SUY NIỆM CHÚA NHẬT PHỤC SINH_C

19-04-2025 217 lượt xem

Lời Chúa: Cv 10,34a.37-43; Cl 3,1-4; Ga 20,1-9

Mục lục

“CHÚA GIÊSU PHỤC SINH: TỪ CHỨNG CỚ ĐẾN NIỀM TIN”  + ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm

NIỀM HY VỌNG TỪ NẤM MỒ – + ĐTGM. Giu-se Vũ Văn Thiên

CHÚA SỐNG LẠI THẬT RỒI – Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

MỘT BUỔI BÌNH MINH NẰM NGOÀI THỜI GIAN – Phêrô Phạm văn Trung

LÀM SAO TIN ĐƯỢC CUỘC PHỤC SINH? – Lm. Phêrô Phan Văn Lợi

PHỤC SINH: NỀN TẢNG HY VỌNG VỮNG CHẮC – Jos. Vinc. Ngọc Biển

HY VỌNG CHÁY SÁNG MÃI – Lm. Yuse Mai Văn Thịnh, DCCT

CHẠY VỀ PHÍA CHÚA – Bông hồng nhỏ

“CHÚA GIÊSU PHỤC SINH: TỪ CHỨNG CỚ ĐẾN NIỀM TIN”

+ ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm

NIỀM HY VỌNG TỪ NẤM MỒ

Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, bóng tối ảm đạm còn bao phủ địa cầu, và cũng bao phủ trái tim của bà Ma-ri-a Ma-đa-lê-na và các tông đồ. Họ là những người đã theo Chúa Giê-su ba năm, hoàn toàn hy vọng và yêu mến kính phục vị ngôn sứ thành Na-gia-rét. Họ đã nghĩ rằng Người sẽ thiết lập một kỷ nguyên mới, đó là kỷ nguyên của tự do, của công chính và yêu thương. Nhưng, tất cả đã đổ vỡ. Niềm hy vọng của họ chợt vụt tắt. Đức Giê-su, người mà họ đặt để niềm hy vọng, nay đã bị hành hình và bị treo trên thập giá cho tới chết. Trong sự đau đớn khôn nguôi, các tông đồ tháo xác Chúa khỏi thập giá và an táng trong một ngôi mộ. Tâm sự của hai môn đệ trên đường đi Em-mau đã diễn tả sự thất vọng chán chường này.

Trong đời sống của chúng ta, đôi khi cũng có những ảm đạm trong lòng, giống như tâm trạng của các tông đồ và của những người phụ nữ đã đi theo Chúa Giê-su sau biến cố thập giá. Có thể đó là thất nghiệp, mâu thuẫn gia đình, bệnh tật, tai nạn. Có những lúc chúng ta muốn buông xuôi tất cả, mặc cho cuộc đời trôi nổi theo số phận trước những bế tắc.

Bầu khí ảm đạm trầm buồn không phải là định mệnh, và cũng không thống trị mãi mãi. Cùng với ánh nắng ban mai của ngày mới đầu tuần, một ánh sáng kỳ diệu khác đã bừng lên từ nơi nấm mộ ảm đạm tăm tối. Từ đây, những điều mới mẻ đã khởi đầu. Chúa Giê-su không còn trong ngôi mộ nữa. Sự ngăn nắp trong ngôi mộ minh chứng đây không phải là một vụ trộm cắp. Tấm khăn liệm vẫn còn đó, như một lời chứng về sự phục sinh. Nhờ những dấu chỉ này, tông đồ Gio-an đã tin tất cả những gì Chúa Giê-su đã nói trước đó. Sau đó là các tông đồ khác, bà Ma-ri-a Ma-đa-lê-na và một số người cũng được gặp gỡ Đấng Phục sinh. Họ đã gặp Người khi còn sống, đã chứng kiến cái chết đau thương của Người trên thập giá và giờ đây họ được gặp Người bằng xương bằng thịt, hoàn toàn mới mẻ. Từ nấm mồ, niềm hy vọng đã bừng lên. Niềm vui vỡ òa.

Nội dung chính của sách Tông đồ Công vụ là chứng minh Đức Giê-su đã sống lại từ cõi chết và Người đang hiện giữa các cộng đoàn tín hữu. Chính sự hiện diện của Đấng Phục sinh đã làm nên sức mạnh và sự gắn kết giữa các Ki-tô hữu. Lời giảng của tông đồ Phê-rô (Bài đọc I) là lời chứng hùng hồn về Đấng Phục sinh của một người đã mắt thấy tai nghe. Phê-rô là người đã gặp Chúa Giê-su trước cuộc khổ nạn, trong cuộc khổ nạn và sau cuộc khổ nạn. Ông can đảm làm chứng: Chúa Giê-su chịu chết và ngày thứ ba sống lại đúng như lời Kinh Thánh. Từ nay, những ai tin và kêu cầu danh Chúa Giê-su thì sẽ được ơn tha tội.

Sự kiện Phục sinh là một tin vui và nguồn hy vọng đối với chúng ta hôm nay, vì nó khẳng định: Những thất bại và khó khăn của cuộc sống không thể chặn bước chúng ta nếu chúng ta gắn bó với Chúa trong vinh quang cũng như đau khổ; trong thành công cũng như thất bại. Các tông đồ đã thực sự trải nghiệm điều này. Phê-rô trước đó đã chối Thầy mình đến ba lần. Có thể ông tự nhủ: “Thế là hết. Từ nay còn ai tin tôi nữa?”. Tuy vậy, Chúa Giê-su, nạn nhân của sự từ chối, vẫn tin tưởng ông và trao cho ông nhiệm vụ lãnh đạo đàn chiên của Người. Phê-rô đã lấy lại sự tự tin và ông can đảm rao giảng mà không hề mặc cảm về quá khứ. Các tông đồ khác cũng vậy. Trong cuộc thương khó, vào lúc Chúa Giê-su cần đến các ông nhất, thì các ông lại bỏ Người một mình. Đức Giê-su phục sinh đã đến gặp các ông không phải để khiển trách, mà để ban bình an và giúp các ông kiên vững lòng tin. Hơn nữa, Người đã trao phó cho các ông sứ mạng lên đường để loan báo cho muôn dân tộc tình thương của Chúa Cha, thể hiện qua cuộc khổ nạn và phục sinh của Người. Các ông đã vượt lên những mặc cảm tội lỗi, hân hoan lên đường theo lệnh truyền của Thầy mình.

Tin vào Đức Giê-su phục sinh, là tin vào ơn phù trợ của Người để khởi đầu một cuộc lên đường mới, dù còn nhiều bất xứng. Từ ngôi mộ tăm tối, ánh sáng đã bừng lên. Mỗi chúng ta, dù trong hoàn cảnh bi đát nào, cũng có thể hy vọng vào sự phục hồi và vào tương lai tươi sáng phía trước. Sống mầu nhiệm Phục sinh, là tin cậy phó thác vào Thiên Chúa quyền năng. Đó cũng là xác tín rằng cuộc đời không đang tiến dần đến sự chết, nhưng đến với sự sống. Bởi lẽ Thiên Chúa yêu thương hết thảy chúng ta, dù chúng ta như thế nào đi chăng nữa. Hãy cùng nói như thánh Phao-lô: “Không có gì tách tôi ra khỏi tình yêu của Đức Giê-su”.

“Anh em hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự”, thánh Phao-lô mời gọi chúng ta. Đây là sự trỗi dậy mang tính quyết định, để rồi dù sống giữa thế gian đầy thử thách chông gai, tâm hồn chúng ta vẫn hướng về quê trời, như đích điểm tối hậu của cuộc sống nhân sinh. Đấng Phục sinh đang nâng đỡ và khích lệ chúng ta trong hành trình này.

Giống như các môn đệ, sau khi gặp Đấng Phục sinh, đã mạnh dạn lên đường để loan báo Tin Mừng, chúng ta, Ki-tô hữu, khi mừng lễ Phục sinh được mời gọi đến với những người chưa biết Chúa, những người đang chán nản và thất vọng, để nói với họ rằng: Thiên Chúa yêu thương các bạn, vì hết thảy chúng ta đều là con cái của Ngài. Ngài luôn mời gọi các bạn trỗi dạy và bước đi theo ánh sáng Chân lý, để đạt tới sự hoàn thiện. mục lục

+ ĐTGM. Giu-se Vũ Văn Thiên

CHÚA SỐNG LẠI THẬT RỒI, NIỀM HY VỌNG CỦA CHÚNG TA

Chúa đã sống lại thật rồi ! Allêluia ! Allêluia ! Allêluia !

