đất này, đất tràn trề sữa và mật” (Đnl 26: 7-9). Liệu mỗi người chúng ta có vui mừng đón nhận tình thương cứu độ của Thiên Chúa, thay vì từ chối, phớt lờ, thậm chí chống lại Ngài? Chúng ta có chạy đến với Ngài và “Lên tiếng thưa trước tôn nhan Chúa, Thiên Chúa của anh em rằng: Bây giờ, lạy Chúa, này con xin dâng sản phẩm đầu mùa của đất đai mà Ngài đã ban cho con” (Đnl 26: 5-10). Chúa Giêsu dạy chúng ta ý nghĩa và giá trị thực sự của việc làm con cái Thiên Chúa là “sống nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra.”

2. Chúng ta không làm ra sự sống và chiếm hữu nó cho chính mình.

Trong lần cám dỗ đầu tiên, ma quỷ dựa vào nhu cầu cơ bản chính đáng của Chúa Giêsu: “Trong những ngày ấy, Ngài không ăn gì cả, và khi hết thời gian đó, thì Ngài thấy đói” (Lc 4: 2). Còn gì bình thường hơn thế nữa! Và nếu đó là nhu cầu chính đáng thì người ta có quyền tìm cách nào đó để lấp đầy cơn đói này, nhất là khi người ta có quyền lực để làm việc đó. Chính vì thế ma quỷ lên tiếng với Chúa Giêsu: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hoá bánh đi!” (Lc 4:3). Cơn cám dỗ của cơm bánh gợi nhớ cảnh tượng: “Con cái Israel kêu trách ông Môsê và ông Aharon. Con cái Israel nói với các ông: Phải chi chúng tôi chết bởi tay Chúa trên đất Ai cập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê. Nhưng không, các ông lại đưa chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải chết đói cả lũ ở đây!” (Xh 16: 2-3). Con người chúng ta không có sự hợp nhất của thân xác, cảm xúc, suy nghĩ và ý chí, không phải vì được Thiên Chúa tạo dựng như thế, mà vì ông bà nguyên tổ quyết nghe theo lời dụ dỗ của con rắn và bỏ qua Lời Thiên Chúa, Đấng dựng nên họ. Nhưng Chúa Giêsu không phải là một con người bị phân tán nội tâm như thế, Ngài là một con người hợp nhất trọn vẹn, nghĩa là Ngài cảm xúc, suy nghĩ, lên tiếng và hành động hoàn toàn hợp nhất với căn tính sâu xa của Ngài. Do vậy, trước khiêu khích của ma quỷ, Ngài đáp lại: “Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh” (Lc 4: 4).

Điều quan trọng nhất của Người Con Thiên Chúa, cũng là của Kitô hữu chúng ta, là hướng về Chúa Cha, để nhận ra rằng mình nhận được sự sống từ Ngài. Chúa Giêsu đã không nói: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (Ga 4:34) đó sao? Chúa Giêsu thừa nhận rằng Ngài không ban sự sống cho chính mình, qua thức ăn, nhưng trước tiên Ngài nhận được sự sống đó từ Chúa Cha. Lời kêu gọi của ma quỷ hãy tự cung cấp thức ăn để giữ lấy sự sống của mình là sự thiếu tin tưởng vào Chúa Cha, một sự đánh lừa khiến người ta lạc hướng. Sau này, Chúa Giêsu dạy các tông đồ “Xin Cha cho chúng con lương thực hàng ngày” (Lc 11: 3). Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo viết: “Với lòng phó thác tin tưởng của phận làm con, chúng ta xin Thiên Chúa ban lương thực hằng ngày để mọi người được sống và chúng ta công nhận Ngài là Cha chúng ta” (đã dẫn trên, số 592).

Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo cũng giải thích rõ ràng hơn cho chúng ta ngày nay: “Lời cầu xin này cũng bao hàm cả cơn đói khát Lời Chúa và Mình Thánh Chúa trong Bí tích Thánh Thể, cũng như đói khát Chúa Thánh Thần. Chúng ta cầu xin những điều này với lòng tin tưởng tuyệt đối cho ngày hôm nay của Thiên Chúa. Những điều này được ban cho chúng ta đặc biệt trong Bí tích Thánh Thể, một sự tham dự trước vào bàn tiệc của Vương quốc sẽ đến” (bản toát yếu, số 593). 

