SUY NIỆM CHÚA NHẬT IV TN_C

31-01-2019 1,682 lượt xem

(Gr 1,4-5.17-19; 1 Cr 12,31; 13,13; Lc 4,21-30)

Mục Lục

ĐÁNH MẤT HỒNG ÂN - Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

ĐÓN NHẬN HAY KHƯỚC TỪ? - JM. Lam Thy ĐVD

CHÚA GIÊSU, VỊ THẦY THUỐC CAO TAY ĐẦY LÒNG NHÂN ÁI - Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

NGUYÊN NHÂN ĐỨC GIÊSU BỊ KHƯỚC TỪ TẠI QUÊ HƯƠNG - Tu sĩ: Jos. Vinct Ngọc Biển, S.S.P.

THÁCH THỨC - TRẦM THIÊN THU

ƠN CỨU ĐỘ CỦA CHUNG - Thế Kiên Dominic

ĐÁNH MẤT HỒNG ÂN

Dịp Tết hằng năm, có nhiều bà con Việt Kiều về thăm thân nhân và ăn Tết ở quê nhà.

Sau những tháng ngày rao giảng Tin Mừng đó đây, hôm nay Chúa Giêsu trở về thăm làng quê Nagiarét. Ngày Sabbat, Chúa vào Hội đường tham dự giờ cầu nguyện và nghe giảng giải Thánh Kinh. Hội đường Do thái không phải là nơi thờ phượng, nhưng là nơi người do thái tập hợp hàng tuần vào các ngày Sabat để nghe đọc Sách Thánh và diễn giải Lời Chúa. Người Do thái chỉ có một nơi duy nhất dành để thờ phượng Thiên Chúa, để dâng lên Người Lễ Toàn Thiêu và lễ Tạ Tội, đó là đền thờ Giêrusalem. Các Hội đường ở các thành phố và làng mạc trong cả nước còn được sử dụng để dạy và đào tạo tàng lớp thanh thiếu niên về Kinh thánh. Trong thời tuổi trẻ, Đức Giêsu từng là một trong các thanh thiếu niên có mặt thưởng xuyên trong các giờ giáo lý Kinh thánh, và còn hơn thế nữa, là một học trò ưu tú bậc nhất và quen thuộc của ông Trưởng Hội đường tại quê nhà Nadarét .

Vì thế, khi Đức Giêsu trở lại Nadarét và đi vào Hội đường vào Ngày Thứ Bảy, ông Trưởng Hội đường tất nhiên đã nhận ra ngay cậu học trò ưu tú năm xưa của mình và đã đưa Sách Thánh cho Ngài đọc. Đây là hành động đầy kính trọng mà các vị Trưởng Hội đường thường dành cho các vị khách quý đặc biệt của họ. Đức Giêsu đọc sách Ngôn sứ Isaia và bắt đầu giảng giải Kinh Thánh.

Vẻ uy nghi trang trọng của Ngài khác thường. Gương mặt Ngài luôn tỏa ra nét dịu hiền, mến yêu, đầy thiện cảm. Giọng nói tự nhiên của Ngài càng hấp dẫn dân chúng hơn. Ý tứ Ngài trình bày đơn sơ trong sáng hợp với tâm trí mọi người. Họ cảm thấy thấm thía sự kỳ diệu của nước Thiên Chúa. Họ cảm nhận lòng nhân ái Chúa Cha trên trời. Họ cảm phục về tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Đức Giêsu đòi hỏi mọi người phải sống thương yêu nhau như anh em ruột thịt. Họ ngạc nhiên thì thầm với nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế ? Sao ông ta được khôn ngoan như vậy ? Ông ta làm được nhiều phép lạ, như thế nghĩa là gì ?”.