Đêm mừng vui

Đêm nay, đêm mang lại niềm vui đặc biệt. Sao không thể vui mừng được, bởi vì đêm nay Chúa Ki-tô ra khỏi ngục vinh thắng, đêm mà xiềng xích sự chết do Tội Tổ Tông gây ra bị bẻ gãy. Sự chết đó đã khiến cho bao người thất vọng, làm tiêu tán hết mọi nỗ lực của con người. Nay Con Thiên Chúa, vì yêu thương đã vâng phục, với cái giá phải trả là chết trên thập giá, để hòa giải tội nhân với Chúa, mang lại sự sống cho con người.

Vâng, Chúa Ki-tô đã sống lại sáng láng bước ra khỏi mồ, sau khi tiêu diệt sự chết, bẻ gãy mọi ràng buộc của ngôi mộ. Con Thiên Chúa không còn ở trong mộ, bởi vì Người không thể nào là người tù của sự chết (x. Cv 2, 24) và ngôi mộ không thể nào giữ lại “Ðấng hằng sống” (Kh 1,8). Ðấng là chính nguồn mạch của sự sống đã kết thúc cuộc hành trình nơi ngôi mộ như mọi người, nhưng Người đã chiến thắng sự chết, sống lại ra khỏi mồ. Người đã mở lòng đất và mở ra thật rộng để hướng về Trời, đưa chúng ta ra khỏi mồ tăm tối, dẫn chúng ta từ đất về Trời với Chúa Cha.

Nào ta hãy mừng vui :“Mừng vui lên hỡi muôn lớp cơ binh thiên thần trên trời. Cùng vui lên, hỡi những thừa tác viên này… Và vui lên, toàn trái đất vui lên … tất cả vũ trụ đều hân hoan… Cùng vui lên, ôi Mẹ Hội Thánh vui lên…khắp nơi trong cung điện này hòa vang lên ngàn muôn tiếng ca reo mừng của nhân trần” (x.Exsultet). Cả Trời đất mừng vui. Mừng vui lên! Hỡi anh chị em!!! Chúa đã sống lại thật rồi, niềm hy vọng của chúng ta. Alleluia.

Này người trần hỡi hãy vui lên A-llê-lui-a, vì Chúa đã sống lại thật rồi đem niềm vui và hy vọng tràn trề cho thế giới. Chúa đã sống lại rồi, vinh quang tỏa lan khắp nơi. Chúa đã sống lại rồi, cho muôn người hưởng phúc quê Trời.

Đêm tràn đầy hy vọng

Chúa Phục sinh là nguồn hy vọng cho chúng ta. Thế giới chúng ta đang sống thật ảm đạm và đầy thất vọng. Nào là thiên tai như động đất mới đây nhất lại Myanmar, lụt lội, bão tố, dịch lệ; nào là nhân họa như chiến tranh, nghèo đói, bệnh tật, chết chóc, kinh tế suy thoái… Đại dịch Covid 19 kéo dài trong 3 năm đưa thế giới vào sự khủng hoảng toàn cầu, cuộc chiến thương mại đang leo thang, chiến tranh tại Ukraina do Nga khai mào chưa có hồi kết gây ra biết bao đau thương chết chóc cho bao người.

Tạ ơn Chúa vì Chúa là Đấng hằng sống, Người đã chết nhưng Người cũng đã Phục sinh, toàn thắng tử thần, trở thành nguồn hy vọng sống cho nhân loại. Chúa sống lại từ trong kẻ chết, đó là niềm hy vọng lớn nhất của chúng ta. Đúng là không có Thiên Chúa, sẽ không có hy vọng. Vì ngoài Thiên Chúa, Đấng hằng sống, nhân loại không tìm đâu ra niềm hy vọng cho cuộc sống mình.

Đức Giê-su, Đấng Cứu Thế của chúng ta đã đến đem niềm hy vọng sống đến cho thế giới, vì Người là Đấng hằng sống. Thánh Phao-lô nhắc chúng ta: “Thuở ấy, anh em không có Ðức Ki-tô, người dưng nước lã với quốc tịch Ít-ra-en, xa lạ với các giao ước dựa trên lời hứa, không có Thiên Chúa, không hy vọng nơi thế gian này!” (Êph 2,12).

Chúa sống lại là sự kiện lịch sử không thể chối cãi, mặc dù có người luôn tìm cách để bác bỏ, phủ nhận, nhưng lịch sử, Lời Kinh Thánh và kinh nghiệm của các chứng nhân đã quả quyết điều trên.

Trước hết, ngôi mộ trống tại Do Thái là bằng cớ lịch sử hiển nhiên của sự phục sinh mà không ai có thể chối cãi được. Thứ hai, lời Kinh Thánh trong cả bốn sách Tin Mừng đều ghi lại rất rõ sự kiện Chúa sống lại một cách khải hoàn (Mt 28,1-20; Mc 16,1-20; Lc 24,1-53; Ga 20,1-31). Lời Kinh Thánh trong Tin Mừng Lu-ca 24,5-6 như là lời tiểu biểu cho sự kiện Chúa phục sinh với tinh thần xác tín mạnh mẽ: “Sao các ngươi tìm người sống trong vòng kẻ chết? Ngài không ở đây đâu, song Ngài đã sống lại” (Lc 24,5-6).

Chúa Phục sinh là sự thật lịch sử chứ không phải là huyền thoại, hoang đường. Kinh Thánh đã khẳng định: “Chúc tụng Thiên Chúa và là Cha của Chúa chúng ta, Ðức Giê-su Ki-tô, Ðấng đã thể theo lòng thương hãi hà mà tái sinh chúng ta cho hy vọng hằng sống nhờ sự phục sinh từ cõi chết của Ðức Giê-su Ki-tô” (1 Pr 1,3). Đúng, Chúa phục sinh là nguồn hy vọng cho chúng ta.

Giáo hội lữ hành trong hy vọng

Chính Chúa Giê-su đã phán khi làm cho La-da-rô từ kẻ chết sống lại rằng: “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin ta dù có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ. Con có tin điều đó không?” (Ga 11,25-26). Gio-an mô tả: “Vừa thấy Ngài, tôi phục mình dưới chân Ngài, chết điếng! Nhưng Ngài đặt tay hữu Ngài trên tôi, mà rằng: “Ðừng sợ! Ðầu hết và Sau hết, chính là Ta. Ðấng hằng sống; Ta đã chết; và này Ta sống đời đời kiếp kiếp; Ta có chìa khóa sự chết và âm phủ” (Kh 1,17-18).

Chúa Giê-su chính là Thiên Chúa Toàn năng và là Đấng hằng sống đã ban cho nhân loại niềm hy vọng chắc chắn nhờ tin vào quyền năng của Chúa Thánh Thần. Đó là hạnh phúc diệu kỳ mà Thánh Phao-lô khẩn cầu: “Nguyện xin Thiên Chúa, nguồn hy vọng, ban cho anh em được đầy mừng vui và bình an trong tin vững, để anh em được ứa tràn hy vọng trong quyền năng của Thánh Thần!” (Rm 15,13). Ba điều kỳ diệu Chúa phục sinh mang lại cho chúng ta là: Đời sống được biến đổi (tái sinh) ; Được sống trong sự vui mừng, bình an, hy vọng ; Được sống lại sau khi chết, và được hưởng sự sống đời.

Những ai hết lòng tin nhận Chúa Giê-su đều đã kinh nghiệm về cuộc sống mới tràn ngập niềm vui và hy vọng trong đời hôm nay và mai sau. Sống phận lữ hành trên tràn gian này đầy gian truân, thử thách, nhưng vì Chúa Giê-su sống, nên chúng ta bước đi với hy vọng!

Chúa đã sống lại thật rồi, niềm hy vọng sống của chúng ta. Alleluia! Alleluia! mục lục

Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

MỘT BUỔI BÌNH MINH NẰM NGOÀI THỜI GIAN

Sự im lặng trước Phục Sinh. 

