SUY NIỆM CHÚA NHẬT XXIV TN_B (16/9)

12-09-2018 1,995 lượt xem

Mục Lục

ĐỨC TIN TRỌN VẸN 

THẦY LÀ AI?

ĐỨC TIN VÀ HÀNH ĐỘNG

NHẬN BIẾT CHÚA KITÔ

THEO CHÚA PHẢI TỪ BỎ MÌNH, VÁC THẬP GIÁ MÌNH

CHỨNG MINH

THẦY LÀ ĐẤNG KITÔ

ĐỨC TIN TRỌN VẸN

Đức tin là ơn ban của Thiên Chúa mà chúng ta nhận được khi lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy. Vì là một ơn ban hay quà tặng, nên ta có thể gìn giữ hoặc có thể đánh mất đức tin. Thiên Chúa ban đức tin cho mọi người đều giống nhau, tuy vậy, có người có đức tin mạnh mẽ, người khác lại có đức tin yếu kém. Như vậy, đức tin yếu kém hay mạnh mẽ là do cá nhân người đã lãnh nhận. Để được xứng danh người tín hữu, chúng ta phải có một đức tin trọn vẹn.

Đức tin được gọi là “trọn vẹn” được thể hiện qua ba khía cạnh: Tuyên xưng đức tin, Sống đức tin và Loan truyền đức tin. Thiếu một trong ba khía cạnh này, có thể nói chúng ta chưa được một đức tin trọn vẹn.

Để tuyên xưng đức tin, chúng ta phải hiểu nội dung của đức tin như Giáo Hội dạy. Những chân lý đức tin được truyền lại từ bao thế hệ. Qua những “tín điều” được Giáo Hội chính thức tuyên xưng trong kinh Tin Kính, người tín hữu nhận ra sự hiện diện của Chúa trong đời, đồng thời cảm nhận được sự dẫn dắt của Ngài giữa bao sóng gió của trần gian. Đức tin được tuyên xưng cách cá nhân: “tôi tin”, và cũng được tuyên xưng cách tập thể, tức là với sự hiệp thông trong Giáo Hội: “chúng tôi tin”. Đức tin được tuyên xưng trong phụng vụ, nhưng cũng phải được tuyên xưng trong cuộc sống hằng ngày.

Để sống đức tin, chúng ta phải thực hiện Lời Chúa dạy trong mối tương quan với anh chị em. Nhiều người tín hữu quên mất khía cạnh quan trọng này. Vì thế, đời sống hằng ngày đi ngược với điều họ tuyên xưng trong nhà thờ. Đức tin phải thấm nhập đời sống người tín hữu và thể hiện qua việc làm, để rồi, những người chưa tin Chúa sẽ nhận ra Ngài nơi chính cuộc đời của chúng ta. Nói cách khác, cuộc đời người tín hữu là một “cuốn Tin Mừng thu gọn”, diễn tả cuộc đời Chúa Giêsu, làm chứng nhân cho Người giữa đời.

Để loan truyền đức tin, người tín hữu phải hiểu biết Chúa và trình bày giáo huấn của Người cho anh chị em mình. Loan báo Tin Mừng là bổn phận của mỗi Kitô hữu. Tuy vậy, việc loan báo Tin Mừng chỉ đem lại những hiệu quả thiết thực, nếu người loan báo thực sự tuyên xưng và sống đức tin, như đã nói ở trên. Họ như người đã thực sự gặp gỡ Chúa và chia sẻ cho anh chị em về kinh nghiệm gặp gỡ ấy.

Lời Chúa hôm nay giúp ta nhận ra đâu là đức tin trọn vẹn. Thánh Giacôbê khẳng định: Đức tin không có việc làm là đức tin chết. Đức tin chết có nghĩa là đức tin không được tuyên xưng, không được sống (thực hiện) và không được loan truyền. Đối với những người có đức tin mà không có việc làm, món quà đức tin bị họ giấu kín, thậm chí chôn vùi sâu trong lòng đất, vì thế, đức tin không sinh hoa kết trái.

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu bất ngờ đặt cho các môn đệ câu hỏi: “Người ta nói Thầy là ai?”. Trước câu hỏi này, các ông tỏ ra lúng túng. Thì ra, mặc dù đã có một thời gian dài làm môn đệ Chúa Giêsu, các ông vẫn chưa hiểu rõ về thân thế Thầy mình. Các ông chỉ biết nói theo lời đồn và theo dư luận: “Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó.”

“Thầy là Đức Kitô!”. Đó là lời tuyên xưng Đức tin của thánh Phêrô. Phêrô thận trọng để cho những anh em khác trả lời dựa trên dư luận của quần chúng xung quanh chân tính của Đức Giêsu, và ông là người có tiếng nói sau cùng. Cũng có thể lúc đó, ông mới nhận ra điều ông biết về Chúa là điều chắc chắn.

Mặc dù thận trọng như thế, xem ra Phêrô vẫn chưa có một đức tin trọn vẹn. Sau khi các môn đệ có một định nghĩa chính xác về sứ mạng thiên sai của Chúa, Người mới tỏ cho các ông biết, Đấng Kitô phải trải qua cuộc thương khó, nhưng sẽ phục sinh. Mác-cô không ghi lại lời khen của Chúa như Matthêu, nhưng ông cũng nhắc lời Chúa khiển trách Phêrô là Satan, khi ông này muốn can gián Chúa về ý tưởng thập giá và khổ nạn. Kể cả sau khi đã tuyên xưng Đức tin, các môn đệ chưa thể chấp nhận được quan niệm về một Đấng Thiên sai khổ nạn để cứu chuộc con người. Nơi Phêrô cũng như nơi mỗi chúng ta hôm nay, chúng ta vừa tuyên xưng Đức tin vào Chúa, đồng thời cũng vẫn gặp khó khăn khi đối diện với thập giá. Đó là lý do tại sao một số tín hữu ngày nay, tin vào Chúa Giêsu mà khước từ thập giá, hoặc chỉ chọn lựa Chúa Giêsu mà loại bỏ thập giá. Chúa Giêsu không có thập giá không phải Chúa Giêsu của mặc khải và cũng không phải là Đấng Cứu độ trần gian. Thập giá không có Chúa Giêsu chỉ là biểu tượng của sự hận thù, cam chịu và chẳng có giá trị bày tỏ tình yêu. Khi Phêrô có ý khước từ thập giá, Chúa Giêsu đã khiển trách ông nặng lời và gọi ông là Satan.

Thập giá gắn liền với Đức Kitô. Thập giá cũng gắn liền với mỗi Kitô hữu. Tác giả sách Ngôn sứ Isaia đã diễn tả người Tôi tớ đau khổ của Giavê như một nạn nhân bị bạc đãi đến mức tột cùng (Bài đọc I). Sau này, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã trải qua đòn vọt tra tấn giống y như vậy. Dù bị sỉ nhục hành hạ, người Tôi tớ của Đức Giavê vẫn một lòng tín thác ở Thiên Chúa, là Chúa Thượng và là Đấng phù trợ trung thành. Đây cũng là gợi ý cho mỗi chúng ta trong việc tuyên xưng và sống đức tin. Muốn trung thành với Chúa, đòi hỏi phải vượt lên những khó khăn, với lòng tín thác nơi Chúa, luôn xác tín rằng Ngài không bao giờ bỏ rơi chúng ta.

Hành trình cuộc đời còn nhiều gian nan vất vả. Đã là người chẳng có ai tránh khỏi những thử thách. Tuy vậy, trước một khó khăn, người có Đức tin cảm thấy lối thoát nhờ Đấng Tối cao; người vô thần cảm thấy như mình đứng trước ngõ cụt. Người tin Chúa tìm thấy sức mạnh và an ủi; người vô tín thấy mình chơi vơi giữa con sóng biển đời. Chúa Giêsu đã đến trần gian, Người không hủy bỏ thập giá nơi kiếp sống con người, nhưng Người cùng vác thập giá với họ để chia sẻ gánh nặng cuộc đời. Con người không còn đơn lẻ trong chặng đường thập giá, vì có Con Thiên Chúa vác cùng. Sau thập giá là vinh quang của phục sinh. Chấp nhận thập giá và kiên cường bước đi, đó là bằng chứng của người tín hữu có đức tin trọn vẹn.

“Tin là chịu đựng sự khó hiểu của Thiên Chúa suốt đời” (Karl RAHNER, Linh mục  dòng Tên và thần học gia người Đức, 1904-1984). Về mục lục.

+ ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên

THẦY LÀ AI?..