Những người đồng hương ngạc nhiên bởi sự khôn ngoan và những phép lạ Ngài làm ở những nơi khác. Nhưng khi nhớ đến nguồn gốc của Ngài, chỉ là một người thợ mộc, bà con với những dân làng bình thường, họ không tin. Dân làng Nadaret và cả họ hàng Chúa Giêsu không tin Chúa, đó là điều cả bốn sách Tin Mừng cho biết. Riêng Luca cho thấy họ đi tới chỗ muốn giết Chúa bằng cách xô xuống vực. Nhưng Chúa băng qua giữa họ mà đi, tiếp tục rao giảng cho những làng mạc khác.

Dân chúng xì xầm bàn tán chỉ vì ghen tương và đố kỵ nên họ muốn giết Đức Giêsu.

Họ chẳng biết sự khôn ngoan và quyền phép của Đức Giêsu bởi đâu ? Họ xì xầm về nguồn gốc chỉ thấy: “Mẹ ông là bà Maria, anh em họ hàng là Giacôbê, Giosê, Giuđa và Simon”. Tất cả bà con lối xóm đều coi ông như bạn bè từ gần 30 năm nay ở Nagiarét này, một thôn ấp nhỏ bé chỉ có độ 150 gia đình nghèo nàn, tối tăm, mấy ai quan tâm đâu. Ông ấy lại là bác thợ mộc, con nhà lao động, làm thuê làm mướn, lang thang từ nhà này sang nhà khác, đóng bàn sửa ghế, ráp giường ghép tủ, đục đẽo cày bừa, thành phần địa vị thấp kém trong xã hội. Có bao giờ thấy ông ấy nói năng, làm được gì hay lạ đâu ? Ông ta bỏ quê nhà đi lang thang mấy tháng, nay trở về, sao thay đổi nhanh như thế ! Một quá khứ và hiện tại như thế đã khiến họ vấp phạm. Họ không tin Ngài là một Ngôn Sứ, lại càng không thể tin Ngài là Mêsia, và chắc chắn họ chẳng bao giờ dám nghĩ rằng mình là người đồng hương với Ngôi Hai Con Thiên Chúa.

Để cảnh tỉnh họ, Đức Giêsu chỉ cho họ thấy chỉ vì tổ tiên họ ngày trước đã không đón nhận các ngôn sứ Thiên Chúa gửi đến nên đã đánh mất những ân huệ lớn lao. Cụ thể là vào thời ngôn sứ Êlia, khi trời hạn hạn suốt ba năm sáu tháng, dân Itraen phải lâm vào cơn đói khát trầm trọng, vậy mà ngôn sứ Êlia được sai đến, không phải để cứu giúp các bà goá trong dân Ítraen thời đó, mà là để cứu đói cho hai mẹ con bà goá ngoại giáo nghèo khổ thành Xarépta, miền Xiđôn. Một sự kiện khác tương tự là vào thời ngôn sứ Êlisa, đang khi có nhiều người phong cùi trong dân Itraen cần được cứu chữa, thế mà không ai trong bọn họ được vị ngôn sứ chữa lành, ngoại trừ tướng Naaman ngoại giáo, người nước Syri.Thế nhưng, những lời cảnh tỉnh của Đức Giêsu không làm cho họ tỉnh ngộ, trái lại càng khiến họ oán ghét Ngài. Họ nhất tề đứng dậy, xông vào túm lấy Ngài, lôi ra khỏi hội đường rồi kéo ra khỏi thành, kéo lên tận đỉnh núi, để xô xuống vực cho nát thịt tan xương.Lòng đố kỵ ganh ghét thật khủng khiếp! Đức Giêsu trở thành nạn nhân của “chủ nghĩa lý lịch”. Mc. Kenzie nói: Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, còn người định kiến hẹp hòi nhìn bằng kính hiển vi. Sự kiện này là khởi điểm những thử thách gian nan và cái chết đang chờ đợi Đức Giêsu trong những tháng ngày sắp tới.