Các môn đệ của Chúa Giêsu đang lặng lẽ chìm trong nỗi nhớ thương người Thầy yêu dấu của họ. Cõi lòng họ như chứa đầy bóng tối, giống như bóng tối của khu vườn Giệtsimani, vào đêm người Thầy của họ bị bắt, giống như “bóng tối bao phủ khắp mặt đất” (Lc 22: 44) thê lương từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín trên đỉnh đồi Canvê, nơi người Thầy của họ bị xử chết cách bất công quá mức đau thương. Một người Thầy “hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11: 29), luôn rao giảng những lời yêu thương và thực hiện những hành động vô cùng thương xót: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 6: 36). Những bóng tối ấy sẽ không bao phai mờ trong tâm trí họ những ngày còn lại trong đời. Thế là hết! Hết rồi những hy vọng về một Đấng Kitô - Cứu Thế, khi họ chứng kiến tận mắt Thầy mình làm phép lạ chữa lành bệnh tật, trừ quỷ hay hồi sinh kẻ chết. Họ chỉ còn ký ức lưu giữ mọi cử chỉ, mọi khoảnh khắc vui mừng hãnh diện vì uy thế của Thầy trước toàn dân: “Ngài là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân” (Lc 24: 19), hay những ngày tháng vất vả lặn lội rao giảng Nước Thiên Chúa, nhưng đầy hạnh phúc êm đềm của tình Thầy trò: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14;1-3). Nhất là làm sao họ có thể quên được, chỉ vài ngày trước đây, khoảnh khắc vinh quang của Thầy tiến vào thành thánh Giêrusalem giữa những tiếng “Hosanna, Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa!” (Lc 19: 38). Và những giờ phút dầy đặc đau thương và thống khổ của hai ngày qua. Mọi thứ về Thầy coi như đã kết thúc: “Bấy giờ ông Philatô trao Chúa Giêsu cho họ đóng đinh vào thập giá. Chính Ngài vác lấy thập giá đi ra, đến nơi gọi là Cái Sọ, tiếng Hípri là Gôngôtha; tại đó, họ đóng đinh Ngài vào thập giá… Và để ứng nghiệm lời Kinh Thánh, Người nói: Tôi khát! Ở đó, có một bình đầy giấm. Người ta lấy miếng bọt biển có thấm đầy giấm, buộc vào một nhành hương thảo, rồi đưa lên miệng Ngài. Nhắp xong, Chúa Giêsu nói: Thế là đã hoàn tất! Rồi Ngài gục đầu xuống và trao Thần Khí” (Ga 20: 16-18, 28-30). Nỗi đau buồn bắt đầu trở nên sâu sắc hơn. Vị Thầy Giêsu của họ không còn nói nữa, Ngài không thể nói nữa, họ không thể nghe gì từ môi miệng kỳ diệu của Ngài nữa. Đó là lý do các môn đệ im lặng, một sự im lặng trong nỗi vỡ mộng cay đắng! 

Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhận xét rằng “Đôi khi chúng ta cũng nghĩ rằng niềm vui gặp gỡ Chúa Giêsu đã thuộc về quá khứ, trong khi hiện tại điều chúng ta biết lại là những ngôi mộ bị niêm phong: những nỗi thất vọng, những cay đắng và ngờ vực của chúng ta, những nỗi niềm “không còn làm được gì nữa”, “mọi thứ sẽ không bao giờ thay đổi”, “tốt hơn hết là sống cho qua ngày” bởi vì “không có gì chắc chắn về ngày mai”. Chúng ta cũng vậy, nếu chúng ta từng bị đau đớn dày xéo, bị đè nén bởi nỗi buồn, tủi nhục vì tội lỗi, cay đắng vì thất bại nào đó hay ám ảnh bởi ưu tư nào đó, đã nếm trải vị đắng của mệt mỏi và đã thấy niềm vui phai nhạt trong lòng…Thêm nữa, có lẽ chúng ta đã thấy mình đối mặt với cái chết, bởi vì nó đã cướp đi sự hiện diện ngọt ngào của những người thân yêu của chúng ta hoặc vì nó đã chạm vào chúng ta trong bệnh tật hoặc tai họa, và chúng ta dễ dàng trở thành con mồi của sự vỡ mộng và dập tắt nguồn hy vọng của chúng ta” (ĐGH Phanxicô, Bài giảng đêm vọng Phục Sinh, 08 tháng Tư năm 2023). 

Sự sống trỗi dậy từ nấm mồ mở toang 

Chúa Giêsu im lặng trong cõi sâu thẳm của thế giới và của lịch sử, nơi mọi thứ đều im lặng, nơi không còn tiếng cười nói hay tiếng ca hát nữa. Nhưng không phải là hết. Ngài đi xuống tận huyệt mộ của thế giới những người chết, xuống những vực thẳm của địa ngục để phá hủy nó, để mở chúng ra cho sự sống, để khôi phục lại mọi câu chuyện và lịch sử của nhân loại: “Ngài đã đến rao giảng cho các vong linh bị giam cầm” (1 Pr 3: 19). Chúa Kitô xuống sâu thẳm trong lòng đất, giống như mặt trời lặn xuống, nhưng không ngừng chiếu sáng. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa đã chết, bị giết chết, “Ngài xuống âm phủ để kẻ chết nghe tiếng Con Thiên Chúa và ai nghe thì được sống (Ga 5,25). Chúa Giêsu, Đấng khơi nguồn sự sống (Cv 3,15). Đã nhờ cái chết của Ngài, tiêu diệt tên lãnh chúa gây ra sự chết, tức là ma quỷ, và đã giải thoát những ai vì sự chết mà suốt đời sống trong tình trạng nô lệ (Dt 2,14-15)” (GLHTCG, số 635). Sự sống đã bị cái chết nuốt chửng, giống như cuộc hành trình xuống địa ngục của Chúa Giêsu, chính là để chờ khoảnh khắc nhảy mừng lên trong ánh sáng và chiến thắng trong tiếng ca Exsultet - Mừng vui lên.

“Trong sự im lặng của chúng ta, một sự im lặng áp đảo chúng ta, những hòn đá bắt đầu phải kêu lên (Lc 19:40) và dọn đường cho sứ điệp vĩ đại nhất mà lịch sử chưa từng nghe thấy: “Ngài không còn ở đây nữa, vì Ngài đã sống lại” (Mt 28: 6). Các hòn đá trước ngôi mộ kêu lên và công bố sự khai mở một con đường mới cho tất cả mọi người. Thiên nhiên chính là người đầu tiên vang vọng khúc khải hoàn của cuộc sống trên tất cả những gì đã cố làm câm nín và bóp nghẹt niềm vui của Tin Mừng. Hòn đá trước ngôi mộ là người đầu tiên nhảy mừng và theo cách riêng của nó vang lên một bài hát trầm trồ ngợi khen, vui mừng và hy vọng, trong đó tất cả chúng ta được mời tham gia” (ĐGH Phanxicô, Bài giảng đêm vọng Phục Sinh, 31/3/2018)

Chúa Kitô xuống ngục tổ tông để giải cứu tất cả những ai đang khóc than trong câm lặng khỏi vực sâu u tối đó. Ngài cũng đi vào tận đáy sâu linh hồn của mọi người để những ai tin vào Ngài thì cuộc đời của họ được biến đổi từ bên trong, được giải thoát khỏi những giờ phút cô đơn và hoang mang, như những môn đệ khi xưa của Ngài. Không có gì là không được cứu chuộc. Để Thiên Chúa có thể lên tiếng, chúng ta phải biết im lặng, như một ngôi mộ câm lặng, ngay bây giờ và trong cõi chết mai sau, vì đó là sự chuẩn bị tuyệt vời để lắng nghe lời phán quyết của Thiên Chúa. Trong cái chết của Chúa Giêsu, Thiên Chúa dường như im lặng và vắng mặt. Nhưng sự im lặng này không phải là hư vô, nhưng chính là hy vọng. Trong cái chết của Chúa Giêsu, thế giới trở nên trống rỗng nguồn sống. Nhưng sự trống rỗng này không phải là phủ định sạch trơn mà là sự chuẩn bị cho khả năng viên mãn. Sự trống rỗng trở nên vùng đất màu mỡ chuẩn bị cho vụ mùa bội thu. Thất bại trở thành bước mở đầu cho chiến thắng. 