3. Không thờ phượng một đấng nào khác ngoài Thiên Chúa là Cha

Cơn cám dỗ về quyền thống trị cùng với vinh hoa lợi lộc của muôn dân nước, nếu người ta bái lạy quỷ, gợi nhớ đến cảnh tượng nổi tiếng về con bê vàng: “Ông Aharon lấy vàng từ tay họ trao cho, đem đúc và dùng dao mà gọt đẽo thành một con bê. Bấy giờ họ nói Hỡi Israel, đây là thần của ngươi đã đưa ngươi lên từ đất Ai cập. Thấy vậy, ông Aharon dựng một bàn thờ trước tượng con bê, rồi hô to: Mai có lễ kính Đức Chúa” (Xh 32: 1-5). Trong cơn cám dỗ này, ma quỷ thúc giục Chúa Giêsu dựa vào những lời hứa của Thiên Chúa, để chiếm hữu vinh hoa lợi lộc của muôn dân nước với chỉ một việc là bái lậy nó: “Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông” (Lc 4: 6-8). Thực ra Chúa Cha đã hứa với Chúa Giêsu: “Con cứ xin, rồi Cha ban tặng muôn dân nước làm sản nghiệp riêng, toàn cõi đất làm phần lãnh địa” (Tv 2: 8). Nhưng đó là lời hứa về một ân huệ nhưng không, chứ không phải là quyền lợi được chiếm đoạt bằng chính quyền lực của mình. Câu nói của quỷ là một lời dối trá và ngụy tạo. Tất cả những gì mà Chúa Con, cả chúng ta nữa, có thể nhận được là từ Chúa Cha, và chỉ khi trung thành với ơn gọi làm con của mình. Chính bằng cách trung thành với lời Thiên Chúa, với phẩm giá là Con Thiên Chúa, mà Chúa Giêsu, và chúng ta, vốn cũng là con cái của Thiên Chúa qua phép thánh tẩy, sẽ nhận được những ân huệ Thiên Chúa hứa ban.

Cơn cám dỗ cuối cùng gợi nhớ đến cảnh tượng dân Israel thử thách Thiên Chúa: “Họ đã đóng trại ở Rơphiđim…Ở đó, dân khát nước nên đã kêu trách ông Môsê... Ông Môsê đặt tên cho nơi ấy là Maxa và Mơriva, nghĩa là thử thách và gây sự, vì con cái Israel đã gây sự và thử thách Chúa mà rằng: Có Chúa ở giữa chúng ta hay không?” (Xh 17: 1-7). Trong cám dỗ này, Satan muốn Chúa Giêsu chứng minh Ngài được Thiên Chúa bảo vệ: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng đây mà gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ bạn. Lại còn chép rằng: Thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá” (Lc 4: 9-11). Đúng là Chúa Giêsu, và mỗi người chúng ta, được Thiên Chúa bảo vệ, như bài đáp ca nói: “Vì bạn có Chúa làm nơi trú ẩn, có Đấng Tối Cao làm chỗ nương thân. Bạn sẽ không gặp điều ác hại, và tai ương không bén mảng tới nhà, bởi chưng Ngài truyền cho thiên sứ giữ gìn bạn trên khắp nẻo đường, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng cho bạn khỏi vấp chân vào đá” (Tv 91: 11-12). Cái mưu chước thâm hiểm và độc hại của Satan là bẻ ổ bánh mì ra làm đôi, vì nửa ổ bánh mì vẫn là bánh mì. Tuy nhiên, nửa sự thật không còn là sự thật, vì Satan cũng trích dẫn Lời Chúa: “Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ bạn. Lại còn chép rằng: Thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá” (Lc 4:10-11), nhưng lại không nhắc đến Lời này: “Chúa phán: Kẻ gắn bó cùng Ta sẽ được ơn giải thoát, người nhận biết danh Ta sẽ được sức phù trì. Khi kêu đến Ta, Ta liền đáp lại lúc ngặt nghèo có Ta ở kề bên” (Tv 91: 14-16). Sự thật của kẻ được Thiên Chúa giải thoát, phù trì, đáp lại, là gắn bó cùng Ngài, nhận biết danh Ngài, “nương tựa Đấng Tối Cao và núp bóng Đấng quyền năng tuyệt đối” (Tv 91: 1), chứ không phải tìm cách làm những việc lạ lùng nhằm khơi dậy sự ngưỡng mộ từ người khác và tự trấn an mình, tự mình trở thành bảo hiểm nhân thọ của chính mình. Chúa Giêsu không làm bất cứ điều gì khác ngoài những gì Chúa Cha muốn, ngoài những gì Chúa Cha yêu cầu. Ngài không cần Chúa Cha làm cho Ngài bất cứ điều gì phi thường để chứng minh Ngài thực sự là Con Thiên Chúa. Lời mà Ngài nghe được từ Chúa Cha là đủ cho Ngài, Ngài không thử thách Chúa Cha: “Đã có lời rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi” (Lc 4: 12).

Đầu Mùa Chay, Giáo hội muốn nhắc nhở chúng ta rằng sự hoán cải thực sự của người Kitô hữu chính là nhớ đến ơn gọi và phẩm giá làm con Thiên Chúa của mình. Trở thành Con Thiên Chúa không phải là tìm cách tôn vinh cái tôi, cũng không phải là hiện thực hóa mong muốn trở thành toàn năng của chúng ta. Trở thành Con Thiên Chúa là tin cậy, thờ phượng chỉ một mình Thiên Chúa và sống Lời Thiên Chúa. Thánh Phaolô nói trong bài đọc thứ hai: “Lời Thiên Chúa ở gần bạn, ngay trên miệng, ngay trong lòng. Lời đó chính là lời chúng tôi rao giảng để khơi dậy đức tin. Nếu miệng bạn tuyên xưng Chúa Giêsu là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Ngài sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ” (Rm 10: 8-10). Đây chính là toàn bộ ý nghĩa của Mùa Chay: hoán cải, trở thành con cái đích thực của Thiên Chúa, luôn hướng về Thiên Chúa trong niềm tin yêu, chờ ngày Ngài ban cho chúng ta Ơn Phục Sinh. mục lục

Phêrô Phạm Văn Trung

VŨ KHÍ ĐỂ CHIẾN THẮNG

Sau khi chịu phép rửa, “Chúa Giêsu được đầy Thánh Thần, liền rời vùng sông Giođan và được Thánh Thần đưa vào hoang địa ở đó suốt bốn mươi ngày, và chịu ma quỷ cám dỗ" (Lc 4,1-2).