Còn Đức Giêsu thì luôn âm thầm, kiên nhẫn, nhỏ nhẹ nói với họ bằng câu ngạn ngữ: “Không ai là tiên tri cho xứ sở mình”. Một câu chuyện quen thuộc nhưng đáng buồn “Ngôn sứ không được quê hương mình chấp nhận”. Đức Giêsu thật ngạc nhiên vì thấy họ không tin. Ngài rất muốn giúp đỡ họ nhưng cũng đành phải bó tay. Họ chỉ biết nhìn Ngài theo lối nhìn bên ngoài đầy thành kiến, chẳng thấy được những điều sâu lắng bên trong, những cái tinh thần cao thượng, những mầu nhiệm thiêng liêng chân thật. Chính những điều sâu xa bí ẩn mới làm ích rất lớn cho con người. Chính những chất màu mỡ nằm ẩn trong đất mới làm cho cây trái, hoa mầu trổ sinh tươi tốt, đâm chồi nẩy lộc, nuôi sống muôn người, muôn vật. Chính những kho tàng nằm sâu trong lòng đất, như mỏ dầu, mỏ vàng, mỏ bạc, đồng, sắt, kim cương, đá quý mới là nguồn tài nguyên phong phú giúp phát triển nền văn minh nhân loại. Chính những tài năng thượng đẳng, thiêng liêng trong con người như: tinh thần tự do, trí khôn sáng suốt, ý chí mạnh mẽ, tình cảm nhân từ mới có sức thăng tiến con người hơn chân tay, mắt mũi. Thế nhưng loài người vẫn thích thờ bò vàng óng ánh hơn thờ Thiên Chúa siêu việt.

Chuyện ngày xưa cũng như chuyện ngày nay. Rất nhiều khi chúng ta phán đoán giá trị lời nói của một người dựa trên bằng cấp, sự giàu có, uy tín của họ nhiều hơn là dựa vào sự hợp lý, tính chính xác của câu nói ấy. Hễ ai có chức có quyền, có địa vị, có của cải, có học vấn mà nói thì ta cho rằng họ nói đúng. Còn ai nghèo nàn, rách rưới, thấp cổ bé miệng, ít học mà nói thì ta cho rằng họ nói sai hoặc chẳng có giá trị gì. Chính vì tâm lý sai lạc này mà các ngôn sứ giả thường được người đời ưu đãi, còn ngôn sứ thật thì thường bị bạc đãi (x. Lc 6,23.26). Lối hành xử như vậy là coi trọng của cải, tiền bạc, chức quyền, địa vị chứ không phải là người coi trọng chân lý, công lý và tình thương. Thực ra, một điều sai trái, dù kẻ nói ra có quyền thế, học vấn hay giàu sang tới đâu thì cũng vẫn là sai trái. Còn một điều đúng, thì dù người nói ra một đứa trẻ, một người nghèo thì cũng vẫn là đúng. Lời nói sai đâu thể biến thành đúng, hay lời nói đúng đâu thể biến thành sai vì thế giá hay trình độ học vấn của người nói ra câu nói đó.

Đức Giêsu buồn phiền nhưng không cay cú, thất vọng chứ không tức giận. Ngài quyết định đem ánh sáng và quà tặng thần linh đi đến nơi khác.Những người ở làng quê Nagiarét đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế. Con Thiên Chúa làm một thường dân đến sống giữa họ mà họ không biết. Họ chỉ biết đó là con ông thợ mộc Giuse. Họ chỉ biết gia đình Ngài rất nghèo, chẳng có danh giá gì trong làng. Họ coi thường Ngài. Họ không tin Ngài. Họ hất hủi Ngài. Họ đã để lỡ cơ hội nghìn năm một thuở. Đức Giêsu không làm một phép lạ nào ở đó. Ngài bỏ Nadarét đi đến các làng chung quanh. Và Ngài sẽ chẳng bao giờ trở lại Nadarét nữa. Một cơ hội vàng đã không được đón nhận nên dân làng Nagiarét đánh mất hồng ân vô giá.