“Mừng vui lên hỡi chư thần chư thánh,
cấp thừa hành của Chúa cõi thiên cung.
Trổi vang lên, kèn loan ơn cứu độ,
Kính chào Đức Vua chiến thắng oai hùng.
Mừng vui lên, hỡi khắp miền dương thế,
bốn bề đang rực rỡ ánh hào quang:
Vua vĩnh cửu nay rạng ngời chiếu sáng,
Đẩy lùi xa bóng tối của trần gian….”
(Mở đầu thánh thi Exsultet)

Buổi bình minh của sự sống viên mãn

Vào buổi sáng kỳ lạ ấy, một buổi bình minh dường như nằm ngoài thời gian, “đẩy lùi xa bóng tối của trần gian.” Đó là buổi bình minh mở đầu “chiến thắng oai hùng” của “Vua vĩnh cửu nay rạng ngời chiếu sáng” và kết thúc những ngày chết chóc mãi mãi tăm tối của loài người. Đó là một buổi sáng với thứ tin tức nghẹt thở, khi các tông đồ thấy bà Maria Mađalêna “chạy về gặp ông Simon Phêrô và người môn đệ Chúa Giêsu thương mến. Bà nói: "Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Ngài ở đâu” (Ga 20: 2). Một xác chết bị đâm thâu bởi một ngọn giáo, không còn máu, bị chôn chặt trong mộ đá niêm phong, đã sống lại với một sự sống mới mầu nhiệm. Cái chết, kẻ thù lâu đời nhất của loài người, đã bị chế ngự. Chúa Giêsu đã giữ lời hứa của mình: “Quả vậy, Ngài sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng, nhục mạ, khạc nhổ. Sau khi đánh đòn, họ sẽ giết Ngài, và ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại” (Lc 18: 32-33). Thánh Gioan thuật lại lời hứa này cách cao vời và thấm đẫm chất suy tư thần học: “Ít lâu nữa, anh em sẽ không còn trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy… Thầy bảo thật anh em: anh em sẽ khóc lóc và than van, còn thế gian sẽ vui mừng. Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui…Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16: 16, 20, 28, 32). Trong bài đọc thứ nhất, trích sách Công vụ Tông đồ, thánh Phêrô làm chứng cụ thể rõ ràng, không úp mở, bóng gió xa xôi: “Chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Ngài đã làm trong cả vùng dân Do thái và tại chính Giêrusalem. Họ đã treo Ngài lên cây gỗ mà giết đi. Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Ngài trỗi dậy, và cho Ngài xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Ngài, sau khi Ngài từ cõi chết sống lại” (CvTđ 10: 39-41).

Thông điệp từ những tấm vải liệm 

Câu chuyện về Ladarô, vốn chỉ có trong sách Tin Mừng Gioan, là bài Tin mừng được phép đọc bất cứ ngày nào trong tuần thứ Năm Mùa Chay vừa qua. Phụng vụ Hội Thánh muốn nói với con cái của mình điều gì khi cho phép như vậy? Khi Chúa Giêsu làm cho Ladarô sống lại, Ngài giải thoát Ladarô khỏi tấm vải liệm: “Người chết liền ra, chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn. Chúa Giêsu bảo: Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi” (Ga 11: 44). Dù đã được Chúa Giêsu dùng quyền năng của Ngài làm cho sống lại từ cái chết, Ladarô rồi một lần nữa sẽ lại phải chết, như bao người khác sẽ phải chết. Dấu chỉ “chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn” là minh chứng cho thực tại chết chóc không thể tránh khỏi của thân phận phàm nhân, không có ngoại lệ nào vượt ra khỏi quy luật sinh lão bệnh tử. Chúa Giêsu cũng phải chết, không ngoại lệ, đúng theo quy luật đó. Tuy nhiên, điều ngoại lệ, ngoại thường nơi Chúa Giêsu là Ngài tự nguyện chọn cái chết: “Ngài nhất quyết đi lên Giêrusalem” (Lc 9: 51). Cụ thể là khi nghe Thầy mình tỏ cho biết Ngài “phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16: 21), Phêrô tỏ ý ngăn cản Ngài: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” (Mt 16: 22) và ngay lúc ấy ông bị trách mắng nặng lời: “Satan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16: 23). Sau này thánh Phaolô khẳng định: “Chúa Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2: 6-8). 

Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI đã giải thích: “Tất cả những điều này không phải là kết quả của một cơ chế mơ hồ hay số phận mù quáng: đúng hơn, đó là sự lựa chọn tự do của chính Ngài, thông qua sự tuân thủ quảng đại vào kế hoạch cứu độ của Chúa Cha. Và cái chết mà Ngài phải chịu là cái chết đóng đinh, cái chết nhục nhã và hạ nhục nhất mà người ta có thể tưởng tượng được. Chúa tể vũ trụ đã làm tất cả những điều này vì tình yêu dành cho chúng ta: vì tình yêu, ngài đã chọn tự hạ mình và trở thành anh em của chúng ta; vì tình yêu, Ngài chia sẻ tình trạng của chúng ta, tình trạng của mọi người nam và mọi người nữ…Ngài đã chọn sự khiêm nhường sâu xa nhất và mang hình dạng của một con người” (Buổi tiếp kiến chung, Quảng trường Thánh Phêrô, Thứ tư, ngày 8 tháng 4 năm 2009).  

Nếu việc Chúa Giêsu chịu chết không phải là một ngoại lệ, nhưng đúng theo quy luật sinh hóa, vật lý của kiếp người. thì việc Ngài “trỗi dậy từ cõi chết” (Ga 20: 9) lại là một điều không đúng chút gì theo những quy luật đó. Đó là một sự kiện có một không hai, một việc phi thường. Gioan “cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó” (Ga 20: 5). Điều này khác hẳn việc Ladarô được Chúa Giêsu làm cho sống lại nhưng tay chân mặt mũi còn bị quấn trong vải liệm. Hai tông đồ Phêrô và Gioan thấy chiếc khăn mà Giuse và Nicôđêmô đã dùng để quấn mặt và đầu của Chúa Kitô ở một nơi riêng biệt: “Ông Simôn Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Chúa Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi” (Ga 20: 6-7). Chúa Giêsu đã gấp khăn liệm của chính Ngài và đặt nó sang một bên. Trong ngôi mộ là một quang cảnh trật tự và yên tĩnh vì Chúa Giêsu Phục Sinh vượt qua tấm khăn liệm của Ngài. Ngài để lại một quang cảnh bình an để tất cả những ai nhìn vào và tin thì có được sự bình an trong lòng rằng Ngài vẫn sống và khỏe mạnh. Đó là loại bình an mà chỉ có Chúa Giêsu mới có thể ban tặng: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (Gioan 14:27). Ngôi mộ là hình ảnh hoàn hảo về trật tự, một trật mới mẻ và tuyệt đối! Chúa Giêsu làm chủ cái chết: “Ngài đón nhận cái chết tự nội tâm Ngài và biến nó thành một cử chỉ yêu thương. Xem bề ngoài đó là chuyện tàn bạo dữ dội – việc đóng đinh vào thập giá – nhưng bên trong là hành vi yêu thương tận hiến toàn vẹn” (Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, 21-8-2005, Youcat số 210). Và bằng cách thế đó, Chúa Giêsu vượt lên trên cái chết. Ngài thực hiện “cuộc vượt qua cứu độ này từ cõi chết sang cõi sống, nhờ việc chết và sống lại của Ngài, ngay cả trong thời hiện tại này” (Youcat, số 212).

Chúng ta có muốn đứng bên cạnh lối vào ngôi mộ của Chúa Giêsu và chăm chú nhìn vào ngôi mộ trống đó như Gioan không: “Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó…” (Ga 20: 5)? Chúng ta có như Gioan nhận ra sự khác biệt giữa việc trở lại cuộc sống phàm nhân của Ladarô và Sự Phục Sinh của Chúa Kitô không? “Ông đã thấy và đã tin” (Ga 20: 9). 