Ma quỷ đã cám dỗ Chúa ba phen. Phen đầu nó cám dỗ đánh vào lòng trung thành của Chúa Giêsu với Chúa Cha, nó muốn Chúa Giêsu bỏ Chúa Cha để đến với ma quỉ. Ma quỷ qua Phêrô cũng từng cám dỗ Chúa Giêsu từ bỏ thập tự giá là điều mà Người đã dự định (x.Mt 16,21-23). Sau khi làm đủ mọi cách để cám dỗ Chúa Giêsu trong hoang địa, “ma quỷ rút lui để chờ dịp khác” (Lc 4,13), nghĩa là ma quỷ tiếp tục cám dỗ Chúa Giêsu, mặc dù các sự kiện khác nữa không được chép lại. Điểm quan trọng là, bất chấp những cám dỗ khác nhau, Chúa Giêsu vẫn không phạm tội.

Chúa Cha có ý để Chúa Giêsu bị ma quỷ cám dỗ qua việc để "Chúa Thánh Thần đưa vào hoang " (Lc 4,1-2). Với mục đích nhằm đảm bảo rằng chúng ta có một thầy thượng phẩm tế lễ là người có thể cảm thông với nhân loại con người chúng ta trong chính sự yếu hèn của chúng ta (x.Dt 4,15), bởi vì Người đã bị cám dỗ trong mọi việc cũng như chúng ta bị cám dỗ. Nhân tính của Chúa tạo khả năng cho Người cảm thông với những yếu đuối của chúng ta, bởi vì Người cũng đã chịu sự yếu đuối. "Và, vì chính mình Ngài chịu khổ trong khi bị cám dỗ, nên có thể cứu những kẻ bị cám dỗ vậy" (Dt 2,18). Từ Hy Lạp dịch "cám dỗ" ở đây có nghĩa là "để đưa vào thử nghiệm." Vì vậy, khi chúng ta được đưa vào thử nghiệm và nỗ lực trong những hoàn cảnh của cuộc sống, chúng ta có thể tin chắc rằng Chúa Giêsu thấu hiểu và đồng cảm như một người đã trãi qua những thử nghiệm tương tự.

Những cám dỗ của Chúa Giêsu đều theo ba kiểu mẫu chung cho tất cả mọi người.

- Cơn cám dỗ thứ nhất liên quan đến sự mê tham của xác thịt (x.Lc 4,3-4), trong đó bao gồm mọi cách thức của những ham muốn vật chất. Chúa của chúng ta đang đói, và ma quỷ cám dỗ Người hóa đá thành bánh để ăn, nhưng Người trả lời bằng cách trích dẫn sách Đệ Nhị Luật (8, 3). 

- Cám dỗ thứ hai liên quan đến sự kiêu ngạo của đời (x.Lc 4, 5-7), và ở đây ma quỷ cố gắng sử dụng một đoạn Kinh Thánh để chống lại Người (Tv 91, 11-12), nhưng Chúa đã đáp lại bằng Kinh Thánh đối ngược lại (Đnl 6, 16), cho biết rằng sẽ là sai lầm nếu Người lạm dụng quyền hạn của chính Người.

- Cám dỗ thứ ba liên quan đến sự mê tham của mắt (x.Lc 4, 8-10), và nếu có lộ trình nào nhanh chóng để có thể trở thành Vị Cứu Tinh, bằng việc bỏ qua cuộc khổ nạn và sự đóng đinh như Người đã khởi đầu đến, thì đây sẽ là con đường. Ma quỷ đã kiểm soát trên các nước của thế gian (x.Êph 2, 2), nhưng nó đã sẵn sàng dâng tất cả mọi thứ cho Đức Kitô để đổi lấy sự trung thành của Người. Gần như chỉ là sự suy nghĩ về nguyên cớ để thần tính của Chúa bị chao đảo, và Người trả lời mạnh mẽ, "Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi, và chỉ phụng thờ một mình Người mà thôi" (Lc 4,8; Đnl 6, 13).

Có rất nhiều cám dỗ mà chúng ta rơi vào bởi vì bản chất xác thịt của chúng ta là yếu đuối, nhưng chúng ta có một Thiên Chúa sẽ không để chúng ta bị cám dỗ quá những gì chúng ta có thể chịu đựng; Người sẽ chừa ra cho một lối thoát (1 Cr 10, 13). Do đó chúng ta có thể chiến thắng và cảm tạ Chúa vì giải thoát chúng ta khỏi sự cám dỗ. Sự từng trãi của Chúa Giêsu trong hoang địa giúp chúng ta nhìn thấy được những cám dỗ phổ biến mà điều đó kiềm giữ chúng ta ra khỏi sự hầu việc Chúa một cách hiệu quả.