Hằng ngày chúng ta cũng đã bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội như thế. Ta đã bỏ lỡ không tiếp đón Chúa đến thăm khi ta bịt mắt không nhìn thấy những cảnh khổ chung quanh; khi ta bưng tai không nghe những tiếng kêu than khóc lóc; khi ta làm ngơ trước những cảnh ngộ nghiệt ngã, khi ta ngoảnh mặt quay lưng trước những nạn nhân của thiên tai hoạn nạn. Nhất là ta bỏ lỡ không nghe thấy tiếng Chúa cảnh báo để ăn năn sám hối. Chúa đã nhắc nhở ta nhiều lần nhiều cách: qua các vị bề trên; qua các tai nạn; qua lời khuyên của những người thân; qua lời phê phán của những người thù ghét ta… Hôm nay, Chúa còn tiếp tục nhắc nhở. Nếu ta không nghe, biết đâu hôm nay sẽ là lần cuối cùng. Chúa sẽ không bao giờ nhắc nhở nữa. Chúa sẽ bỏ ta mà đi như đã bỏ làng Nagiarét và không bao giờ trở lại. Như thế thì thật nguy hiểm cho linh hồn ta. Để nhận biết Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một đức tin mạnh mẽ. Ánh mắt đức tin giống như ngọn đèn soi chiếu vào đêm đen giúp ta nhận ra Chúa trong anh em, trong những biến cố Chúa gửi đến (ĐTGM. G. Ngô Quang Kiệt).

Đức Thánh Cha Phanxicô chia sẻ: “Tôi đã suy nghĩ và tự phản tỉnh nhiều về những điều này khi cầu nguyện. Tôi nhận thấy mình được mời gọi và chắc chắn mọi người cũng được mời gọi phải nhận ra những gì là ghen ghét, đố kỵ trong tâm hồn hình, vì chúng luôn dẫn tới đau khổ và chết chóc, không làm cho người ta vui mừng, hạnh phúc được. Người có lòng ghen ghét, đố kỵ luôn nghĩ rằng những điều tốt lành mà người khác có chống lại họ. Và đó là khởi đầu của bao nhiêu tội lỗi, gian ác khác. Chúng ta hãy nài xin Thiên Chúa giúp chúng ta đừng bao giờ mở con tim mình ra cho những ghen ghét, đố kỵ đi vào, vì chúng chỉ dẫn tới đau khổ và chết chóc mà thôi”. (Đức Thánh Cha Phanxicô đã cử hành thánh lễ tại nguyện đường thánh Marta, sáng thứ năm, ngày 21.01.2016, lễ kính thánh Anê, trinh nữ tử đạo. Trong bài giảng, Đức Thánh Cha đã giảng về sự ghen ghét và đố kỵ. Người ta có thể dùng lời nói mà giết hại lẫn nhau. Nhưng Thiên Chúa sẽ bảo vệ chúng ta khỏi những tội lỗi xấu xa này).

Cuộc sống sẽ hạnh phúc biết bao khi người ta biết tôn trọng, cảm thông, tha thứ và nâng đỡ nhau. Thay cho lời kết án, ghen tỵ là lời chúc mừng khuyến khích. Thay cho những cái nhìn thiển cẩn hẹp hòi là những cái nhìn nhân ái bao dung. Cuộc sống thật đẹp khi người ta biết nhìn cái tốt nơi nhau, để khen ngợi, để khuyến khích nhau, thay vì nhìn điểm yếu của nhau để kết án, xem thường nhau.

Xin Chúa cho chúng con có một trái tim luôn rộng mở để yêu thương mọi người. Amen. Mục lục

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

ĐÓN NHẬN HAY KHƯỚC TỪ?

Nếu như Tin Mừng Chúa nhật III Thường niên trình thuật Đức Giê-su thực hiện lời ngôn sứ Isaia đã loan báo về mình, thì bước vào Chúa nhật IV, Người tiếp tục thi hành sứ vụ Thiên sai công khai loan báo Tin Mừng. Danh tiếng Chúa lan truyền khắp nơi: Người chữa lành những người bị quỉ ám, làm cho người mù được sáng mắt, người què đi được, người điếc nghe được, người câm nói được, nhìn chung là mọi người đều vui mừng, sung sướng và thán phục Đấng Thiên Sai.