Từ xưa đến nay, câu hỏi: “Người ta nói Con Người là ai?” của Đức Giêsu vẫn luôn là đề tài để người đời suy nghĩ, dù tin hay phủ nhận vẫn phải khắc khoải về Con Người này: Do thái, Hồi giáo, Phật giáo, Cộng sản, chính trị…

“Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Đó là đức tin Kitô giáo. Từ đây phát sinh Kitô giáo vì người tin vào Đức Giêsu thành Nazareth đã tuyên xưng Người là Đức Kitô, là Cứu Chúa của họ. Lời tuyên xưng “Đức Giêsu Kitô” có hai vế: Đức Giêsu thành Nazareth và Đức Kitô. Đức Giêsu thành Nazareth là con người lịch sử đã sống, đã chết và đã phục sinh. Qua biến cố đó, nhiều người đã nhìn nhận và tuyên xưng Người là Đức Kitô. Câu tuyên xưng “Đức Giêsu Kitô” gói trọn con người lịch sử Đức Giêsu thành Nazareth và Đấng được tuyên xưng là Cứu Chúa, là Đức Kitô, Đấng được niềm tin của Kitô hữu tôn vinh.

1. Gặp gỡ “Đức Giêsu Kitô”.

Ignace Lepp là một chứng nhân của hành trình thao thức tìm kiếm và cuối cùng đã gặp gỡ “Đức Giêsu Kitô”.

Ignace Lepp đã viết cuốn sách “Từ Các Mác đến Giêsu Kitô”. Tác giả kể lại đời mình và những lý do làm ông tham gia phong trào cộng sản thế giới, để rồi sau đó trở thành tín hữu, rồi làm Linh Mục của Giáo Hội Công Giáo.

a. Thao thức tìm kiếm

Ignace sinh trong một gia đình giàu có, trưởng giả, ăn mặc sang trọng, nói năng lễ độ, cư xử hòa nhã, lịch thiệp. Giai cấp này khinh bỉ giới thợ thuyền mà họ cho là một bọn thất học, thô lỗ, cộc cằn thiếu tư cách làm người, và đáng sống trong cảnh bần hàn.

Một hôm tình cờ Ignace đọc được cuốn tiểu thuyết “Người Mẹ” của Marxim Gorky trong đó tác giả mô tả đời sống cơ cực, lầm than của dân lao động Nga làm việc trong các nhà máy kỹ nghệ hồi đầu thế kỷ 20.

Gorky không những đã tả hết những nổi nhọc nhằn, đời sống lam lũ của giới thợ thuyền, và bằng một nhận xét sắc bén ông cho thấy đời sống cơ cực của những người này chính là hậu quả của sư bóc lột của giới chủ nhân, sống xa hoa trên mồ hôi và sự khổ cực của dân lao động. Lần đầu tiên Ignace biết được chi tiết đời sống của hạng người mà bấy lâu cậu vẫn thường khinh rẻ và chỉ nhìn thấy từ xa. Và cũng nhờ cuốn sách đó mà cậu biết rằng chính giai cấp tư sản đã bần cùng hóa dân lao động.

Sau khi đọc thêm một vài cuốn nói về đời sống cùng khốn của dân lao động, như những tác phẩm của Anatole France, Victor Hugo, Tolstoi, v.v., Ignacce cương quyết từ bỏ giai cấp của mình để hoạt động cho giới cần lao. Cậu bị thu hút bởi những hứa hẹn của phong trào cộng sản thế giới : tạo nên một xã hội không có giai cấp, không phân chia ranh giới quốc gia, trong đó mọi người được sống bình đẳng, không bị bóc lột và áp chế. Từ đó, đối với cậu, tất cả những tín điều của thuyết duy vật biện chứng đều là những chân lý tuyệt đối, hợp với khoa học.

Cậu được thu nhận vào một tiểu tổ Thanh Niên Cộng Sản lúc vừa 15 tuổi. Trong thời gian này, Ignace đã đi phát truyền đơn, dán bích chương, dự những cuộc biểu tình, mít tinh và diễn thuyết nhân các ngày kỷ niệm Cách Mạng Tháng Mười và Lễ Lao Động.

Việc cậu lên diễn đàn phát biểu trong một buổi lễ lao động đã được báo chí trong thành phố tường thuật chi tiết. Hay được tin này, gia đình cậu đã rất tức giận và buộc cậu phải từ bỏ phong trào nếu không sẽ cắt mọi yểm trợ tài chánh. Nhất quyết theo đuổi lý tưỏng của mình, cậu bỏ nhà ra đi, không mang theo một tý gì, ngoài bộ quần áo đang mặc và ít tiền túi.

Cậu sang ở một thành phố khác và trở lại nhà trường học xong cấp trung học. Ở đó cậu cũng được một tờ báo cộng sản nhận vào làm biên tập và thông tín viên. Cậu bắt đầu viết sách báo, ghi tên vào đại học và học thêm vài ngôn ngữ khác. Vì có trình độ học vấn khá và biết nhiều thứ tiếng, cậu được cất nhấc vào nhiều chức vụ quan trọng trong đảng, như cầm đầu tổ chức tuyên truyền khích động trong một vùng, tổng bí thư một hội trí thức cách mạng quốc tế. Sau đó Ignace được cử đi hầu hết các quốc gia Âu châu để tuyên tuyền cho chủ nghĩa cộng sản và giúp thành lập những tiểu tổ địa phương. Trong giai đoạn này, cậu theo học nhiều lớp do các giáo sư cộng sản giảng dạy và đọc nhiều sách về lý thuyết cộng sản.

Trong lúc hoạt động cho phong trào cộng sản trong các nước độc tài và bảo thủ, Ignace bị bắt nhiều lần. Lần cuối cùng ông bị bắt ở Đức, lúc đó Hitler đã lên cầm quyền. Ông bị kết án tử hình, nhưng lúc sắp bị đem ra pháp trường thì ông được cứu thoát và được bí mật đưa sang Nga.

b. Đỉnh cao danh vọng.

Vui mừng được đến nước cầm đầu phong trào cộng sản thế giới, ông xin ở lại Nga để phục vụ cho cách mạng. Ông rất được trọng vọng và được giao phó công tác đi diễn thuyết và được bổ làm giáo sư triết học cộng sản ở nhiều trường đại học. Nhờ chức vụ đó, ông được đi hầu hết khắp nước Nga và tiếp xúc với mọi giới. Kinh nghiệm này đã làm ông vỡ mộng một cách ê chề.

Cái thiên đường vô sản ở Nga mà phong trào cộng sản quốc tế thường khoe khoang với thế giới bên ngoài thật ra là một nhà tù khổng lồ, trong đó mọi người, tù nhân cũng như cai ngục, đều sống trong lo âu và sợ hãi. Mỗi lời nói, hành vi và thái độ đều được cân nhắc kỹ lưỡng xem có phù hợp với đường lối của đảng không (mà đường lối thì thay đổi rất bất thường) vì mỗi sơ suất, dù nhỏ nhặt đến đâu cũng có thể dẫn đến tù đày.

Vì được xem là một lý thuyết gia lỗi lạc của chế độ nên đi đâu Ignace cũng được đón tiếp nồng hậu. Điều này khiến ông càng thất vọng hơn nữa. Trong khi, vì chính sách kinh tế khắc nghiệt của Stalin, dân chúng Nga sống trong cảnh đói rách bần cùng thì giới lãnh đạo cộng sản sống một cuộc đời vương giả. Họ chiếm cứ những biệt thự sang trọng và những nhà nghỉ mát của giới quý tộc và chủ nhân thời Nga hoàng. Các bữa tiệc của họ đầy cao lương mỹ vị, rượu volka và caviar không bao giờ thiếu. Các “mệnh phụ phu nhân” cũng khoe khoang áo quần, nữ trang với nhau như giới tư sản trong các xã hội tư bản. Những gia đình quyền quý này cũng có kẻ hầu người hạ mà họ sai bảo và đối xử còn trịch thượng hơn các chủ nhân tư bản Tây Âu.

c. Thất vọng

Chàng Ignace, bây giờ đã trưởng thành mới nhận thức được rằng xã hội Xô Viết thực chất chỉ là một xã hội phân chia giai cấp, trong đó giai cấp công nhân, thay vì được giải phóng khỏi mọi áp bức như đảng cộng sản rêu rao với thế giới bên ngoài, thực ra bị bóc lột tối đa, và tất cả mọi người, có lẽ chỉ trừ Stalin, đều sống trong sự sợ hãi, nghi kỵ lẫn nhau kể cả bạn bè thân nhất hay vợ chồng, con cái.