Hơn nữa, chúng ta học được từ phản ứng của Chúa Giêsu đối với những cám dỗ để chúng ta phản ứng lại chính xác như thế nào  bằng Kinh Thánh. Những thế lực của cái ác đến với chúng ta với vô số cám dỗ, nhưng tất cả chúng đều có chung ba điểm cốt lõi: mê tham của mắt, mê tham của xác thịt, và sự kiêu ngạo của đời (1 Ga 2, 16). Chúng ta chỉ có thể nhận biết và chống lại những cám dỗ bằng cách bão hòa tấm lòng và tâm trí của chúng ta với lẽ thật. Áo giáp của một người lính Kitô hữu trong cuộc chiến tâm linh chỉ bao gồm một vũ khí tấn công, cầm gươm của Thánh Thần là Lời Chúa (x. Êph 6, 17). Kinh Thánh chính là thanh kiếm chúng ta phải cầm lấy để chiến thắng tên cám dỗ.

Với sức mạnh của Lời Chúa, lòng trung thành của chúng ta, có Chúa Thánh Thần dẫn dắt chúng ta bước vào trận chiến thiêng liêng này, cuộc chiến mới hòng chiến thắng. mục lục

Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

HAI MẶT CỦA MỘT CƠN CÁM DỖ

Đức Hồng Y Phan-xi-cô Xa-vi-e Nguyễn Văn Thuận từng kể lại một câu chuyện về mẹ của mình trong một diễn văn nhân lễ mừng tân chức đầu năm 2001 như sau: “Cách đây khá lâu có hai linh mục đến thăm mẹ già của tôi tại Úc châu và hỏi bà: “Bà cố có muốn Đức Cha Thuận làm hồng y không?” Bà cụ (lúc này đã 98 tuổi) trả lời: “Không! Tôi dâng con tôi cho Chúa là để tế lễ Người, như thế là đủ! Tôi chẳng cần con tôi làm hồng y đâu” – “Nhưng lên hồng y sẽ làm vinh danh Chúa hơn!” – “Thế hai cha không làm vinh danh Chúa à?”. Sau khi Đức Cha Thuận được tấn phong hồng y thực thụ, một trong hai linh mục hôm nọ cùng một vị khác lại gặp bà cụ và hỏi: “Nay Đức Cha Thuận đã lên hồng y rồi, Bà cố có vui không?” – “Dạ vui chớ!” – “Sao hôm nọ, Bà cố trả lời là không muốn con Bà làm Hồng y?” – “Nay tôi vui vì đó là ơn Chúa cho. Có chức quyền to ở trần đời dễ làm bậy lắm! Còn chức quyền to trong Giáo Hội thì phải lo mà chu toàn theo ý Chúa” – “Vậy bây giờ đức cha lên hồng y, Bà cố cầu nguyện gì cho đức hồng y?” – “Tôi chỉ cầu nguyện cho con tôi sống đẹp lòng Chúa!” – “Thế thôi à?” – “Vâng, sống đẹp lòng Chúa, đó là điều duy nhất tôi luôn cầu nguyện cho con tôi!”

Tin Vào Thiên Chúa, Bản Chất Cuộc Sống Ki-Tô Hữu

Cám dỗ lạm dụng chức quyền được ban và cám dỗ muốn làm theo ý riêng mình hơn làm đẹp lòng Thiên Chúa, đó cũng là điều Đức Giê-su trải qua trong bài Tin Mừng mở đầu Mùa Chay hôm nay. Tự bản chất, Mùa Chay này giống như hoang địa làm nên hậu cảnh cho trình thuật Tin Mừng về việc Đức Giê-su bị cám dỗ. Y như hoang địa giản lược con người vào những gì chủ yếu, bóc trần nó khỏi những gì bên ngoài, dư thừa, phù vân và phóng đẩy nó đến một ít điều văn bản (thức ăn, nước uống, con đường đúng, một chỗ che nắng mặt trời), thì Mùa Chay cũng muốn đưa chúng ta về lại bản chất của cuộc sống Ki-tô hữu. Và hôm nay nó làm điều đó với ba đoạn Kinh Thánh (3  bài đọc phụng vụ thánh lễ) được liên kết với nhau bởi một chủ đề căn bản, chủ đề tuyên xưng đức tin, một đức tin theo đúng nghĩa Kinh Thánh (Đnl 26,4-10; Rm 10,8-13; Lc 4,1-13).

Trong ba cuộc tuyên tín này (một của tuyển dân, một của thánh Phao-lô, một của Đức Giê-su), đáng kể hơn hết là lời tuyên xưng của Đức Giê-su qua trình thuật cám dỗ: tuyên xưng lòng tín thác đối với Chúa Cha và đối với chương trình cứu rỗi của Người. Được cách điệu hóa trong ba cảnh, trình thuật có một sự đảo lộn lý thú giữa cảnh hai và cảnh ba so với bản song song của Mát-thêu: đối với Lu-ca, chóp đỉnh của cuộc cám dỗ không phải là “ngọn núi rất cao” như đối với Mát-thêu nhưng là Giê-ru-sa-lem, thành phố mà tất cả Tin Mừng Lu-ca hướng về. Thật thế, người ta biết rằng tác phẩm của Lu-ca mở ra và đóng lại ở Đền thờ núi Xi-on và trung tâm của tác phẩm (các chương 9-19) chính là cuộc hành trình dài của Đức Ki-tô tiến đến định mệnh của mình vốn sẽ được hoàn tất ở Thành Thánh. Do đó chính Giê-ru-sa-lem, đỉnh cao cuộc sống Đức Ki-tô, cũng là đỉnh cao cơn cám dỗ và lời tuyên xưng lòng tín thác của Người.