Bài Tin Mừng hôm nay nối tiếp đoạn trích tuần trước. Cùng trình thuật về chủ đề “Đức Giê-su về thăm Na-da-ret”, 2 tác giả Mat-thêu và Mac-cô chỉ miêu tả thái độ ngạc nhiên của những người đồng hương với Đức Giê-su khiến họ “vấp ngã vì Người”. Sau đó là Lời nói chua chát của Đức Giê-su: "Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi" (Mt 13,57; Mc 6,4).

Riêng với thánh sử Lu-ca thì có thêm đoạn: “Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe." Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người. Họ bảo nhau: "Ông này không phải là con ông Giu-se đó sao?" Người nói với họ: "Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na-um, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!" (Lc 4,21-23). Nếu chỉ thấy “Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người” thì đâu đến nỗi Đức Giê-su phải nói với họ như vậy.

Thực ra, Đức Giê-su đã quá hiểu cái kiểu tán thành và thán phục bằng “đầu môi chót lưỡi”, nhưng trong lòng thì lại nghĩ khác của những người đồng hương. Họ cho rằng “Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế? Ông không phải là con bác thợ mộc sao? Mẹ của ông không phải là bà Ma-ri-a; anh em của ông không phải là các ông Gia-cô-bê, Giô-xếp, Si-môn và Giu-đa sao? Và chị em của ông không phải đều là bà con lối xóm với chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông ta được như thế?” (Mt 13,53-56). Vì thế, Đức Ki-tô vạch trần ý nghĩ đen tối đó. Cái kiểu tán thành và thán phục của những người đồng hương thật chẳng khác gì cảnh “Bề ngoài thơn thớt nói cười, Mà trong nham hiểm giết người không đao” (“Kiều” – Nguyễn Du). Ngoài miệng thì khen ngợi tâng bốc, nhưng trong lòng thì chỉ muốn nốc-ao (knock out). Ôi chao là nhân tình thế thái!

Nói về thái độ xem thường người đồng hương, Việt Nam cũng đã có những kinh nghiệm được đúc kết thành châm ngôn, tục ngữ: “Bụt chùa nhà không thiêng”, “Gần chùa gọi Bụt bằng anh”. Hoá cho nên "Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. Người lấy làm lạ vì họ không tin." (Mc 6, 5-6). Với những người dân làng bình thường không tin vào Đức Ki-tô thì còn có thể hiểu được, nhưng đến cả những người bệnh được chữa khỏi mà cũng không tin thì quả thật hết biết! Và vì thế mới khiến cho một vị Thiên sai là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, phải "lấy làm lạ" và cuối cùng thốt lên câu nói chua chát như vậy (Mc 6, 4). Thế đấy!

Cũng vì biết quá rõ tâm địa của họ, nên Đức Giê-su nói thẳng: “Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình” (Lc 4,24). Người còn chứng mình bằng cách nêu ra hình ảnh 2 vị ngôn sứ nổi tiếng thời Cựu Ước, đó là ngôn sứ Ê-li-a và Ê-li-sa (Lc 4,25-27). Quả thật, ngôn sứ bị rẻ rúng nơi quê hương mình như lời nhận xét của Đức Giê-su đã xảy ra từ thời Cựu Ước, đó là trường hợp ngôn sứ Ê-dê-ki-en. Vị ngôn sứ này đã tự thuật: “Người phán với tôi: “Hỡi con người, chính Ta sai ngươi đến với con cái It-ra-en, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại Ta; chúng cũng như cha ông đã nổi lên chống lại Ta mãi cho đến ngày nay. Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá, chính Ta sai ngươi đến với chúng: “Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này”. Còn chúng, vốn là nòi phản loạn, chúng có thể nghe hoặc không nghe, nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng” (Ed 2,2-5).