Hôm nay, chúng ta là những người chấp nhận sứ điệp Tin mừng về sự Phục Sinh bằng đức tin đơn sơ. Chúng ta không thấy Chúa Giêsu sống. Chúng ta không thấy Ngài chết và chúng ta không thấy ngôi mộ. Tuy nhiên, những chiếc khăn liệm đó vẫn đang rao giảng cho chúng ta, nhắc nhở mỗi người chúng ta rằng mặc dù chúng ta không thấy Ngài ngay bây giờ, Ngài sẽ trở lại và chúng ta sẽ thấy Ngài vào lúc đó: “Họ sẽ được nhìn thấy tôn nhan Ngài, và thánh danh Ngài ghi trên trán họ…Phải, chẳng bao lâu nữa Ta sẽ đến” (Khải Huyền 22:20).

Việc còn lại chúng ta cần làm là sống theo lời dạy của thánh Phaolô, trong bài đọc thứ hai: “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Chúa Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Chúa Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới. Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Chúa Kitô nơi Thiên Chúa. Khi Chúa Kitô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Ngài, và cùng Ngài hưởng phúc vinh quang” (Cl 3:1-4). mục lục

Phêrô Phạm Văn Trung

LÀM SAO TIN ĐƯỢC CUỘC PHỤC SINH?

Hầu như mọi tín hữu Công giáo lúc này đều nghe nói tới Bức Khăn liệm hiện để tại thành Turino nước Ý. Khăn liệm này là một thánh tích mà người ta cho rằng đã dùng để liệm xác Chúa Giê-su. Nó là một tấm vải gai dài 441cm và rộng 113cm, in đường nét thân xác (mặt trước và mặt sau) của một nam nhân với các vết đánh đòn rất rõ trên toàn bộ thân thể cũng như nhiều vết thương nhuốm máu từ chân đến đầu, đặc biệt là những dấu máu lớn ở cạnh sườn bên phải, trên hai cổ tay, hai bàn chân, chứng tỏ nạn nhân đã lãnh kiểu hình khổ đóng đinh thập giá của người Rô-ma.

Wikipedia (Bách khoa Toàn thư mạng) viết rằng theo trình thuật của Tin Mừng Gio-an, sau khi được bà Ma-ri-a Mác-đa-la chạy về báo tin, hai tông đồ Phê-rô và Gio-an đã vội ra mồ và nhận thấy xác Đức Giê-su biến mất khỏi đó, nhưng tấm vải dùng để liệm xác thì vẫn còn. Truyền thống cho rằng chính thánh Phê-rô đã thu nhặt tấm vải đem về nhà. Theo ghi chép của thánh nữ Nino (296-338), khăn liệm này sau đó thuộc sở hữu của vợ tổng trấn Phi-la-tô tại Giê-ru-sa-lem. Tiếp đến, Giám mục sử gia Eusebius (#260-339) làm chứng: khăn được đưa đến Edessa (Thổ Nhĩ Kỳ). Rồi nó trải qua một cuộc hành trình dài sang Constantinople (Istanbul), Lirey (Pháp) năm 1208, Chanbéry (Pháp) và cuối cùng đến Turinô năm 1578 để ở lại đó cho tới lúc này. Người ta vẫn tôn kính nó từ bao thế kỷ và đến năm 1898 thì được khoa nhiếp ảnh khám phá cách đặc biệt. Khi lần đầu tiên chụp hình Khăn liệm, người ta khám phá thấy nó như là một âm bản, còn tấm phim chụp (đảo màu) lại như một dương bản, cho ta một bức chân dung hết sức sống động, lạ lùng. Và kể từ đó, không biết bao nhiêu nhà khoa học, thần học, chú giải Thánh kinh, cá nhân có, tập thể có, đã cúi mình trên tấm khăn, phân tích, tìm hiểu đến từng centimét vuông và hầu hết đã công nhận nó là xác thực. Người ta coi nó như chứng nhân thầm lặng của việc Đức Giê-su phục sinh!

Hôm nay, lễ Phục sinh, là lễ lớn nhất trong năm.... và không chỉ đối với Ki-tô hữu! Nhưng đối với mọi con người, mọi kẻ phải chết! Vì bất cứ ai biết suy nghĩ đều phải thừa nhận rằng rốt cục chỉ có hai quyền lực trên trái đất của loài người: quyền lực của tử thần, luôn luôn thắng thế, nếu Đức Giê-su đã không phục sinh... và quyền lực của Đức Giê-su hằng sống, nếu quả thật Người đã chiến thắng tử thần cho chúng ta được nhờ hết thảy.

Độc Đáo Tính Tuyệt Đối Của Việc Đức Giê-Su Phục Sinh

Thật vậy, cần phải hiểu rõ sự khác biệt giữa cuộc phục sinh của Đức Giê-su với mọi cuộc phục sinh khác. La-da-rô, con gái ông Gia-ia, con trai bà góa Na-im, nói cho đúng, đã chỉ “hồi sinh”: họ đã lại bắt đầu sống “như trước”, luôn luôn tuân phục các định luật của thân phận con người, với những đau khổ mới, và một ngày nào đó, phải lãnh chịu cái chết lần thứ hai!

Đức Giê-su, trái lại, đã đi vào trong một “sự sống hoàn toàn mới mẻ”, trên đó “đau khổ và tử thần chẳng còn quyền chi” (x. Rm 6,9). Để giúp hiểu trường hợp tuyệt đối độc đáo này, thánh Phao-lô từng sử dụng hình ảnh so sánh “hạt lúa mì”: bạn gieo một hạt lúa mì đầy bột trắng... và từ đó nẩy ra một cọng cây xanh... Đức Giê-su cũng vậy, Người đã chẳng lấy lại thể xác phải chết (khí huyết, có sinh khí) của mình, nhưng đã trỗi dậy trong một thể xác thần thiêng (có thần khí) (1Cr 15,44). Qua cuộc phục sinh của mình, Đức Giê-su chẳng phải “trở về” với cuộc sống trước, Người đã “đi vào Vinh quang của Chúa Cha”: thành thử Người không còn phải chịu các giới hạn của thời gian, nơi chốn, sáng tối, trọng lực...

Nhưng cái gì cho phép chúng ta đưa ra những xác định căn bản đó?

Dấu Hiệu Những “Băng Vải Rũ Xuống” Và “Khăn Liệm Xếp Lại”.

Thông thường, người ta hài lòng với việc nói đến “mộ trống”. Và đúng là ngôi mộ danh tiếng này có mặt khắp nơi trong trình thuật của thánh Gio-an, chứng nhân tận mắt – chữ “mộ” trở đi trở lại đến 7 lần trong trang vắn vỏi này. Tuy nhiên, tất cả sự nhấn mạnh nằm trên “khăn-vải”. Sau đây là bản văn dịch sát chữ theo tiếng Hy-lạp: “Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải (othonia) rũ xuống (keimena), nhưng không vào. Ông Si-môn Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải (othonia) rũ xuống (keimena) và khăn liệm (sudarion) đã đặt trên đầu Đức Giê-su. Khăn này không rũ xuống (keimenon) với các băng vải (othonia), nhưng xếp lại, đúng chỗ của nó. Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin...”

Thật thế, chính việc xếp đặt các khăn vải đã gây nên nơi Gio-an ánh chớp trực giác: Người đã sống lại! Trong ngôi mộ này, chẳng một ai đã đi vào, không vật gì đã xê dịch. Giả thuyết của Ma-ri-a Mác-đa-la, quả quyết rằng “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu”, giả thuyết về sự bốc xác ấy rõ ràng là sai lạc. Vì các băng-vải đã không bị đổi chỗ, và chẳng có dấu vết nào chứng tỏ ai đó đã chạm vào chúng. Cách đơn giản, do thân thể vật lý của Đức Giê-su đã thôi ở đó, bên trong các băng-vải, nên chúng chỉ “rũ xuống”| tại chỗ. Và một điểm chính xác thêm nữa được nhấn mạnh: bức khăn liệm, một tấm vải dài gấp đôi thân người, được lót bên dưới tử thi từ gót chân đến lưng, vòng qua đầu, che mặt, đắp trên ngực rồi chạy xuống các ngón chân (như tục khâm liệm đương thời của người Do-thái), khăn liệm đó chỉ rũ xuống tại chỗ, xếp thành hai lớp, khi thân xác Đấng Phục sinh rời đi. Còn các băng vải là 3 dây buộc bên ngoài, ở cổ, ở lưng và ở chân để giữ thân người trong khăn liệm nên nay cũng rũ xuống vì chẳng còn tác dụng nữa.