Thật thế, ở đó hoàn tất cơn thử thách cao nhất về tính chất Mê-si-a của Đức Giê-su: Người sẽ phải quyết định chọn định mệnh cuối cùng của mình, một định mệnh cứu rỗi không đạt tới bằng toàn thắng vinh quang nhưng qua nghèo khổ tột cùng của thập giá. Nếu chìu theo cám dỗ này, Đức Giê-su sẽ từ khước lòng tín thác hoàn hảo của mình vào Chúa Cha và chúng ta sẽ mất niềm tin vào một vị Cứu Thế đích thực. Nhưng trên thượng đỉnh Đền thờ, Đức Giê-su đã công bố tiếng “vâng” quyết định đối với Cha, và nhờ đó, đã trở nên biểu tượng sáng ngời của đức tin như Kinh Thánh nói, nghĩa là của việc gắn bó hoàn toàn và trọn vẹn vào Thiên Chúa và vào chương trình Người đã vạch trong vũ trụ và trong lịch sử.

Lòng tin đó, Đức Giê-su đã mạnh mẽ công bố trước Tên cám dỗ số một, Xa-tan, kẻ luôn tìm cách làm lung lay lòng tín thác của Người vào Cha mình và kéo Người đi xa con đường của Cha. Bám vào lời Chúa, Đức Giê-su đã xây dựng một kinh Tin kính mà đỉnh cao nằm trong câu đốp lại cơn cám dỗ thứ hai: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi.” Mà đó là lặp lại giới răn thứ nhất, nền tảng và là nguồn suối của tất cả Thập điều cũng như toàn bộ đức tin Kinh Thánh: “Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta... Ngươi không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ...” (Xh 20,3.5).

Chống lại tất cả những ngụy tạo về khuôn mặt Thiên Chúa mà con người qua các thế kỷ đã tưởng tượng ra theo nhu cầu sử dụng và tiêu thụ của mình, chống lại biếm họa về Thiên Chúa mà Xa-tan cố gắng gợi lên cho Đức Giê-su, chống lại chính Xa-tan, bóng tối của Thiên Chúa đích thực, Đức Giê-su xác quyết lại nhu cầu phải thờ phượng một mình Thiên Chúa cứu độ và hằng sống. Tạo Hóa và Chủ Tể.

Sống Theo Ý Thiên Chúa, Con Đường Của Ki-Tô Hữu

Tuy nhiên việc xác quyết niềm tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa cũng có thể biến chứng thành một thái độ lầm lạc: muốn tìm nơi Thiên Chúa nhiều quyền lực ma thuật để tránh né các khó khăn.

Thông thường, từ “cám dỗ” gợi lên cho chúng ta nhiều cuộc chiến đấu cục bộ, đặc biệt những cuộc chiến đấu thuộc lãnh vực tính dục. Nhưng ở đây, hoang địa, cái đói, việc hồi tâm mãnh liệt của Đức Giê-su lúc bắt đầu sứ vụ, nói lên cho chúng ta thấy đó là một cuộc chiến đấu mang tính tổng quát hơn nhiều, một cơn “cám dỗ vĩ đại”: muốn tìm nơi Thiên Chúa nhiều quyền lực ma thuật để tránh né các khó khăn trong đời.

Trong cuộc chay tịnh 40 ngày của mình nơi hoang địa -một cuộc tĩnh tâm kinh khủng- Đức Giê-su đã lường được tính đồ sộ của những gì Người sắp khởi công: thay đổi các ý tưởng về Thiên Chúa, nói ngược “các nhà thông thái khôn ngoan”, chống lại các kẻ cường quyền, đề ra một sự công chính và một tình yêu vượt rất xa những gì phái Pha-ri-sêu dạy.

Và này Tên cám dỗ của cơn cám dỗ vĩ đại xuất hiện: “Nếu thực là Con Thiên Chúa, thì ông có biết bao quyền lực trong tay! Ông sẽ chinh phục được cả hoàn vũ.” Với sức mạnh rất trầm tĩnh, bộc lộ cho thấy có Thánh Thần (Lu-ca nhấn mạnh: “Người được đầy Thánh Thần... Người được Thánh Thần dẫn đi”), Đức Giê-su từ khước đóng vai thuật sĩ. Mầu nhiệm Nhập thể chính là Thiên Chúa đi vào thân phận con người mà không gì bảo vệ cũng chẳng quyền năng đặc biệt. Một siêu nhân khó mà bào chúng ta: “Hãy theo Thầy, hãy học cùng Thầy!”

Phần chúng ta, muốn theo Người, phải chăng chúng ta sẽ xin nhiều điều dễ dãi và nhiều quyền năng ma thuật? Hẳn bạn nói: “Tôi đâu có xin!” Nhưng bạn chẳng bao giờ thưa sao: “Lạy Chúa, xin làm cho cuộc sống con nên dễ dãi”? – “Chính Đức Giê-su kêu mời chúng ta xin tất cả: cơm bánh, ơn tha thứ, một sự giúp đỡ. Phụng vụ Giờ kinh bắt đầu câu: “Lạy Chúa trời, xin tới giúp con” mà!