Và sự tiên đoán của Đức Giê-su đã xảy ra. Đám người đồng hương của Đức Ki-tô vừa mới thơn thớt lỗ miệng “tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người”, giờ đây khi nghe Người vạch trần cái “lòng chai dạ đá” của họ ra, thì ngay lập tức “Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành - thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi” (Lc 4,28-30). Đúng là trò “Lật mặt như trở bàn tay”. Thật không ngờ lời ngôn sứ Ê-dê-ki-en sau bao thế kỷ cũng lại ứng nghịêm ở ngay dân được chọn (“dân nội” đàng hoàng!).

Như vậy thì rõ ràng không phải chỉ riêng dân làng Na-da-rét mới có cái nhìn sai lệch về Thiên Chúa thông qua những ngôn sứ được sai đến loan báo Tin Mừng; mà kể cả dân tộc Do Thái từ trước đó hàng mấy thế kỷ cũng nổi loạn chống lại Thiên Chúa vì cái thành kiến đè nặng trên lương tri họ ("Người phán với tôi: "Hỡi con người, chính Ta sai ngươi đến với con cái Ít-ra-en, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại Ta; chúng cũng như cha ông đã nổi lên chống lại Ta mãi cho đến ngày nay. Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá” – Ed 2,3-4). Ôi chao! Cứ tưởng đó chỉ là truyện cổ tích xảy ra cách đây hơn 20 thế kỷ, nào ngờ ở cái thời đại văn minh tiến bộ vượt bậc ngày nay vẫn còn không ít cảnh "Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá" sống nhởn nhơ trên khắp địa cầu.

Ôi! Lạy Chúa! Con biết rằng cái bản tính cố chấp hẹp hòi của con người đã định vị trong con một cách nhìn lệch lạc, không đúng đắn, thiếu khách quan về con người, sự vật hay sự kiện. Thành kiến ấy khiến con nhìn một công trình bằng gỗ thì chỉ chú ý đến nước sơn choáng lộn bên ngoài, mà không cần biết đến chất lượng gỗ bên trong; con đã quên mất rằng "tốt gỗ hơn tốt nước sơn". Hơn thế nữa, khi nhìn anh em, con chỉ chú ý đến vẻ đẹp tô son trét phấn, áo quần loè loẹt bên ngoài, mà quên mất rằng "cái nết đánh chết cái đẹp", quên mất rằng con người cũng chẳng khác một bông hoa "hữu xạ tự nhiên hương" (có mùi thơm thì tự nhiên có hương toả bay, còn nếu đã không có hương thơm thì cái sắc hoa bên ngoài cũng trở thành vô vị mà thôi). Cái thành kiến ấy đã khiến con gặp không ít trường hợp "tốt mã giẻ cùi", và chỉ đến lúc đó, con mới thấy sáng mắt, mới thấy "bừng con mắt dậy, thấy mình... vô duyên!”

Ôi! Lạy Chúa! Khi nhìn ra được những sai lầm, con rất muốn tẩy rửa tâm hồn cho sạch mọi vết nhơ của những thành kiến đã trở thành định kiến trong con, con rất muốn thay đổi được cách nhìn, cách suy nghĩ, nhận định thiển cận của con. Lạy Chúa, con lại cũng biết rằng con người của con thật mỏng giòn yếu đuối, nhưng lại rất bảo thủ, khó lòng mà "xoay cái nhìn ra khỏi cái tôi" cố hữu được. Vì thế, cúi xin Chúa ban Thần Khí khơi dậy lửa Mến trong lòng con, soi sáng và hướng dẫn con tẩy rửa con người mình trong Nước và Thánh Thần như Lời Chúa đã hứa năm xưa.

Ôi! “Lạy Chúa, xin cho tất cả chúng con biết hết lòng thờ phượng Chúa, và thành tâm yêu mến mọi người. Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen” (Lời nguyện nhập lễ Chúa nhật IV thường niên). Mục lục

JM. Lam Thy ĐVD.