Không, các tên trộm xác đã chẳng thể nào cẩn thận như vậy. Các băng vải (othonia) và khăn liệm (sudarion) đã chẳng hề bị bàn tay người chạm tới. Tử thi cũng đã chẳng bị “lấy đi.” Thân thể ấy đơn giản là đã biến mất, kiểu bay hơi, thành “thần thiêng”, như thánh Phao-lô sẽ nói.

Chỉ Có Đức Tin Đưa Chúng Ta Vào Mầu Nhiệm Thần Linh Ấy

Con người, với giác quan, lý trí, tưởng tượng của mình, đã chẳng có phương cách nào kiểm soát cách khoa học một biến cố ngoại thường như vậy. Còn chính Gio-an thì hết sức khiêm tốn: “Ông đã thấy và đã tin”. Hãy nhớ kỹ rằng lúc ấy Gio-an chưa thấy Đức Giê-su sống lại. Điều này, ông sẽ kể vào Chúa nhật tuần tới, trong trang Tin Mừng tiếp theo. Chính nhờ đức tin mà ông đã “tin”. Chính nhờ một mình đức tin mà ta đạt tới mầu nhiệm thần linh là sự Phục sinh theo nghĩa chặt. Điều đó chẳng muốn nói rằng đức tin là vô lý hay phi lý. Tin Mừng đã đem tới cho chúng ta các “dấu chỉ” cụ thể, lịch sử, từng khiến các chứng nhân tận mắt phải “tin”. “Ông đã thấy.” Ông đã thấy dấu chỉ các “băng vải rũ xuống” nền mộ.

Ta đoán được cảm xúc của Gio-an trước hiện tượng tuyệt đối mới mẻ ấy vốn làm nền tảng cho niềm hy vọng của chúng ta: không phải tử thần có tiếng nói sau hết của cuộc đời, song là Thiên Chúa. Hôm nay, như mọi Chúa nhật – ngày được phát minh, được đặt tên vì thế – chúng ta hát mừng đức tin của mình trước mọi anh chị em phải chết của mình: “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau. Alleluia. Lạy Chúa. Xin tôn vinh Ngài!”

Viết theo Noël Quesson. mục lục

Lm. Phêrô Phan Văn Lợi

PHỤC SINH: NỀN TẢNG HY VỌNG VỮNG CHẮC

Kính thưa cộng đoàn,

Hôm nay, tâm hồn chúng ta hòa chung niềm vui khôn tả, một niềm vui không đến từ những điều chóng qua, nhưng trào dâng từ chân lý vĩnh cửu: Đức Kitô đã phục sinh! Tiếng "Alleluia" vang vọng trong các thánh đường không chỉ là một lời tung hô, mà là tiếng vọng của chính Thiên Chúa, khẳng định chiến thắng tuyệt đối của sự sống trên sự chết, của ánh sáng trên bóng tối.

Với niềm tin kiên vững như đá tảng, chúng ta tuyên xưng rằng sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô không phải là một câu chuyện cổ tích, một huyền thoại xa vời. Nó là cột trụ đức tin, là nền tảng vững chắc cho mọi hy vọng của người Kitô hữu. Nếu Đức Kitô đã không sống lại, như Thánh Phaolô đã khẳng định, thì đức tin của chúng ta quả là vô ích (x. 1 Cr 15,14). Nhưng không! Chúng ta không tin vào một Đấng đã chết và chìm vào quên lãng. Chúng ta tin vào Đức Kitô, Đấng đã chiến thắng tử thần và đang sống hiển vinh bên hữu Đức Chúa Cha.

Sự phục sinh của Đức Kitô là một biến cố có thật, được chứng thực bởi những nhân chứng sống động, như: Những người phụ nữ đạo hạnh đã đến ngôi mộ vào buổi sáng Phục Sinh, không tìm thấy thi hài Chúa mà chỉ thấy những dấu chỉ của sự sống mới. Các Tông Đồ, từ những con người sợ hãi và thất vọng, đã trở nên những chứng nhân can đảm, sẵn sàng đổ máu để loan báo Tin Mừng Phục Sinh sau khi chính mắt thấy Chúa sống lại. Hàng trăm môn đệ đã gặp gỡ Đấng Phục Sinh, ăn uống và trò chuyện với Người. Những cuộc gặp gỡ ấy không phải là ảo giác, mà là những trải nghiệm xác thực, củng cố niềm tin các thế hệ Kitô hữu cho đến ngày nay.

Sự phục sinh của Đức Kitô không chỉ là một phép lạ cá nhân dành cho riêng Người. Nó mang một ý nghĩa toàn thể, một sức mạnh biến đổi toàn bộ nhân loại và vũ trụ. Nhờ sự phục sinh, tử thần – kẻ thù cuối cùng của con người – đã bị đánh bại. Quyền lực của tội lỗi đã bị tước đoạt. Cánh cửa dẫn vào sự sống vĩnh cửu đã mở rộng cho tất cả những ai tin vào Người. Như hạt giống gieo vào lòng đất, chấp nhận mục nát để trổ sinh cây trái, Đức Kitô đã đi qua đau khổ và sự chết để mang lại cho chúng ta sự sống dồi dào.

Vậy, sự phục sinh của Đức Kitô liên hệ thế nào đến niềm hy vọng của chúng ta? Thưa, chính trong sự phục sinh mà chúng ta tìm thấy nền tảng vững chắc cho mọi hy vọng. Nếu Đức Kitô đã chiến thắng sự chết, thì chúng ta cũng có niềm hy vọng vào sự sống lại của chính mình. Chúng ta không còn phải sợ hãi trước bóng tối của sự chết, vì biết rằng sau cuộc đời này, chúng ta sẽ được phục sinh vinh hiển như Chúa.

Niềm hy vọng Phục Sinh không chỉ là một niềm tin hướng về tương lai, mà còn là nguồn sức mạnh cho cuộc sống hiện tại của chúng ta. Khi tin vào Đức Kitô Phục Sinh, chúng ta có thêm nghị lực để đối diện với những khó khăn, thử thách của cuộc đời. Chúng ta tìm thấy ý nghĩa trong những đau khổ, vì biết rằng chúng có thể trở nên con đường dẫn đến vinh quang phục sinh. Tình yêu thương, sự tha thứ, lòng quảng đại và mọi hành động thiện lành của chúng ta đều mang giá trị vĩnh cửu, vì chúng được đâm rễ sâu trong mầu nhiệm phục sinh.

Trong ngày lễ trọng đại này, chúng ta không chỉ cử hành một sự kiện đã qua, mà còn đón nhận chính Đức Kitô Phục Sinh đang hiện diện giữa chúng ta trong Lời Chúa và Bí tích Thánh Thể. Người vẫn đang trao ban Mình và Máu Thánh Người như lương thực thiêng liêng, củng cố chúng ta trên hành trình đức tin và hy vọng. Mỗi khi chúng ta hiệp lễ, chúng ta được nên một với Đấng đã chiến thắng tử thần, được dự phần vào sự sống bất diệt của Người.

Hôm nay, hơn bao giờ hết, chúng ta được mời gọi trở thành những người mang ánh sáng Phục Sinh đến cho thế giới. Bởi lẽ thế giới ngày nay đang chìm trong bóng tối của hận thù, bạo lực, bất công và tuyệt vọng. Chúng ta, những người đã được chiếu rọi bởi ánh sáng Phục Sinh, có trách nhiệm loan báo Tin Mừng về niềm hy vọng và sự sống mới. Chúng ta không chỉ loan báo bằng lời nói, mà còn bằng chính đời sống chứng tá của mình. Một đời sống yêu thương, phục vụ, tha thứ và kiến tạo hòa bình chính là ngôn ngữ hùng hồn nhất để truyền tải mầu nhiệm Phục Sinh cho những người xung quanh.

Mỗi hành động bác ái, mỗi lời an ủi, mỗi cử chỉ yêu thương của chúng ta đều là một tia sáng nhỏ bé góp phần xua tan bóng tối và mang lại niềm hy vọng cho thế giới. Chúng ta hãy sống như những người đã được phục sinh với Đức Kitô, không còn bị trói buộc bởi những đam mê ích kỷ và tội lỗi, nhưng hướng trọn về Thiên Chúa và tha nhân.