Có một lời kêu xin giúp đỡ đúng và một lời kêu xin giúp đỡ bậy. Hãy nghe rõ câu đốp cuối cùng của Đức Giê-su: “Đã có lời rằng: ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.” “Thử thách Thiên Chúa”, đó là chờ đợi nơi Người nhiều cái sẽ làm sai lệch tất cả: sai lệch về Người, về chúng ta và về cuộc sống Người ban cho ta.

Chúng ta muốn cuộc sống đỡ vất vả hơn, đỡ âu lo hơn, đầy hạnh phúc và niềm vui hơn. Và chúng ta bị cám dỗ xin những cái ấy nơi tôn giáo. Nếu không, chúng ta nghĩ, cầu nguyện để làm gì? Đức tin mang lại lợi ích gì? Thật ra, đức tin không mang lại những phương tiện làm cho cuộc sống dễ dãi hơn, nhưng đem lại khả năng sống đến cùng cái dễ và cái khó. Nghĩa là khả năng sống một cuộc sống con người thực sự: trở thành đến mức tối đa cái chúng ta phải trở thành, và lợi dụng tất cả. Cha Jean-François Six từng định nghĩa về thánh nữ Tê-rê-xa Hài Đồng như sau: “Người đã lợi dụng tất cả để yêu mến.” Một cách khác để diễn tả rằng “tất cả đều là hồng ân” khi người ta đã luyện được cái phản xạ cứu nguy: “Ở đấy, tôi có thể yêu thương như thế nào?” Bấy giờ ta có thể nói: “Lạy Chúa trời, xin tới giúp con!” không phải để gỡ con khỏi những gì mà cuộc sống đòi hỏi con, trái lại để ôm chầm lấy nó bằng cách đánh thức tối đa lòng can đảm của con và khai mở trí tuệ của con.

Đức Giê-su nghĩ tới điều ấy trong 40 ngày: làm những gì mình cần làm, với các phương tiện của một con người, với lòng can đảm và quả tim của một con người. Thật ngu đần cái thằng quỷ đến đề nghị với Người nhiều phương tiện ma thuật để lòe mắt và thống trị. Không đến nỗi ngu thế đâu! Nó biết làm cho cơn cám dỗ nên lấp lánh rực rỡ: sử dụng nhiều con đường ngắn và nhiều phương tiện nặng để toàn thắng. “Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy sử dụng các quyền lực của ông đi nào!” Xa-tan cũng rót vào tai ta như vậy: “Thiên Chúa yêu bạn, bạn có thể xin với Người tất cả.” Thậm chí nó sẽ đóng vai ông thầy: “Đã viết rằng...” Chúng ta sẽ cùng với Đức Giê-su trả lời nó: “Đã viết rằng” không nên xin Thiên Chúa cho thoát khỏi nỗ lực sống, thoát khỏi gian khổ của đời chứng nhân! mục lục

Lm. Phêrô Phan Văn Lợi

ĐI VÀO MÙA CHAY THÁNH

     Tiếp theo Mùa Thường Niên là Mùa Chay Thánh, người Kito hữu chúng ta cần phải làm gì?

     Thánh Luca nói với chúng ta là sau khi chịu phép thánh tẩy, Chúa Giêsu được “tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần...và được dẫn đưa vào hoang địa rồi ở đó 40 ngày để bị ma quỉ cám dỗ” (Lc 4:1-2). Giáo lý Công Giáo cắt nghĩa thời gian Chúa ở trong hoang địa như sau:

     “Các Tin mừng Phúc Âm nói đó là thời gian cô quạnh buồn thảm ở trong hoang địa mà Chúa Giêsu đã trải qua ngay sau khi Chúa được ông Gioan Tiền Hô làm phép rửa tại sông Jordan. Được thần linh dẫn vào sa mạc, Chúa ở đó 40 ngày để ăn chay hãm mình, sống với thú vật hoang dã và có các thiên thần hầu hạ.” (Sách Giáo lý câu 538).

     Theo truyền thống, mùa Chay là thời gian 40 ngày suy niệm của Chúa Giêsu trong hoang địa. Giáo lý cắt nghĩa: “Nhờ 40 ngày mùa chay, Giáo Hội cùng các giáo dân hàng năm hiệp thông với màu nhiệm chúa Giêsu trong hoang địa” (c.540).

     Tại sao Chúa Giêsu lại đi vào hoang địa? Tại sao không là Jerusalem để Chúa bắt tay vào sứ mệnh giảng dạy ngay? Tại sao không ở trên núi Carmel hay những suối nước  trong mát gần đó? Có rất nhiều địa danh sạch sẽ văn minh tráng lệ để gửi Chúa đến mà tại sao lại là sa mạc? Và tại sao Giáo Hội lại dùng thời gian Chúa ở trong sa mạc làm căn bản cho mùa Chay Thánh? Đó là những điều chúng ta cần phải suy niệm trong Mùa Chay Thánh này.

     Chúa được đưa vào sa mạc để sửa chữa hai khoảnh khắc cấp kỳ của cuộc phản loạn trong lịch sử ơn cứu độ.

     Để hòa giải cuộc phản loạn, Chúa Giêsu đã chứng tỏ sự yêu mến và vâng lời của Chúa đối với Thiên Chúa Cha. Chúa cũng cho chúng ta biết mục đích của sứ mệnh cứu chuộc của Chúa.