CHÚA GIÊSU, VỊ THẦY THUỐC CAO TAY ĐẦY LÒNG NHÂN ÁI

Nếu như Chúa nhật III Thường niên, Chúa Giêsu thực hiện lời ngôn sứ đã loan báo về mình, thì bước vào Chúa nhật IV, Chúa Giêsu tiếp tục thi hành sứ vụ Thiên sai, Danh tiếng Chúa lan truyền khắp nơi, Chúa chữa lành những người bị quỉ ám, làm cho người mù được sáng mắt, người què đi được, người điếc nghe được, người câm nói được, nhìn chung là vui mừng và sung sướng; mọi người đều thán phục Người ; các thần ô uế phải vâng lệnh Người.

Nhưng hôm nay hoàn toàn ngược lại, vì sau một thời gian vắng mặt, Chúa Giêsu đã trở lại Nagiarét trong một tư cách hoàn toàn mới: Chúa Giêsu vào hội đường đọc một lời tiên tri của ngôn sứ Isaia và loan báo "Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe" (Lc 4,21), khiến cho người nghe hiểu rằng lời tiên tri ấy quy chiếu về Người. Ðiều này khơi dậy sự bất bình của dân làng Nagiarét: một đàng, "mọi người đều làm chứng cho Người và thán phục Người về những lời từ miệng Người thốt ra" (Lc 4,22). Nhưng đàng khác, các người đồng hương biết Người qúa rõ. Họ nói : "Ông ta là một người trong chúng ta. Yêu sách của ông chỉ có thể là sự tự phụ" (Ðức Giêsu thành Nagiarét, 11). "Người này không phải là con ông Giuse sao?" (Lc 4,22), như thể nói rằng: một bác thợ mộc làng Nagiaret có thể có khát vọng gì đây?

Sự biết của họ gợi nhớ câu ngạn ngữ : "Hỡi thầy thuốc, hãy chữa lấy chính mình! Điều chúng tôi nghe xảy ra ở Capharnaum, ông hãy làm như vậy tại quê hương ông" (Lc 4,23). Liền sau đó, Chúa Giêsu đã thở dài và tuyên bố câu nói để đời: "Quả thật, Ta bảo các ngươi, không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình"(Lc 4,24). Tuyên bố của Chúa Giêsu vang lên trong hội đường như một sự khiêu khích. Người kể lại hai phép lạ mà các ngôn sứ Êlia và Êlisê đã làm cho những người không phải dân Do thái, để chứng minh rằng đôi khi ngoài dân Israel có nhiều kẻ tin mạnh hơn. Tới đây thì tất cả những người có mặt đều phản ứng : "Mọi người trong hội đường đều đầy căm phẫn, họ chỗi dậy và trục xuất Người ra khỏi thành. Họ dẫn Người lên triền núi, nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực thẳm. Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi" (Lc 4,28-30). Người ta phải tự hỏi: Tại sao Chúa Giêsu lại khơi dậy sự đổ bể ấy? Ban đầu dân chúng thán phục Người và có lẽ Người đã có thể có được một sự đồng ý nào đó của họ. Chúa Giêsu đã không đến để tìm sự đồng ý của loài người. Vị ngôn sứ thật không vâng lời ai khác ngoài Thiên Chúa, và phục vụ chân lý, sẵn sàng trả giá.

Về điểm này, thánh Augustinô (354-430), Giám mục thành Hippôn (Bắc Phi), tiến sĩ Hội Thánh đã chủ giải như sau: "Người rẽ qua giữa họ mà đi", nghĩa là Chúa Giêsu là một thầy thuốc cao tay đã đến giữa chúng ta. Người vẫn rẽ ngang qua cuộc đời của mỗi chúng ta để làm cho chúng ta được khỏe mạnh. Chúa Giêsu đã đến, và Người thấy hội chứng mù lòa trong lòng nhân loại, Người liền hứa ban sự sáng cho chúng ta được thấy, thật đúng là: "Những điều mắt chẳng hề thấy, tai không hề nghe, và đã không hề nảy lên nơi lòng một người phàm" (1 Cr 2,9).