Cộng đoàn thân mến, niềm hy vọng Phục Sinh không phải là một ảo tưởng, mà là một thực tại sống động, một sức mạnh biến đổi. Hãy để ánh sáng Phục Sinh chiếu rọi tâm hồn chúng ta, để niềm vui và bình an của Chúa Kitô tràn ngập cuộc sống chúng ta. Hãy trở thành những chứng nhân trung thành của Đấng Phục Sinh, mang mầu nhiệm cứu độ và niềm hy vọng đến cho mọi người.

Nguyện xin Đức Kitô Phục Sinh, nguồn mạch mọi hy vọng, ban cho chúng ta ân sủng và sức mạnh để sống xứng đáng với niềm tin của mình và trở thành những sứ giả của niềm vui Phục Sinh cho thế giới hôm nay. Alleluia! Amen! mục lục

Jos. Vinc. Ngọc Biển

HY VỌNG CHÁY SÁNG MÃI

Anh chị em thân mến,

Hôm nay, cùng với toàn thể các tín hữu trên toàn cầu, chúng ta hân hoan mừng trọng thể Lễ Chúa Giêsu Kitô phục sinh. Đây không chỉ là một nghi lễ phụng vụ mà còn là biến cố trọng đại nhất đã xẩy ra và làm thay đổi bộ mặt của trái đất nói chung và mỗi người chúng ta nói riêng. Với các Ki-tô hữu thì đây là trung tâm của đức tin.

Chúa đã sống lại thật, Alleluia.

Năm nay, chúng ta sống lễ Phục Sinh với chủ đề của Năm Thánh: “Những người hành hương của hy vọng”, đã được khai mạc vào đầu năm phụng vụ 2025 vừa qua. Với tâm tình hân hoan của năm Thánh, chúng ta được mời gọi sống như những người mang hy vọng của Chúa Kitô phục sinh đến cho thế giới hôm nay.

Thật vậy, qua biến cố này, Đức Ki-tô đã khơi dậy niềm hy vọng, không chỉ trong lòng các tông đồ, nhưng trong lòng mỗi người chúng ta, giữa một thế giới còn nhiều bóng tối.

Hãy nhìn lại một vài sự kiện. Thế Kỷ 21 được bắt đầu bằng cuộc tấn công của quân khủng bố đã kéo sập hai tòa nhà tại trung tâm thương mại thế giới tại Nữu Ước (World Trade Center) và giết bao nhiêu người dân vô tội. Tình hình khủng bố cho đến nay vẫn gia tăng, những cuộc tàn sát thật man rợ vẫn còn tiếp diễn. Hàng ngàn người dân vô tội vẫn bị giết trong các cuộc chiến bên Urkranie và Gaza.

Thêm vào đó, nhân loại vẫn còn bị đe dọa bởi các tai ương, và mới đây vụ động đất bên Myanmar đã cướp đi hàng ngàn sinh mạng và thân nhân của họ lâm vào cảnh màn trời chiếu đất, không nơi nương tựa. Chưa kể đến các nạn nhân do thiên tai lũ lụt gây ra…

Hơn thế nữa, chúng ta đang sống trong một thế giới có tất cả mọi tiện nghi nhưng hình như con người trong xã hội trọng vật chất, tôn sùng chủ nghĩa cá nhân dần dần đánh mất đi một điều quan trọng nhất, đó là hy vọng.

Thế giới mà chúng ta đang sống là thế đó.

Còn bản thân và gia đình mình thì sao?

Có bao giờ anh chị em đã phải trải qua những kinh nghiệm của cuộc đời: như nếm cảnh cô đơn, bị ruồng rẫy, bị phản bội, bị lợi dụng, bị phụ tình, là nạn nhân của ghen tuông, bị nhạo báng, chịu sỉ nhục, sống trong tình trạng tiến thoái lưỡng nan không?

Tức: muốn nói ra mà không biết giải thích làm sao. Bởi, sự im lặng, câm nín không lối thoát vẫn cứ bao vây đời mình. Và lúc đó chúng ta thấy cuộc đời chỉ là đêm đen, bóng tối luôn bao phủ và hầu như không có lối thoát.

Chính trong cảnh ngộ đó, nhiều người đã lâm vào trạng thái trầm cảm rồi tự tìm cho mình một giải pháp để xa lìa và tránh thoát tất cả. Còn chúng ta, là tín hữu, tìm giải pháp ở đâu - hy vọng vào ai cứu ta ra khỏi tình trạng ‘bí lối và bó tay’ này?

Thưa anh chị em,

Ai là những người đã từng trải qua một vài kinh nghiệm nói ở trên, hãy cùng ôn lại con đường Chúa đã đi qua, không phải để tưởng niệm một biến cố xẩy ra ở quá khứ; cho bằng hiện tại hóa các sự kiện xẩy ra bằng chính những đóng góp của bản thân mình.

Trong những ngày qua, chúng ta đã sống Tuần Thánh – cùng đi với Chúa Giêsu trong đau khổ, nhục nhã, cô đơn, bị phản bội, bị đóng đinh. Sự thinh lặng trong Ngày thứ Bẩy Tuần Thánh nhắc cho chúng ta biết về thân phân ‘bó tay’ của mình: không còn đường nào để đi, không còn lối nào để thoát. Tưởng chừng mọi sự đã chấm hết. Nhưng, chính vào lúc đó Thiên Chúa lại ra tay làm việc và can thiệp vào tình trạng ‘bó tay’ của nhân loại và của riêng chúng ta.

Vào buổi sáng đầu tuần hôm nay, cùng với các phụ nữ, những người bạn của Chúa chúng ta đi thăm viếng mộ phần của Người. Và, oh kìa! Ngôi mộ trống, không thấy xác của Chúa đâu cả. Biến cố này đã nói lên một sự thật mà chúng ta chỉ có thể đón nhận bằng niềm tin, đó là:

“Người đã sống lại thật như lời Người đã phán.”

Đức Giê-su đã sống lại ngay trong lúc ta bị bí lối. Quả thật, có cảm nhận được điều đó mới biết Phục sinh là ánh sáng soi đường cho ta và mọi người. Có cảm-nghiệm như thế, ta mới biết là sự sống vẫn rất cần và quan trọng đến thế nào.

Ánh sáng Phục Sinh đã bùng lên trong đêm tối của cuộc đời mình và trong niềm hy vọng chúng ta tin rằng chỉ có Ánh sáng Phục Sinh mới đem đến cho cuộc đời mình một ý nghĩa mới, mục đích mới. Và như vậy chúng ta khám phá ra rằng hành trình Phục sinh dẫn con người từ tuyệt vọng, bí lối đến hy vọng, từ nước mắt đến vui mừng, từ chết đến sống.

Hy vọng là một hồng ân, không phải cảm xúc. Hy vọng không phải là sự lạc quan chờ đợi ở tương lai, nhưng là một trạng thái an bình về những đau thương trong hiện tại.

Hy vọng của người Kitô hữu là niềm xác tín rằng: Thiên Chúa vẫn đang hành động, ngay cả khi ta không hiểu, không thấy.

Vì Chúa Giêsu đã phục sinh, nên không đau khổ nào là vô nghĩa, không bóng tối nào là đêm đen vĩnh viễn, không thập giá nào là gánh nặng khiến con người đi vào tuyệt vọng.

Chúa Phục Sinh đem đến cho chúng ta niềm hy vọng. Hy vọng và xác tín rằng ngay vào lúc đen tối nhất, Thiên Chúa không bỏ rơi con Ngài thì Người cũng không bỏ rơi ta. Can đảm, mạnh dạn mà tiến bước với niềm hy vọng là thái độ sống mà chúng ta từng học được qua Phục sinh.

Với tâm tình và niềm xác tín vào nguồn của mọi hy vọng nơi Chúa. Chúng ta sẽ có một lối nhìn tích cực hơn vào cuộc sống này. Và chính vì những gì đang xẩy ra trong thế giới này mà chúng ta mỗi Ki-tô hữu càng xác tín hơn về vai trò và bổn phận của mình.

Đừng bao giờ nói với Chúa tại sao lại để con rơi vào cảnh khốn khổ thế này.