     Sa mạc cho thấy Chúa Giêsu như là một ADong mới mà sách giáo lý cắt nghĩa, là “Vào cuối thời gian ăn chay lúc Chúa mệt mỏi và đói khát, quỉ Satan cám dỗ Ngài ba lần để mong Chúa lỗi tình cha con với Thiên Chúa Cha. Chúa Giêsu đã cương quyết cự tuyệt cả ba lần cám dỗ đó, như tóm gọn những cám dổ của ADong trong vườn địa đàng và cám dỗ của dân Israel trong sa mạc, và rồi quỉ Satan đã phải bỏ chạy để chờ cơ hội khác” (c.538).

     ADong đầu tiên hay gọi là ADong cũ đã tự chọn cho mình vượt lên trên Thiên Chúa. Ông từ chối đến gần Chúa là Cha mình. Ông đã lầm khi nhìn Chúa như là một người trần tục có thế quyền phải lật đổ.  ADong này muốn chấp nhận thái độ của người cha ma quỉ và rồi phạm tội chống lại người Cha trên thiên đàng.

     Chúa Giêsu đã làm ngược lại. Dù đói khát và mệt mỏi, Ngài vẫn bám chặt vào Cha Ngài và kiên định nắm vững tình yêu mến và trung thành với Cha trên trời.

     Giáo lý tóm tắt như sau: “Các tác giả Phúc Âm đã cho thấy ý nghĩa cứu độ của biến cố huyền bí này. Chúa Giêsu là ADong mới đã trung thành trong khi ADong thứ nhất cũ đã sa ngã khi bị cám dỗ.”(c.539)

     Sa mạc cũng cho thấy Chúa Giêsu như một Israel mới. Vì dân Chúa xưa đã được dẫn qua sa mạc trong 40 năm, họ đã than khóc và oán trách chống lại Thiên Chúa. Họ không còn tình cha con, mất tin tưởng và lòng biết ơn đối với Cha ở trên trời.

     “Chúa Giêsu đã hoàn thành ơn gọi của Israel cách trọn vẹn,” -Giáo lý cắt nghĩa. “Trái ngược với những kẽ đã từng khiêu khích Thiên Chúa trong vòng 40 năm trong sa mạc mà Chúa Kito vẫn chứng tỏ mình là đầy tớ của Thiên Chúa hoàn toàn trung thành với ý muốn của Thiên Chúa” (c.539).

     Nhờ ở lòng trung thành với Thiên Chúa mà Chúa Giêsu “đã chinh phục, chiến thắng được ma quỉ: Ngài ‘trói kẻ cướp’ để lấy lại những thứ chúng đã cướp. Những chiến thắng cám dỗ của Chúa Giêsu trong sa mạc đã tiên đoán, cho thấy trước cuộc chiến thắng lúc Khổ Nạn của Chúa Kito, một hành động siêu phàm của sự vâng lời tuyệt đối do tình yêu Con đối với Cha” (c.539).

     Cuộc nổi loạn của loài người đã được chữa lành nhờ lòng trung thành của Chúa Giêsu Kito, ADong mới và Israel mới, và lòng trung thành như vậy chính là tiền thân của mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa, sự khổ nan, cái chết và phục sinh của Chúa khi Chúa tự hy sinh hiến tế để cho chúng ta có được chiến thắng nhất định và trọn vẹn.

     Vì vậy Giáo Hội trở lại với sa mạc như một mô hình của Mùa Chay. Vì thời gian ở trong sa mạc chỉ ra và dẫn đến mầu nhiệm phục Sinh, nên Mùa Chay là mùa chúng ta suy niệm về cuộc khổ nạn của Chúa đồng thời cũng để sửa soạn mừng mầu nhiệm Chúa Phục Sinh. Và việc tái trình diễn này trong phụng vụ là tuần tam nhật thánh tức là 3 ngày thứ 5 thứ 6 và thứ 7 tuần thánh.

     Với ý niệm đó chúng ta sẽ dễ hiểu tại sao Mùa Chay lại bắt đầu với việc mừng lễ tro vào ngày thứ tư hàng năm. Vào ngày này người tín hữu được đánh dấu tro trên trán để kêu gọi phải tự chết cho mình và sống trọn vẹn hơn nữa cho Chúa Giêsu Kito như thánh Phaolo đã dạy:

     “Bạn có biết rằng tất cả chúng ta khi chịu phép rửa trong Chúa Kito là chúng ta chịu phép rửa trong cái chết cuả Người hay sao? Do đó chúng ta phải được chôn vùi cùng với Người bởi phép rửa trong sự chết. Vậy khi Chúa Kito vừa sống lại từ cõi chết trong vinh quang của Chúa Cha thì chúng ta cũng có thể bước vào một cuộc sống mới.” (Rm 6:3-4).  

     Mùa Chay như thể là để nói vể màu nhiệm phục sinh. Mỗi người chúng ta liên kết cùng với Chúa Giêsu trong sa mạc và cam kết mạnh mẽ hơn bước theo con đường Chúa đã đi. Như vậy mùa Chay chính là thời gian ăn chay, cầu nguyện và làm phúc bố thí.

     Mỗi người tin hữu cần phải hiểu rõ màu nhiệm phục sinh và biết tại sao nó lại quan trọng và cần thiết trong đời sống của người Kito hữu. Đây là mục đích của Mùa Chay Thánh và lý do  tại sao có Mùa Chay.