Ignace hoàn toàn thất vọng với chế độ Xô Viết, mà chàng cho là đã phản bội lý tưởng cách mạng. Chàng thấy mình không thể nào tiếp tục sống trong bầu không khí ngột ngạt, đầy nghi kỵ và lo lắng như vậy được nữa. Chỉ trích sự sai lầm của chế độ không còn được đặt ra nữa vì Ignace biết sẽ không mang lại lợi ích gì mà còn có thể nguy hiểm cho tính mệnh của mình. Chàng cũng không thể xin ra khỏi đảng hay xin ra nước ngoài, vì làm như vậy người ta có thể buột cậu tội phản đảng, hay nguy hơn nữa, bị nghi là gián điệp của các nước tư bản trà trộn ngay từ đầu để lũng đoạn cách mạng. Với một cáo trạng như vậy, cái chết chắc như cầm trong tay.

May thay trong thời gian đó nhiều người vẫn được phép thư từ với bạn hữu nước ngoài. Dịp may hiếm có đó đã xảy ra khi một “Hội nghị về Hòa bình thế giới” được tổ chức ở Luân đôn, Ignace đã vận động để được mời dự. Với giấy mời trong tay, chàng xin xuất cảnh và rất ngạc nhiên khi được cấp hộ chiếu. Tuy nhiên chàng chỉ thấy an toàn khi ra khỏi biên giới Liên Bang Xô Viết.

d. Chán nản

Khi trở về lại Tây Âu, Ignace rất chán nản. Lý tưởng mà chàng hăng say phục vụ trong mười mấy năm trời thật ra chỉ là môt sai lầm khổng lồ. Đem thử nghiệm vào một quốc gia, lý thuyết này chỉ đem lại cho nhân dân lao động xứ đó một xã hội đầy bất công, áp bức, thù hận và tạo ra một chế độ độc tài cực kỳ tàn ác. Thất vọng chua cay đó đã làm Ignace mất hết tin tưởng vào cuộc sống mà chàng cho là vô nghĩa. Để lấp khoảng trống trong tâm hồn, chàng đã chìm đắm vào những bê tha trụy lạc. Nhưng ngay sau những cuộc chời bời trác táng đó chàng lại càng chán nản hơn. Có lần chàng đã nghĩ đến tự tử, và đã dự định nhiều lần nhưng không đủ can đảm tự kết liễu đời mình.

e. Lý tưởng huyền diệu

Một hôm đi chơi về khuya, Ignace tình cờ thấy trên cái bàn của phòng khách, nơi chàng ở trọ, một cuốn sách có nhan đề “Quo Vadis?” (Thầy Đi Đâu ?). Vì khó ngủ, chàng tò mò mở sách ra đọc. Đó là một cuốn tiểu thuyết tả lại cảnh những người Ki-tô hữu đầu tiên bị bách hại dưới thời Neron. Lần đầu tiên, sau khi thất vọng về chế độ cộng sản Xô Viết, Ignace đọc cuốn sách này một cách say mê, chàng đã đọc thẳng một mạch cho đến sáng. Chàng thấy những nạn nhân của cuộc bách hại này chỉ vì theo đuổi một lý tưởng mà họ cho là cao đẹp đã chịu để cọp và sư tử xé xác ăn tươi nuốt sống mình trong các đấu trường còn hơn là chối bỏ niềm tin đó.

Để tìm hiểu thêm những lý do gì mà những tín đồ Thiên Chúa giáo này đã dám liều chết đến như vậy, chàng tìm đọc thêm những sách khác nói về tôn giáo này. Những sách tả về đời sống của các cộng đồng Thiên Chúa giáo đầu tiên làm chàng thích thú. Chàng thấy họ sống một đời sống đúng như lý tưởng mà chàng thường ấp ủ : chia sẻ của cải cho nhau, thương yêu nhau như anh em môt nhà. Chàng tự hỏi không biết các cộng đồng Thiên Chúa giáo tiên khởi có sống thật như vậy không, hay đó chỉ là những tài liệu tuyên truyền như các chế độ cộng sản thường làm. Chàng tìm đọc thêm nhiều sách khác của nhiều tác giả khác, có người theo Thiên Chúa giáo, có người vô thần. Nội dung những sách đó có khác nhau về chi tiết, nhưng đại cương thì rất giống nhau. Tất cả đều nói lên sự yêu mến, việc chia sẻ của cải cho nhau trong các cộng đồng đó là hợp lẽ phải. Chàng thấy lối sống đó hợp với lý tưởng mà chàng hằng mơ ước, một xã hội cộng sản chân chính không dựa trên hận thù và đấu tranh mà dựa trên tình yêu thương vô điều kiện.

Tất cả những sách vở chàng đọc được về lối sống của các cộng đồng nói trên đều dẫn đến lời giảng của một người : Giêsu ở thành Nazareth, và một nguồn tài liệu: các sách Phúc Âm. Ignace cảm thấy bị lôi cuốn vào những lời giảng dạy tuyệt vời của Giêsu. Bài giảng trên núi và các dụ ngôn không những rất thi vị, mà còn chứa một học thuyết huyền diệu. Nhưng điều gây ấn tượng mạnh mẽ nhất cho Ignace chính là con người Giêsu, một người rất mực giản dị và nhân hậu với tất cả những người cùng khổ. Giêsu sống hoàn toàn bình đẳng không những với các môn đệ mà với những người nghèo khó nhất. Cách Giêsu đối xử với những người tội lỗi như bà Marie ở Magdala và những người thâu thuế thật khác xa với các phương pháp mà công an và cảnh sát ở Liên Bang Sô Viết đối xử với công dân của họ.

Sau khi đọc kỹ sách Phúc âm và nhiều sách khác, Ignace cho rằng những điều viết về Giêsu là có thật.

Với một tính tình hiếu động, chàng nhất quyết dâng hiến trọn vẹn đời mình cho lý tưởng mới cũng như trước kia chàng đã từng hăng say hoạt động cho chủ nghĩa cộng sản. Ignace đã xin rửa tội theo đạo Công Giáo và xin được làm linh mục để phục vụ mọi người, không phân biệt tôn giáo, giai cấp, quốc gia hay chủng tộc trong một tình yêu tuyệt đối.

Ignace Lepp thao thức tìm kiếm và cuối cùng đã gặp gỡ “Đức Giêsu Kitô” và đã trở nên Linh mục. Câu chuyện tuyệt đẹp về một hành trình ơn gọi. Đi tìm câu trả lời cho câu hỏi: “Còn anh em bảo Thầy là ai?” là thao thức cho những ai khao khát chân lý.

2. Ba bức chân dung về Đức Giêsu

Ðức Giêsu đặt một câu hỏi quan trọng cho các môn đệ: “Người ta bảo Thầy là ai?”. Dân chúng chỉ có một cái nhìn mơ hồ và thiếu sót về Ðức Giêsu. Họ coi Ngài là Gioan Tẩy Giả, là tiên tri Êlia hay một tiên tri nào đó. Họ cũng dành cho Ngài những danh hiệu cao quý nhất: là Êlia, bậc tôn sư lỗi lạc trong hàng ngũ ngôn sứ; là Giêrêmia, vị ngôn sứ giúp quốc gia trong cơn khốn khó. Cả hai vị này bất quá chỉ là người dọn đường cho Đấng Kitô. Vì thế đối với người đương thời, Đức Giêsu cao lắm chỉ được coi là người dọn đường, chứ không phải là chính Đấng Cứu Thế. Chỉ có Phêrô, đại diện cho các môn đệ, mới có thể nhận diện đúng chân tướng của Chúa: Ngài là chính Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.

“Thầy là ai?”, Ðức Giêsu là ai? Ðó là một câu hỏi được đặt ra cho mọi thời đại. Câu hỏi được đặt ra để chờ đợi một câu trả lời có ảnh hưởng quyết định trên lối sống của người trả lời. Câu hỏi này ngày nay cũng gặp được nhiều câu trả lời khác nhau, và mỗi câu trả lời kéo theo một nếp sống khác nhau.

Tuy nhiên điều quan trọng ở chỗ là mỗi người Kitô hữu đặt cho mình câu hỏi: đối với tôi, Đức Giêsu là ai? Bức chân dung nào đã điều khiển những tư tưởng, tâm tình và hoạt động của tôi? Phải làm thế nào để trình bày chân dung sống động của Đức Giêsu cho anh chị em của tôi hôm nay?

Phần tôi, rất thích ba bức chân dung về Đức Giêsu: Hài nhi trong máng cỏ, Tử tội trên thập giá và Tấm Bánh trên bàn thờ.

– Là Con Thiên Chúa, là Ngôi Hai, nhưng khi chấp nhận làm người, Đức Giêsu đã được sinh ra trong một chuồng chiên, được mẹ bọc tả đặt nằm trong máng cỏ (Lc 2,12). Ngôi Hai làm người là “một tin mừng trọng đại” cho toàn dân, lại phải “ở nhờ” nhà súc vật (Lc 2,11).