Nhưng hãy:

Tạ ơn Ngài đã dùng chúng ta để đốt lên một ngọn lửa hy vọng soi chiếu người khác.

Tạ ơn Ngài đã sai con vào thế giới đang mất hướng đi.

Tạ ơn Ngài đã gửi con vào môi trường mà người ta chỉ biết sống cho mình.

Tạ ơn Ngài đã tín thác trao cho con việc phục vụ và dấn thân được bắt đầu ngay trong gia đình và lan tỏa cho bà con lối xóm chung quanh con.

Và chúng ta tin rằng Chúa cũng làm như thế trong hoàn cảnh tương tự mà chúng ta đã và đang trải qua.

Như vậy, ý thức được nhiệm vụ cao cả của người tín hữu, chúng ta được sai đến trong thế gian. Và để hoàn tất nhiệm vụ, chúng ta đều được mời gọi để nên trọn hảo và việc nên trọn lành không được thưc hiện một sáng một chiều. Vì thế bước đi bằng niềm hy vọng để tiến về đích ngay lúc chúng ta không biết làm thế nào để đi nữa.

Và đây là câu chuyện, xin mời anh chị em nghe.

Có bốn cây nến tượng trưng cho Bình An-Peace, Đức Tin-Faith, Tình Yêu-Love và Hy Vọng-Hope.

Một ngày nọ, bốn cây nến đang trò chuyện với nhau. Bình An, Đức Tin và Tình Yêu đều nói rằng chúng không còn được coi trọng trong thế giới ngày nay. Ánh sáng của từng cây nến yếu dần dần rồi tắt hẳn.

Có một cháu gái, đại diện cho thế hệ tương lai, nhìn thấy ba cây nến không còn cháy sáng nữa liền bật khóc và hỏi: “Tại sao các cây nến quan trọng lại không cháy để chiếu sáng nữa? Các ngươi đáng lẽ phải cháy sáng liên tục cho đến cuối cùng cơ mà.” Khi đó, cây nến thứ tư mới nhỏ nhẹ nói với em gái: “Chị ơi, đừng sợ, vì em là Hy Vọng. Khi em còn cháy, chúng em vẫn có thể thắp sáng lại ba ngọn nến kia.” Amen. Alleluia! mục lục

Lm. Yuse Mai Văn Thịnh, DCCT

CHẠY VỀ PHÍA CHÚA

Thầy Giêsu đã bị đóng đinh và đã chết thảm thương trên cây thập giá. Xác của Người được an táng trong mồ. Các phụ nữ đã để ý xem chỗ người ta mai táng Thầy. Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Mácđala đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Simôn Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến. Bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu”. Hai môn đệ ấy liền đi ra mộ, họ chạy vội vã vì muốn biết thực hư thế nào. Trước ngôi mộ trống, hai ông đã thấy gì?

Thầy Giêsu chết, bà Maria đau buồn, nhớ thương Thầy rất nhiều. Tình yêu hối thúc bà, tình yêu cho bà can đảm để ra mộ lúc trời còn chưa kịp sáng. Bà Maria thấy tảng đá lăn khỏi mộ thì đã nghĩ ngay rằng: có kẻ đã đem Chúa đi khỏi mộ. Bà không bước vào trong để nhìn xem. Bà vội vã chạy về báo tin cho các hai môn đệ. Nghe bà nói, cả hai ông đã ra tận nơi để nhìn xem ngôi mộ trống. Hai ông vội vã chạy, người môn đệ Đức Giêsu thương mến còn trẻ, khỏe hơn nên chạy nhanh hơn. Ông đến mộ trước nhưng không vào trong mà chỉ cúi xuống nhìn vào trong mộ. Ông Phêrô đến nơi liền bước vào, nhìn thấy các băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Ông bước vào trong ngôi mộ và quả thực xác Thầy không còn ở đó nữa. “Bấy giờ, người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin” (Ga 20, 8). Ông đã thấy những gì mà ông Phêrô đã thấy, đó là các băng vải, khăn che đầu của Thầy mình. Nhưng ông đã tin vào điều gì vậy? Ông nhận ra cách sắp xếp quen thuộc của Thầy. Ngôi mộ trống nhưng những gì đã sắp xếp ở đó lại rất quen thuộc. Có một trật tự mới và bằng ánh mắt của người luôn hướng nhìn về Chúa Giêsu, ông đã tin, dù ngay lúc ấy cả ông và môn đệ Phêrô đều chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh thì Thầy Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết.

Sự bí ẩn của ngôi mộ trống khiến cho cả ba người môn đệ có những phản ứng khác nhau. Dù không hiểu và không hề nghĩ đến việc Thầy Giêsu sẽ phục sinh, cả ông Phêrô và bà Maria đều đã chứng tỏ cho ta thấy rằng: Tình yêu sẽ hối thúc ta can đảm tìm kiếm Thầy Giêsu và mong gặp được Người. Sự kiện ngôi mộ trống có một ý nghĩa đặc biệt với riêng họ. Trong cuộc sống, sẽ có những lúc ta cũng rơi vào những nỗi đau, những buồn phiền. Dường như ta không cảm nhận được sự hiện diện gần bên của Thầy Giêsu, bởi những đau khổ đã làm cho đôi mắt tâm hồn của ta ra u tối. Vẫn có một sự hối thúc mạnh mẽ từ trong trái tim, có một tiếng nói cứ mời gọi ta tìm kiếm Thầy Giêsu. Ta có can đảm chạy băng qua những bóng đêm của đau khổ và tội lỗi để tìm kiếm Thầy Giêsu không? Những khi tìm kiếm Thầy Giêsu, có lẽ ta cũng giống như bà Maria hay ông Phêrô, ta không nghĩ đến lời Thầy đã từng loan báo là ba ngày sau khi chết, Thầy sẽ sống lại. Ta chỉ thấy những gì thực tế phơi bày ra trước mắt ta: một ngôi mộ trống. Hãy cứ tìm kiếm Thầy, hãy chạy đến nơi mà ta nghĩ là có Thầy ở đó, hãy chạy với sức mạnh của tình yêu dành cho Thầy Giêsu. Điều đó sẽ mang lại một giá trị và ý nghĩa đặc biệt cho riêng ta, và điều đó trở thành một kinh nghiệm thật sự rất quý giá đối với ta. Nếu ta là người vẫn thường sống thân thiết với Thầy Giêsu, có thể ta sẽ nhận được đức tin ngay khi vừa thấy những dấu chỉ mà Người để lại. Đó là một ơn đặc biệt dành cho ta. Chắc chắn rằng, những ai kiên trì tìm kiếm Chúa, Người sẽ cho gặp, vì hơn ai hết Người mong chờ ta đến với Người biết bao. Người mong chờ ta hơn ta mong chờ Người, Người yêu ta và tìm kiếm ta hơn ta yêu mến và tìm kiếm Người. Ta hãy mở lòng ra để được Thần Khí Chúa Kitô thúc đẩy.

Lạy Chúa Giêsu! Chúa đã phục sinh để cho con được sống một sự sống mới, để con được sống trong niềm hạnh phúc của người tràn đầy niềm tin và hy vọng. Xin giúp con luôn can đảm ra khỏi mình, để chạy về phía mà Chúa gợi hứng cho con rằng Chúa đang có đó. Dù có lúc con chỉ thấy một ngôi mộ trống, nhưng đó là điều mà Chúa đã chuẩn bị cho con, để con đón nhận một sự thật quan trọng biết bao: Chúa đã sống lại. Amen. mục lục

Bông hồng nhỏ

Với mục đích để Lời Chúa được loan truyền và thông tin Giáo hội được lan tỏa, Legio Mariæ sẵn lòng để các tổ chức và cá nhân sử dụng lại tin bài đã đăng trên báo giấy và báo mạng legiomariævn.com của mình.

Tuy nhiên, vì đức công bằng và sự bác ái, xin quý vị vui lòng ghi đầy đủ nguồn như sau: “Theo Đạo Binh Đức Mẹ, website: legiomariævn.com”.

Ngoài ra, nếu chia sẻ bài lên mạng xã hội (Facebook, Twitter…), đề nghị dùng đường dẫn gốc trên website của Đạo Binh Đức Mẹ.