     Nhờ phép rửa, chúng ta trở nên những phần tử của chính thân xác Chúa Kito. Chúng ta trở thành những tham dự viên trong cuộc khổ nạn, cái chết và phục sinh của Người. Mỗi ngày chúng ta được kêu gọi để chịu nạn, nhớ lại những lỗi lầm tội lỗi của chúng ta, những lúc sầu buồn sợ hãi và thời gian đen tối chán nản thất vọng phải ôm thập giá. Nhờ sống với thập giá chúng ta đã kết hợp với Thiên Chúa và tin tưởng vào Người. Nhờ thập giá chúng ta có thể được chia sẻ sự sống lại phục sinh của Chúa Giêsu Kito. 

      Nhịp sống của thế giới ngày nay với muôn ngàn giải trí thác loạn và rối tung đã quá dễ dàng làm cho chúng ta mất đi những gì là mầu nhiệm. Chúng ta dễ dàng chấp nhận những gì thoải mái dễ chịu, lạc thú thế xác vật chất oai hùng vui sướng để tự thỏa mãn. Chúng ta cần Chúa giúp đỡ để chỉnh đốn lại hướng đi cuộc sống chúng ta trở về con đường hy sinh yêu thương. 

     Mùa Chay chính là một tặng phẩm. Nó đòi hỏi phải có suy tư chiêm nghiệm. Nó cũng buộc chúng ta -qua nhiều sám hối và thực hành khổ hạnh- để một lần nữa phải chọn lựa con đường mà Chúa Giêsu đã đi.   

     Mùa Chay đưa chúng ta đến điểm ngừng hoàn toàn -bỏ lại đàng sau mọi thú vui thế tục, đặt tro lên trán chúng ta. Tro là dấu hiệu của suy tàn, khiến chúng ta phải kiêng thịt, không còn ham muốn xác thịt, kêu gọi chúng ta phải cầu nguyện, thúc đẩy chúng ta đi gặp và thăm hỏi giúp đỡ những người nghèo khổ, tự chiêu hồi mình để thực hành khổ hạnh. Mùa Chay nâng lòng trí và tâm hồn chúng ta lên với Chúa để canh tân đời sống. Mùa Chay nói với chúng ta “Mầu nhiệm Phục Sinh là tất cả những gì thuộc về đời sống của bạn. Bạn hãy nhìn thật kỹ vào mầu nhiệm này.”

     Việc thống hối trong Mùa Chay không chỉ cho riêng chúng ta. Nó không đơn thuần là để tự giúp mình hay tự hoàn chỉnh mình, hay tự sửa chữa những lỗi lầm của mình vì lợi ích của riêng của mình. Nếu chỉ có thế thì những việc làm như vậy chỉ là màu mè hoa hòe hoa sói bề ngoài nếu không là tự khen mình- chủ nghĩa tự tôn. Nó cần khuyến khích mọi người trong cộng đồng giáo xứ, bạn bè và tha nhân cùng làm như mình. Mùa Chay cũng cần phải đào sâu hiểu biết và cảm nghiệm những đau thương khổ cực thập giá và phục sinh của Thiên Chúa là đấng đã yêu thương chúng ta và muốn kết hợp với chúng ta.

     Mùa Chay là những gì cảm nghiệm như thể tâm hồn chúng ta nắm bắt ôm chặt được vào với Thiên Chúa và nhận ra lời gọi thanh tẩy để tìm đến với Người qua tình yêu thương cho không của Chúa Giẹsu Kito.

     Vì những lý do này mà Mùa Chay đã chỉ cho chúng ta để chúng ta  chuẩn bị Tuần Thánh cho sốt sáng, trong đó chúng ta cũng mửng -theo phụng vụ- cả mầu nhiệm Phục Sinh mà chúng ta đang sống trong cuộc sống hàng ngày.

     Mùa Chay giúp chúng ta tham dự cách thiêng liêng vào những phụng vụ của Tuần Tam Nhật trong tuần thánh, như chứng nhân việc tái diễn cuộc khổ nạn, chịu chết và sống lại của Chúa Giêsu và nói: “Vâng, tôi biết mầu nhiệm này. Tôi sống mầu nhiệm này và nó là một phần của đời tôi.” Do đó, Mùa Chay Thánh tốt là tất cả như một  Tuần Thánh tốt. Và một Tuần Thánh tốt là tất cả như là một hiệp nhất với Thiên Chúa và hàng ngày tìm kiếm niềm vui Chúa Phục Sinh. Xin Chúa giúp con sống một Mùa Chay Thánh này một cách thật trọn vẹn. mục lục

Nguyễn Tiến Cảnh

Với mục đích để Lời Chúa được loan truyền và thông tin Giáo hội được lan tỏa, Legio Mariæ sẵn lòng để các tổ chức và cá nhân sử dụng lại tin bài đã đăng trên báo giấy và báo mạng legiomariævn.com của mình.

Tuy nhiên, vì đức công bằng và sự bác ái, xin quý vị vui lòng ghi đầy đủ nguồn như sau: “Theo Đạo Binh Đức Mẹ, website: legiomariævn.com”.

Ngoài ra, nếu chia sẻ bài lên mạng xã hội (Facebook, Twitter…), đề nghị dùng đường dẫn gốc trên website của Đạo Binh Đức Mẹ.

Tin liên quan