– Đức Giêsu lên ngôi vua trên Thập giá. Cái chết đau thương tủi nhục của một tử tội lại trở nên hiến tế, nguồn ơn cứu độ cho nhân loại.

– “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22,19). Đấng ban sự sống cho muôn loài (CV 17,25), Đấng mà vừa nghe Danh thánh thì cả trên trời dưới đất và trong âm phủ, muôn vật phải bái quỳ (Pl 2,10) đã trở nên Tấm Bánh nuôi nhân loại qua Thánh lễ mỗi ngày.

Máng cỏ là nhà Chúa sinh ra. Thập giá là ngai Chúa lên ngôi vua. Tấm bánh là Mình Thánh Chúa. Bức tranh máng cỏ – chuồng chiên là sự chiến thắng cám dỗ về của cải vật chất. Bức tranh Thập giá- Đồi Sọ mô tả chiến thắng về chức quyền. Bức tranh Tấm Bánh- Thánh Thể giải bày chiến thắng cám dỗ về danh vọng.

Thiên Chúa làm người và đã trở nên tôi tớ. Thiên Chúa đã đóng đinh mọi sức mạnh áp chế, mọi quyền lực thống trị. Người đã trở nên anh em để phục vụ và hiến dâng mạng sống cho con người.

Đấng mà chúng ta tôn thờ và yêu mến không chỉ là Đức Chúa, Đấng Tối Cao, Đấng Thánh, mà còn là Con Người, là anh em, là người trao ban sự sống dồi dào.

Lạy Chúa Giêsu, tựa như thánh Phêrô, con cũng tuyên xưng Chúa là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Con muốn sống với trọn con tim điều mình tuyên xưng: Chúa có vị trí quan trọng nhất trong những chọn lựa hằng ngày của con. Amen. Về mục lục.

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

ĐỨC TIN VÀ HÀNH ĐỘNG

Trong khi đi chia sẻ tại các Huynh đoàn Đa Minh trên toàn quốc, kẻ viết bài này rất hay bị “chiếu bí” bằng những câu hỏi “hóc búa” rất khó trả lời. Có một thắc mắc của học viên được hỏi khá nhiều lần, đó là: “Tại sao Con Thiên Chúa giáng trần lại được đặt tên là Giê-su Ki-tô? Tên đó có ý nghĩa thế nào? Tại sao Ki-tô giáo còn được gọi là Cơ Đốc giáo?” Truy tìm trên wikipedia thì thấy giải thích:

Giê-su cũng được gọi là Giê-su Ki-tô, Jesus Christ, hay Gia-tô Cơ-đốc. Giê-su là người Do Thái có tên là Yehoshua (יהושע - có nghĩa là "Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ" trong tiếng Hebrew), thường được gọi vắn tắt là Yeshua (ישוע). Đối với người đương thời, Giê-su còn được biết dưới tên Giê-su thành Nazareth, hoặc Giê-su con ông Giu-se. Từ "Ki-tô" (tiếng La-tinh: Christus; tiếng Hy Lạp: Χριστός  Khristós hoặc từ "Cơ-đốc" trong tiếng Việt), là một danh hiệu của Chúa Giê-su, có nghĩa là "người được xức dầu", ngụ ý là một vị lãnh đạo (chính trị cũng như tôn giáo) được chọn bởi Thiên Chúa.

Sở dĩ người Do Thái gọi Đức Giê-su là “Đấng Được Xức Dầu” là vì theo truyền thống Do Thái, các vua chúa được xức dầu phong vương (“Ông Sa-mu-en lấy lọ dầu và đổ trên đầu ông Sa-un, rồi hôn ông và nói : "Chẳng phải ĐỨC CHÚA đã xức dầu tấn phong ông làm người lãnh đạo cơ nghiệp của Người sao?” – 1Sm 10, 1), các Thày Cả Thượng Phẩm cũng được xức dầu (“Ngươi sẽ lấy dầu tấn phong mà đổ trên đầu A-ha-ron và xức dầu cho ông.” – Xh 29, 7). Người Do Thái quan niệm Đấng Ki-tô là vị “Vua” trong tương lai. Người sẽ đến trong uy quyền để đổi mới mọi sự, để phục hồi lại nước Israel  (Đn 9, 25-26), giải phóng dân tộc Do Thái khỏi mọi áp bức, và đưa dân Chúa tiến lên trong vinh quang. Như vậy, Đấng mà “muôn dân mong đợi” đã đến trong trần gian, tên Ngài được gọi là Giê-su, cùng với danh hiệu Ki-tô ghép lại thành Giê-su Ki-tô.

Bài Tin Mừng hôm nay trình thuật việc Ðức Giê-su đang đi với các môn đệ ở vùng Xê-da-rê thuộc Phi-lip-phê, tức là miền cực Bắc nước Do Thái, nơi bắt nguồn của dòng sông Gio-đan. Người ta gọi nơi này là Xê-da-rê của Phi-lip-phê, vì chính Hê-rô-đê Phi-lip đã xây ở đây một thành mang tên Xê-da-rê (tên của hoàng đế Rô-ma). Do đó, đặt chân đến chốn này, ai cũng phải nghĩ tới hoàng đế và uy quyền thống trị của ông. Và từ đó, người ta cũng hay nghĩ đến thân phận của mình. Có lẽ vì thế mà khi tới vùng này, Ðức Giê-su đã quay sang hỏi các môn đệ: "Người ta nói Thầy là ai?"

Dư luận về Đức Ki-tô kể ra đã khá rõ rệt. Ai ai cũng nghĩ Người là bậc xuất chúng, tối thiểu cũng như Gio-an Tẩy giả, hoặc như Ê-li-a, hay một vị ngôn sứ nào đó. Vì thế các môn đệ trả lời: "Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó."  Còn đối với các môn đệ thì vì họ là học trò thân tín của Đức Giê-su, luôn ở với Người và được Người chăm sóc, dạy dỗ, rồi còn được chứng kiến biết bao phép lạ Người đã làm, tất nhiên họ phải có một cái nhìn về Người hơn hẳn những người khác, nên khi nghe hỏi: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" thì ngay lập tức, ông Phê-rô đã không ngần ngại thay mặt anh em mà thưa với Người: "Thầy là Ðấng Ki-tô của Thiên Chúa" – Lc 9, 18-20)

Thiết nghĩ không thể có lời tuyên xưng nào chính xác hơn được. Và đó cũng là lời tuyên xưng của Hội Thánh sau khi mầu nhiệm Phục Sinh đã hiện thực hoá: Đức Giê-su Ki-tô là Chúa các chúa, Vua muôn vua. Sở dĩ Phê-rô hôm ấy nói được như vậy là nhờ ở Thánh Thần hoạt động trong lòng trí ông. Ông thốt ra lời rất đúng nhưng vượt quá tầm hiểu biết của ông, cũng giống như nhiều khi các ngôn sứ phát biểu những Lời của Thiên Chúa mà họ chưa quán triệt được tất cả nội dung phong phú. Có lẽ cũng vì vậy nên Ðức Giê-su đã “lập tức cấm ngặt các ông không được nói với ai về Người” (Lc 9, 21). Họ không nên nói những điều họ chưa hiểu biết thấu đáo, có thể gây ra những sự hiểu lầm, mà cần phải đợi đến khi chân tướng sự việc hiển hiện ra hết rồi hãy tuyên xưng. Cũng bởi vì "giờ" của Người chưa đến. và cái trọng tâm của giờ ấy chính là cuộc khổ nạn, nên kể từ hôm nay, Người bắt đầu mạc khải cho môn đệ biết khía cạnh quan trọng này.

Phê-rô vừa mới thay mặt các môn đệ tuyên xưng “Thầy là Đấng Ki-tô” thì cũng có nghĩa là tuyên xưng “Thầy là Vua” (Ki-tô là xức dầu, mà theo truyền thống thì chỉ có vua mới được xức dầu); vậy mà tiếp liền sau đó Thầy lại “bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại. Người nói rõ điều đó, không úp mở.” (Mc 8, 31-32). Ðiều đó làm cho các môn đệ càng thêm khó hiểu, và nhất là không thể chấp nhận được. Với bản tính bộc trực nghĩ sao nói vậy, nên “Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người.” Nhưng khi Đức Giê-su quay lại, nhìn thấy các môn đệ, Người liền trách ông Phê-rô rất nặng lời: "Xa-tan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.” (Mc 8, 33).

Thực ra, không chỉ có Phê-rô hoặc các môn đệ, mà cho đến thế kỷ XXI này, không thiếu gì những người nghĩ như vậy. Tư tưởng của loài người là thế. Làm sao hiểu và chấp nhận cho được Đấng Ki-tô Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, lại chịu để loài người phỉ báng, loại bỏ và giết chết. Thiên Chúa thương yêu loài người và với quyền năng vô biên, Người chỉ cần phán một lời thì con người sẽ được giải thoát khỏi tội lỗi và sự chết đời đời. Nhưng như thế thì con người theo bản tính bẩm sinh bất toàn của mình, sẽ chẳng hiểu được mầu nhịêm này. Con người nếu không được “thực mục sở thị” (trông thấy nhãn tiền) thì vẫn không tin và – vốn dĩ được tự do đến gần như tuyệt đối – sẽ lại khơi khơi sống một cách vô tư như chưa hề biết mình đã được cứu độ.

Chính vì thế, nên ý định tối cao của Thiên Chúa Cha phải được thực hiện một cách cụ thể: Con Thiên Chúa phải xuống thế mặc xác phàm, chịu khổ hình và chết treo trên thập giá thay cho tội lỗi loài người và tới ngày thứ ba sẽ phục sinh vinh hiển. Chỉ có như vậy loài người mới thấu hiểu được hồng ân cứu rỗi do chính Người Con cũng là Người Tôi Trung của Thiên Chúa là Đức Giê-su Ki-tô vâng lời thực hiện. Cũng vì người đời khi được mạc khải chỉ hiểu được tường tận Lời Chúa bằng đức tin, nên sau Lời dạy về cuộc Thương Khó, Đức Giê-su tiếp tục dạy về những điều kiện để theo Người. Vác thập giá đi theo Ðức Ki-tô không chỉ là làm việc khó khăn này, chịu sự cực khổ kia; nhưng trước hết là phải có phương hướng nhất định.

Phương hướng đó chính là đức tin mà những kẻ tin đã lãnh nhận từ nơi Thiên Chúa (“Thật vậy, nhờ đức tin, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô. Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Ki-tô, đều mặc lấy Đức Ki-tô.” – Gl 3, 26-27). Ðức tin có những đòi hỏi của nó, nếu không, nó chỉ là một mớ, hay một hệ thống những ý tưởng trừu tượng, chứ không phải là sự sống đức tin. Ðức tin ấy phải là một sự sống, và như mọi sự sống nó phải sinh hoạt, phải hành động. Nếu không như vậy thì chỉ là “Đức tin chết” (“Đức tin không có hành động là đức tin chết” – Gc 2, 17). Nói cách khác là phải sống đức tin cách cụ thể trong cuộc sống đời thường. Vâng, khi anh tuyên xưng đức tin là phải nói lên (tuyên – tuyên bố) được niềm tin của anh, đồng thời chứng minh được niềm tin ấy (xưng – xưng ra) trong cuộc sống của anh.

Vâng, chúng ta không được như các thánh Tông đồ thủa xưa “vì đã thấy, nên đã tin”, nhưng nếu chúng ta “không thấy mà tin” thì chắc chắn sẽ được chúc phúc “Phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga 20, 29). Vấn đề tuyên xưng đức tin xưa như trái đất, nhưng coi chừng chúng ta mới chỉ TUYÊN bố bằng đầu môi chót lưỡi chớ chưa thật sự XƯNG ra bằng chính cuộc sống của mình. Nói cách khác, nếu anh mới chỉ “nói” chớ chưa thực sự “làm” đúng như những điều anh đã nói, thì cũng chẳng hơn gì những “kinh sư và người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm.” (Mt 23, 1-7). Ấy cũng bởi vì “Nhờ hành động mà con người được nên công chính, chứ không phải chỉ nhờ đức tin mà thôi. Một thân xác không hơi thở là một xác chết, cũng vậy, đức tin không có hành động là đức tin chết.” (Gc 2, 24-26

Ôi! Lạy Chúa! Con biết rằng con rất mạnh mịêng khi đọc hay hát kinh Tin Kính trong các thánh lễ, nhất là trong đêm Vọng Phục Sinh. Con cũng biết rằng khi con nói về niềm tin của mình thì thao thao bất tuyệt, nhưng con chưa sống niềm tin ấy một cách cụ thể trong cuộc sống thường nhật của con. Con tin vào Chúa, con luôn đến với Chúa, nhưng với những người anh em của con – nhất là những anh em khó nghèo, tật bệnh, lao tù… – thì con lại thờ ơ, lảng tránh. Như vậy thì nào có khác chi con chỉ mới “TUYÊN bố” chớ chưa “XƯNG ra” được niềm tin mà con đã chọn cho cuộc đời mình.

Cúi xin Chúa ban Thần Khí cho con đủ can đảm và dũng khí tuyên xưng đức tin cách công khai bằng chính những việc làm, những sinh hoạt trong gia đình, ngoài xã hội, để con được xứng đáng với danh hiệu “Ki-tô hữu” mà Chúa đã ban tặng. Ôi! Lạy Chúa! “Con tuyên xưng Chúa đã chết đi. Con tuyên xưng Ngài đã sống lại. Trong vinh quang mai Ngài lại đến…” Ôi, lạy Chúa con! Lạy Thiên Chúa của con! Con tin! Amen. Về mục lục.

JM. Lam Thy ĐVD

NHẬN BIẾT CHÚA KITÔ

1) Nhận biết Đức Kitô

Toàn bộ Tin Mừng thánh Marcô nhằm mục đích trả lời cho câu hỏi: "Chúa Giêsu là ai?" Nhưng trong trích đoạn Tin Mừng hôm nay, chính Chúa Giêsu lại minh nhiên đặt cho các môn đệ câu hỏi : "Các con bảo Thầy là ai? " Chúng ta, những Kitô hữu giờ đây nghe và đọc lại cũng buộc phải trả lời.

Trong các chương Tin Mừng của Chúa nhật trước, Chúa Giêsu đã không minh nhiên trả lời câu hỏi đặt ra về chính mình, nhưng các việc Người làm tự nó là những câu trả lời về chính Chúa.

• Người làm cho kẻ què đi được, ý nói, Người ban cho con người khả năng bước đi trong cuộc sống;

• Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được, như thế, Người là Đấng có lời ban sự sống và lý giải vê cuộc sống;

• Người làm kẻ chết sống lại, chứng tỏ, Người là Đấng bảo trợ sự sống;

• Người làm cho người mù thấy được, chứng tỏ Người là Ánh Sáng, đến chiếu tỏa ánh trần gian;

• Người làm cho sóng yên biển lặng, như vậy, Người là Chúa tể trời đất ;

• Người hóa bánh ra nhiều cho dân chúng ăn trong sa mạc, thể hiện, Người là Đấng nuôi dưỡng nhân loại cả xác lẫn hồn.

Đọc lại và thấy tất cả những việc Chúa "làm", chúng ta đi đến kết luận : "Người là Đấng Mêssia" (tiếng Hy lạp là : Đức Kitô)". Tiếc thay, nhiều người đương thời, ngay cả chúng ta ngày hôm nay nữa vẫn không nắm bắt được sự mới mẻ vĩ đại của Chúa Giêsu, vì thế với câu hỏi, "Người ta bảo Thầy là ai?" Phần lớn trả lời "người làm việc " không hơn không kém các tiên tri trước Người. "Còn các con, các con bảo Thầy là ai? " Là câu hỏi Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ của mình, nhân danh cả nhóm Phêrô trả lời : "Thầy là Đức Kitô! " Phêrô đưa ra một câu trả lời chính xác, không nói khác được, vì ông biết rõ Chúa Giêsu là Đấng Mêssia. Việc Chúa chết và sống lại là điều không tưởng, nhưng điều không tưởng tượng được ấy Chúa Giêsu đã hoàn tất cách vinh quang, điều duy nhất có thể thay đổi lịch sử nhân loại. Nói theo kiểu Heidegger, nếu không có Chúa, con người chỉ là một "sinh vật phải chết", cái chết của Chúa "gắn" liền với Thập giá; Người "giải thoát chúng ta khỏi ràng buộc" của sự chết.

Cần phải nhắc lại, câu trả lời của thánh Phêrô hàm chứa sự hiểu biết sâu xa về tình yêu chịu đóng đinh. Chính con đường Thập giá hoàn tất mục đích cứu độ của Chúa Giêsu. Khi Phêrô, vị Thủ lãnh các Tông Đồ thưa Chúa : "Thầy là Đức Kitô". Chúa Giêsu, Đấng Mêsia cảm thấy cần phải nhấn mạnh, Con Thiên Chúa phải chịu đau khổ nhiều. Vì thế, vấn nạn "Còn các con, các con bảo Thầy là ai?" Chúa Giêsu đặt ra cho chúng ta hôm nay. Câu trả lời : "Thầy là Đức Kitô, Tình Yêu bị đóng đinh và sống lại" mới đủ ý nghĩa. Thánh Phaolô viết : "Nếu Đức Kitô không sống lại, đức tin của chúng ta là mơ hồ", Chúa biết Thập giá, tự nó không phải là một trở ngại cho ơn cứu rỗi. Thập giá là điều kiện. Thập giá không phải là cây cột của người La Mã, nhưng là cây gỗ để Thiên Chúa viết Tin Mừng.

Đấng Mêsia mời gọi chúng ta lên núi Calvariô với Chúa và bước theo Chúa chịu đóng đinh trên Thập giá, Đấng bị kết án tán dương sự công chính, Đấng chết đi để xác nhận sự sống, Người bị đóng đinh để bước vào vinh quang.

Bằng cách bước theo Chúa Kitô và tin tưởng vào lòng từ ái của Người, chúng ta hãy rang rộng cánh tay và mở rộng lòng mình như Đấng bị đóng đinh trên Thập giá. Tất nhiên, để làm điều ấy, như thánh Phêrô, chúng ta phải nhận biết Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, Đấng Cứu Độ, chấp nhận Thập giá như "chìa khóa" Chúa dùng để mở Trời và đóng cửa địa ngục. Đấng Cứu Chuộc đã vác "chìa khóa" nặng nề trên vai, anh cảm thấy gánh nặng và trách nhiệm khi bị đóng đinh treo trên thập giá đó. Đức Kitô trao cho thánh Phêrô "chìa khóa" Nước Trời và kêu gọi ông đóng đinh với Người, vác lấy gánh nhẹ nhàng trên vai Ngài như Người, dạy cho ông biết sự khiêm nhường và dịu dàng để "cởi trói" những người nô lệ thế gian, xác thịt và ma quỉ "ràng buộc" họ với Chúa Kitô trong một giao ước vĩnh cửu làm cho họ trở nên con cái của Cha vĩnh cửu trên trời.

2) Tình yêu đích thực vì bị đóng đinh 

Tất nhiên, chúng ta cũng vậy, như Thánh Phêrô, chúng ta cũng muốn rời xa Thập giá Chúa. Nhưng Ma quỉ, Tên Cám Dỗ, nỗ lực lôi kéo chúng ta ra khỏi (Con đường Thánh Giá), thay thế nó bằng một con đường được thiết lập bởi sự khôn ngoan loài người.

Chúa Kitô đã vạch trần Tên Cám Dỗ và vượt qua hắn : Cả cuộc đời Người là một lời "xin vâng" không ngừng đối với Thiên Chúa và là một lời "từ chối" luôn mãi đối với Ma quỉ. Chúa Giêsu đã chiến thắng Ma quỉ. Ma quỉ lại cố gắng lôi kéo môn đệ của Thầy Giêsu: để tách rời Đấng Mêssia khỏi thập giá, tách họ ra khỏi niềm tin vào Chúa Giêsu- Vua và ngai vàng của Người là cây Thập giá.

Sau khi thể hiện thiên tính của mình và vạch mặt sự hiện diện của Tên Cám Dỗ, Chúa Giêsu mạc khải cho các môn đệ và nhân loại biết con đường Chúa đi. Không có hai con đường, một cho Chúa Giêsu, một cho các môn đệ, mà chỉ có một: "Ai muốn theo Thầy, phải từ chối chính mình và vác thập giá mình mà theo", vì Thánh giá là biểu tượng của tình yêu bị đóng đinh.

Quả thật, Thánh giá là "hình phạt đối với người Do thái và sự điên rồ đối với dân ngoại" (1 Cor 1,18-24) chúng ta thật khó để hiểu và chấp nhận nó.

Tình yêu bị đóng đinh không phải là tình yêu bị chết, nhưng là tình yêu "hy sinh". Để yêu thương, Chúa Giêsu đã tự nộp mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Nếu chúng ta muốn yêu thương như Chúa Kitô, chúng ta phải biết và làm điều đó. Thánh giá là dấu chỉ lớn nhất của tình yêu Thiên Chúa đối với con người.

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con vui mừng đón nhận và đi theo Chúa chịu đóng đinh, nhưng sống lại để cứu chuộc chúng con. Amen. Về mục lục.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Theo Chúa phải từ bỏ mình, vác thập giá mình

Sau lời tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô” (Mc 8,29) Phêrô cùng các môn đệ bị Thầy cấm không được nói với bất cứ ai về Thầy. Liền sau lời cấm là bài học về chính Thầy, Đấng Mêssia : “Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều…bị giết đi” (Mc 8, 31). Vì không chấp nhận nên Phêrô đã bị khiển trách nặng nề bởi ông đã bày tỏ ý tưởng sai lạc của con người về Đấng Cứu Thế : “Satan, hãy lui đi, vì người không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người” (Mc 8, 33).

Quả thật, một thụ tạo sao hiểu được ý Đấng Sáng Tạo, một con người sao biết được Thiên Chúa. Chúng ta phải cám ơn các tác giả Tin Mừng đã mô tả cách chân thực về con người môn đệ Chúa Giêsu, thực sự họ không phải là nhân vật lý tưởng tuyệt vời hay là thần thánh gì hết, họ là những con người bằng xương bằng thịt với đức tính và khuyết điểm như chúng ta. Có thế họ mới gần gũi chúng ta, và giúp chúng ta nhận ra rằng tất cả chúng ta cần phải hoàn thiện mỗi ngày, bởi không ai là hoàn hảo ngay từ khi mới sinh.

Vậy, đâu là ý Thiên Chúa?

Chúa Giêsu bắt đầu dạy cho các môn đệ hiểu rằng “Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ, và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại” (Mc 8, 31). Chương trình trên làm đảo lộn tâm hồn các môn đệ. Làm sao “Ðấng Kitô” (Mc 8, ) lại có thể bị đau khổ cho tới chết được? Tông đồ Phêrô nổi loạn, không chấp nhận con đường ấy, nên mới : “Kéo Người lui ra mà can trách Người” (Mc 8, 32). Ý muốn của Thiên Chúa là chấp nhận thập giá.

Xem ra sự khác biệt giữa chương trình tình yêu của Chúa Cha và dự án, ước muốn của các môn đệ là điều hiển nhiên. Không chấp nhận thập giá là phủ nhận chương trình tình yêu của Chúa Giêsu, và hầu như ngăn cản Người thi hành ý muốn của Chúa Cha.  Vì thế Chúa Giêsu mới nặng lời trách đuổi Phêrô: “Satan, hãy lui đi ” (Mc 8, 33).

Khi con người thực hiện cuộc đời mình chỉ hướng tới thành công xã hội, giầu sang vật chất và kinh tế, con người gạt bỏ Thiên Chúa sang một bên, không lý luận theo Thiên Chúa nữa, mà theo con người. Và khi nào chúng ta để cho những suy nghĩ, tình cảm hay lý luận nhân loại chiếm ưu thế, không để cho đức tin, hay Thiên Chúa dạy dỗ và hướng dẫn, lúc ấy chúng ta sẽ trở nên những tảng đá cản trở chương trình tình yêu của Người.

Theo Chúa phải từ bỏ

Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: ” Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm, thì sẽ cứu được mạng sống mình” (Mc 8,34).

Chúng ta tự hỏi: “Từ bỏ” mình có nghĩa gì? Và tại sao ta phải tử bỏ mình?

Thật khó chấp nhận điều Chúa Giêsu yêu cầu là từ bỏ và hy sinh. Sống trong một xã hội được lập trình sẵn, khuyến khích thành công nhanh, tận dụng tối đa làm ít, hưởng nhiều, đỡ tốn thời giờ và sức khỏe, nên không có lạ khi chúng ta làm và nhìn mọi sự theo kiểu con người chứ không theo cái nhìn của Thiên Chúa. Chính Phêrô, chỉ sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, ông mới ý thức được rằng, ông phải qua con đường ông đi và sống trong hy vọng.

Cần phải phân biệt, Chúa Giêsu không đòi chúng ta từ bỏ “điều chúng ta là“, nhưng điều “chúng ta đã trở nên“. Chúng ta là hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa thấy tốt đẹp sau khi tạo dựng người nam và người nữ (x. St 1, 31). Điều chúng ta phải từ bỏ không phải là điều Chúa đã làm, nhưng điều chúng ta lạm dụng quyền tự do làm, cụ thể như: kiêu ngạo, hà tiện, dâm dục, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét và làm biếng… là những khuynh hướng xấu, tội lỗi, bao phủ trên hình ảnh Thiên Chúa. Thánh Phaolô gọi ảnh biến hình này là “ảnh dưới đất“, ngược với “ảnh trên trời“, giống như Chúa Kitô. Do đó “từ bỏ chính chúng ta“, là từ bỏ ý loài người để mặc lấy ý Chúa, hợp và giống Chúa hơn.

Kierkegaard đã lấy một ví dụ: Hai người trẻ ngôn ngữ khác nhau yêu nhau. Muốn cho tình yêu của hai người sống còn và lớn mạnh, một trong hai người phải học tiếng nói của người kia. Bằng không, họ không có khả năng truyền đạt và tình yêu của họ không bền. Và ông kết luận, điều này chỉ xảy ra giữa chúng ta và Chúa. Chúng ta nói thứ ngôn ngữ xác thịt, Chúa nói thứ ngôn ngữ thần khí; chúng ta nói ngôn ngữ tính ích kỷ, Chúa nói ngôn ngữ tình yêu.

Muốn theo Chúa, phải từ bỏ chính mình là học ngôn ngữ của Chúa để chúng ta có thể giao tiếp với Chúa. Chúng ta sẽ không có khả năng nói “vâng” với người khác nếu chúng ta trước hết không khả năng nói “không” với chúng ta.

Theo Chúa là chấp nhận thập giá

Thì ra con đường của các môn đệ là theo Chúa Giêsu, Ðấng bị đóng đinh. Con đường “chịu mất chính mình“, để tìm lại được chính mình, như Đức nguyên Giáo hoàng Benedictô XVI viết: con đường “chịu mất chính mình“, là điều cần thiết đối với con người, và nếu không có điều này, thì nó không thể tìm lại được chính mình” (Ðức Giêsu thành Nadarét 2007, 333).

Ngày nay Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta” (Mc 8, 34). Theo Chúa khi chấp nhận thập giá của mình với lòng yêu mến. Dưới con mắt thế gian, “chịu mất mạng sống” (Mc 8, ) là một thất bại. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết như sau: “Một cách nhiệm mầu chính Chúa Kitô chấp nhận… chết trên một thập giá để nhổ tận gốc rễ tội kiêu căng khỏi trái tim con người, và biểu lộ một sự vâng phục toàn vẹn con thảo” (Es. ap. Gaudete in Domino 9 maggio 1975, AAS 67 (1975) 300-301). Khi tự nguyện chấp nhận cái chết, Ðức Giêsu mang lấy thập giá của tất cả mọi người và trở thành suối nguồn ơn thánh cứu độ cho toàn dân. Thánh Cirillo thành Giêrusalem giải thích rằng: “Thập giá chiến thắng đã soi sáng những ai bị mù lòa vì ngu muội, đã giải thoát người bị tội lỗi giam cầm, đã đem lại ơn cứu độ cho toàn nhận loại” (Catechisis Illuminandorum XIII,1; de Christo crucifixo et sepulto: PG 33, 772 B).

Lạy Chúa Giêsu Kitô Con Thiên Chúa hằng sống đã đến thế gian chịu chết và sống lại để cứu chuộc chúng con, chúng con xin theo Chúa, nhưng xin Chúa giúp chúng con biết từ bỏ chính mình và vác thánh giá đời chúng con mỗi ngày để theo Chúa. Xin gia tăng lòng tin yêu Chúa nơi chúng con, để những gì tốt đẹp nơi chúng con ngày càng phát triển và được Chúa chăm sóc giữ gìn. Amen. Về mục lục.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

CHỨNG MINH

Chứng minh là hình thức suy luận để xác định tính chân lý của một vấn đề bằng cách đưa ra các dẫn chứng cụ thể. Trong văn chương có loại luận văn chứng minh, chẳng hạn muốn chứng minh câu tục ngữ “Có công mài sắt, có ngày nên kim”, người ta cần dẫn chứng bằng các trường hợp điển hình trong cuộc sống đời thường – cách “mài sắt” để có được “cây kim”.

Tương tự, đức tin cũng cần có cách thể hiện cụ thể, nếu không thì chỉ là “đức tin chết” (Gc 2:17 và 26). Đức tin thực sự quan trọng trong đời sống Kitô hữu. Albert Camus (1913-1960, triết gia và ký giả người Pháp) có cách lý luận thú vị về niềm tin: “Tôi thà sống cả đời TIN có Thần Linh rồi chết mà phát hiện không có, còn hơn sống cả đời KHÔNG TIN rồi chết mới phát hiện CÓ Thần Linh”.

Cuộc sống thế gian có nhiều thứ trái ngược hoặc đối lập (phải – trái, trên – dưới, cao – thấp, tốt – xấu,…), một trong các cặp đôi đối lập “đặc biệt” là Yêu – Ghét. Đó là hai động thái trái ngược nhau, nhưng luôn xảy ra song song. Lằn ranh giữa yêu và ghét quá mong manh đến nỗi khó nhận ra. Khi ghét mà người ta cứ tưởng là mình đang yêu, và khi bảo là yêu mà thực ra lại chỉ là ghét!

Chắc chắn rằng không ai lại ghét chính mình, có lẽ vì thế mà đôi khi người ta lại yêu mình thái quá. Đó là tự ái – tự yêu mình quá mức. Nhưng Chúa Giêsu dạy phải “ghét mình” và “yêu tha nhân” (quên mình mới có thể quan tâm người khác). Chúa Giêsu luôn có kiểu “ngược đời” như vậy, nhưng xét cho cùng thì rất có lý. Liệu Ngài có quá đáng hoặc xúi giục chúng ta làm điều dại dột?

Cứ cho là cũng có thể “hơi quá đáng” đối với chúng ta, nhưng tuyệt đối Ngài không hề xúi dại ai mà chỉ nói thật. Chúa bảo chúng ta “ghét mình” vì Ngài biết chúng ta dễ ỷ lại, thích tự tôn, ưa tự cao tự đại, khoái “nổ” banh-ta-lông, dễ sinh tật, khó thuần hóa, thế nên Ngài phải đặt “hàm thiếc” vào chúng ta để kiềm chế thói bướng bỉnh của chúng ta. Mà cũng rất hợp lý, bởi vì nếu Ngài không làm vậy thì chúng ta sẽ dám chỉ coi trời bằng… nắp bia mà thôi!

Trình thuật Is 50:4-8 là bài ca thứ ba trong các Bài ca Người Tôi Trung. Tôi trung nào cũng khổ sở trần ai khoai củ, te tua tơi tả. Không đâu xa, lịch sử Việt Nam cho thấy có những trung thần mà phải bị hàm oan, trong Giáo hội Công giáo cũng không thiếu những con người bị khổ oan như vậy, thậm chí có những vị thánh đã từng bị vạ tuyệt thông một cách oan ức nhưng vẫn kiên quyết tới cùng!

Nói về Người Tôi Trung, ngôn sứ Isaia cho biết: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho tôi nói năng như một người môn đệ, để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ. Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui” (Is 50:4-5). Ngoan cường quá! Không ngại khó, không sợ khổ, không “tham sanh, úy tử” (ham sống, sợ chết). Thế mới xứng danh Người Tôi Trung. Và đó chính là hình bóng của Đức Kitô – Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại.

Tiếp tục ngôn sứ Isaia tường thuật: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ” (Is 50:6). Rất tự tin, rất hiên ngang. Mọi gian truân chẳng là cái gì ráo trọi! Tại sao vậy? Ông cho biết rõ ràng về động lực thúc đẩy: “Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng. Đấng tuyên bố rằng tôi công chính, Người ở kề bên” (Is 50:7-8a). Càng lúc càng an tâm, vững dạ; càng lúc càng tin tưởng dù gặp đủ thứ gian nan khốn khó. Ngôn sứ Isaia “đặt vấn đề” rất thẳng thắn, ngỡ như thách thức: “Ai tranh tụng với tôi? Cùng nhau ta hầu tòa! Ai muốn kiện cáo tôi? Cứ thử đến đây coi!” (Is 50:8b). Rất mạnh mẽ và kiên cường, bởi vì sống công chính thì chẳng có gì phải sợ, và cũng chẳng ngán bất kỳ ai. Mãi mãi vẫn cứ là chính mình!

Thật vậy, nếu theo Chúa và hoàn toàn tín thác vào sự quan phòng của Ngài, chúng ta sẽ không ngại nói chắc chắn: “Lòng tôi yêu mến Chúa, vì Chúa đã nghe tiếng tôi khẩn nài, Ngài lại lắng tai ngày tôi kêu cứu” (Tv 116:1-2). Và mặc dù “dây tử thần đã bủa vây chằng chịt, lưới âm ty chụp xuống trên mình” (Tv 116:3), chúng ta cũng vẫn ngước cao đầu mà tiến bước, không hề chùn chân hoặc thối chí. Nếu có gặp gian truân sầu khổ thì vẫn một mực thành tín kêu cầu danh Chúa: “Ôi lạy Chúa, xin cứu gỡ mạng con!” (Tv 116:4). Chắc chắn Ngài sẽ thương mà giải thoát ngay, vì Ngài luôn đồng hành với chúng ta, nhất là trên những chặng đường đầy chông gai. Vả lại, Ngài chính là Thiên Chúa tình yêu (1 Ga 4:8 và 16), là Đấng nhân từ chính trực, luôn một dạ xót thương, hằng gìn giữ những ai bé mọn, những người yếu đuối, đặc biệt là luôn giữ lời hứa. Thánh Vịnh gia đã minh chứng cụ thể và sống động: “Chúa cứu gỡ mạng tôi khỏi chết, giữ mắt này chẳng còn đẫm lệ, ngăn ngừa tôi khỏi phải hụt chân. Tôi sẽ bước đi trước mặt Ngài trong cõi đất dành cho kẻ sống” (Tv 116:8-9). Thật vậy, Ngài là Thiên Chúa của người sống chứ không của người chết, toàn năng và bất biến.

Một kiểu đặt vấn đề rất thú vị của Thánh Giacôbê: “Ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng?” (Gc 2:14), và ngài phân tích: “Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: ‘Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no’, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì?” (Gc 2:16). Tất nhiên đời sống tâm linh của chúng ta cũng vậy, “đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2:17 và 26). Một cách định nghĩa đức tin rất ngắn gọn mà sâu sắc và tuyệt vời. Quả thật là vậy, và vấn đề rất rạch ròi: “Bạn có đức tin; còn tôi có hành động. Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin” (Gc 2:18). Chỉ có nước cứng họng, chẳng ai có thể đưa ra bất cứ lý do nào để tự biện hộ. Cách biện luận của Thánh Giacôbê rất thuyết phục, chắc hẳn ai cũng phải “tâm phục, khẩu phục”.

Một lần nọ, Chúa Giêsu đã từng “ví von” thế này: “Có người nào trong anh em, khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá? Hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn?” (Mt 7:9-10). Nghe rồi thì chỉ có nước câm miệng chứ ai có thể phản biện được gì? Đó là cách sống yêu thương, sống đức tin, sống đạo (chứ không chỉ giữ đạo), và là cách thể hiện lòng thương xót của Chúa. Đừng thương xót Chúa mà hãy thương xót nhau, cũng như Chúa Giêsu đã nói thẳng: “Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu” (Lc 23:28). Tất nhiên, Ngài không nói với các nữ giới mà nói với mọi người – bất kể ai.

Và rồi vào một dịp khác, khi Đức Giêsu và các môn đệ tới các làng xã vùng Xêdarê Philípphê. Dọc đường, Ngài hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thầy là ai?” (Mc 8:27). Các ông đáp: “Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó” (Mc 8:28). Ngài lại hỏi các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Ông Phêrô nhanh nhẹn đại diện trả lời: “Thầy là Đấng Kitô” (Mc 8:29). Một câu trả lời trên cả tuyệt vời, Phêrô nhà ta là “số dzách”, là “number one”, và cũng thật kỳ lạ!

Vậy mà Thầy Giêsu liền nghiêm mặt và cấm ngặt các ông không được nói với ai về Ngài. Sau đó, Ngài không nói về vinh hoa, phú quý, hoặc chức quyền, địa vị, mà Ngài bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại. Thánh Mác-cô cho biết rằng Chúa Giêsu nói rõ về điều đó, không hề úp mở. Sự thật không thể khác được, mặc dù đó là điều rất buồn!

Ôi chao, có lẽ Phêrô nhà ta “cụt hứng” nên ông liền kéo riêng Thầy ra và bắt đầu trách. Nhưng Ngài quay lại nhìn các môn đệ và thẳng thắn trách mắng ông Phêrô: “Satan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mc 8:33). Chúa Giêsu chưa một lần trách ai nặng như đã trách vị giáo hoàng tiên khởi. Điều đó chứng tỏ Chúa rất công bình, chính trực, hay thì khen mà dở thì phang ngay, không thiên tư hoặc vị nể chi hết. Tuyệt! Thật vậy, những người khác chỉ bị trách là thế này hay thế nọ, còn giáo hoàng Phêrô bị nguyền rủa là Satan. Quá nặng, nhưng phải nghiêm khắc chấn chỉnh như thế mới có thể nên người được!

Chúa Giêsu nói xong thì thôi, không hề để bụng. Rồi Ngài liền gọi đám đông cùng với các môn đệ lại và nói: “Ai MUỐN THEO tôi, PHẢI TỪ BỎ chính mình, VÁC thập giá mình mà theo” (Mc 8:34). Thuận ngôn thì nghịch nhĩ. Khó quá, Chúa ơi là Chúa! Thế nhưng Ngài vẫn thật thà và thẳng thắn: “Ai muốn CỨU mạng sống mình thì sẽ MẤT; còn ai liều MẤT mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng thì sẽ CỨU được mạng sống ấy” (Mc 8:35). Hoán vị từ ngữ rất độc đáo. Thế nhưng Ngài không ép, hoàn toàn cho phép tự do chọn lựa. Tùy ý mỗi người. Thích thì chiều. Vấn đề quan trọng không là thưa “có” hoặc nói “không”, mà là phải chứng minh được điều đó bằng động thái cụ thể, rạch ròi!

Liên quan việc chứng minh, Hc 46:13-14 cho biết về ông Samuel: Ông là người được Chúa yêu thương, là ngôn sứ, là người thiết lập nền quân chủ, là người xức dầu tấn phong các vị lãnh đạo dân, có quyền xét xử cộng đồng theo Luật Chúa. Trước khi qua đời, ông đã chứng minh trước mặt Chúa và Đấng được xức dầu: “Của cải, thậm chí cả giày dép, tôi đã không lấy của một ai!”. Và chẳng có ai cáo tội ông. Một tấm gương sáng về tính liêm khiết.

Lạy Chúa Tể càn khôn, chúng con chỉ là những tội nhân khốn nạn, thế mà lúc nào cũng tìm dịp “nổi dậy” bằng lắm chiêu nhiều cách, chỉ đòi được Ngài thương mà không muốn yêu tha nhân, không muốn bị ghen ghét mà lúc nào cũng liếc xéo hoặc mỉa mai tha nhân. Chúng con thật hồ đồ và đáng tội. Xin Ngài thương xót, tha thứ, và giúp chúng con chứng minh bằng cách từ bỏ chính mình theo đúng ý Con Một Ngài. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ của nhân loại. Amen. Về mục lục.

Trầm Thiên Thu

THẦY LÀ ĐẤNG KITÔ

(Cảm nhận và suy niệm từ Mc 8, 27-35)

Trên đường công tác hướng linh,

Chúa cùng môn đệ trong tình mến thương.

Bỗng nhiên, Chúa hỏi giữa đường

Người ta đoán, bảoThầy thường là ai?

Thưa rằng: họ bảo là Ngài

Êlia cao trọng sống đời tiên tri…

Chúa rằng chớ có hoài nghi

Luôn luôn vững dạ điều gì chẳng sai.

Các con bảo Thầy là ai?

Phêrô vội đáp: Thiên Sai cứu đời…

Chúa rằng: Hãy giữ lấy lời,

Niềm tin giữ kín tới hồi thực thi.

Ngày kia Thầy bị khinh khi,

Quan dân hành hạ, chết đi cứu đời.

Ba ngày sống lại thảnh thơi,

Thầy về nguyên vị Chúa Trời Ngôi Hai…

Nghe lời tuyên bố công khai,

Phêrô kéo Chúa ra ngoài, trách luôn.

Chúa rằng: chớ có khoe khôn

Satan nào biết việc hồn Cha sai…

Sau khi có cả đám người

Chúa lên tiếng dạy cho đời thiện nhân.

Ai theo Ta, phải hiến thân

Vai mang thập giá, đường trần coi khinh.

Muốn mình cứu sống đời mình,

Hy sinh mạng sống, trung thành theo Ta.

Theo Ta, nguồn sống chan hoà,

Bình an vĩnh cửu: Nước Cha trên Trời…

(Thế Kiên Dominic)  

Với mục đích để Lời Chúa được loan truyền và thông tin Giáo hội được lan tỏa, Legio Mariæ sẵn lòng để các tổ chức và cá nhân sử dụng lại tin bài đã đăng trên báo giấy và báo mạng legiomariævn.com của mình.

Tuy nhiên, vì đức công bằng và sự bác ái, xin quý vị vui lòng ghi đầy đủ nguồn như sau: “Theo Đạo Binh Đức Mẹ, website: legiomariævn.com”.

Ngoài ra, nếu chia sẻ bài lên mạng xã hội (Facebook, Twitter…), đề nghị dùng đường dẫn gốc trên website của Đạo Binh Đức Mẹ.

Tin liên quan