Nếu Chúa Giêsu, một Vì Thiên Chúa, là Thầy thuốc đến để chữa bệnh thì Người chữa bệnh gì cho nhân loại? Người đã dùng phương thuốc nào?

Người đến để chữa nhiều thứ bệnh, trong đó có bệnh kiêu ngạo. Phương thuốc chữa trị cho căn bệnh kiêu ngạo là sự khiêm nhường của Đức Giêsu Kitô. Một vị thầy thuốc tôn trọng bệnh nhân khi chữa trị cho các bệnh nhân, với phương thuốc: Hãy học cùng Người vì Người là Thiên Chúa khiêm nhường trong lòng, như Người mời gọi ta. Thật vậy, Người biết rằng, phương thuốc để chữa lành bệnh bệnh kiêu ngạo của chúng ta là sự khiêm nhường. Người biết rõ căn nguyên của bệnh tật và bốc đúng liều lượng để chữa trị. Trong thực tế, người bệnh là chúng ta không thể chạy đến cùng thầy thuốc, vậy mà đích thân thầy thuốc đã đến nhà chúng ta, Người đến cứu chúng ta, vì Người biết điều chúng ta cần.

Thiên Chúa đã đến với con người trong sự khiêm nhường, để con người có thể noi gương bắt chước Thiên Chúa. Có người hỏi : Thiên Chúa vẫn ở trên cao, làm thế nào để ta có thể bắt chước Người được? Và nếu không bắt chước được Người, thì làm sao con người có thể được chữa lành? Người đến trong sự khiêm nhường, vì Người biết rõ tính tự nhiên của một thầy thuốc là phải túc trực thường xuyên bên người bệnh: thuốc có đắng, mới chữa được bệnh. Còn con người, con người tiếp tục nhạo báng Thiên Chúa, tay cầm chén, và nói: "Lạy Thiên Chúa của con, Người là ai?" Người được sinh ra, Người đã chịu khổ hình, chịu đội mạo gai, bị đóng đanh và chịu chết trên cây thập giá! Ôi, tâm hồn sầu khổ! Ta chứng kiến sự khiêm tốn của thầy thuốc, mà lại không thấy được căn bệnh ung thư kiêu ngạo tiềm ẩn trong ta, đó là lý do tại sao ta không thích sự khiêm nhường.

Thường thì kẻ mắc bệnh tâm thần mới đánh lại bác sĩ khi bác sĩ đang chữa trị bệnh tật cho mình. Trong trường hợp này, bác sĩ đầy tình thương không chỉ không tức giận chống lại người đánh, nhưng bác sĩ còn cố gắng để chữa bệnh cho người ốm. Bác sĩ của chúng ta là Chúa Giêsu Kitô, Người không sợ bị giết bởi bệnh nhân điên rồ: Người đã làm cho cái chết của mình trở nên thần dược chữa lành họ, Người đã chết và đã sống lại.

Như thế Đức Giêsu, Chúa chúng ta đã không cứu chúng ta bằng cách làm phép lạ, nhưng bằng việc loan báo Tin Mừng, từ bỏ và hy sinh mạng sống cho chúng ta. Chính lập trường của Chúa Giêsu củng cố niềm tin của chúng ta. Người chính là Đấng Mêsia đích thực của Thiên Chúa, một Đấng Mêsia không vận dụng quyền lực để thực hiện một cảnh ngoại mục cứu độ trần thế, nhưng đặt tại trung tâm sứ điệp về Thiên Chúa. Người đã chữa lành những bệnh hoạn tật nguyền của chúng ta bằng liều thuốc khiêm nhường, để khi chúng ta sống trong một hoàn cảnh khó khăn, cùng quẫn, chúng ta có thể khiêm nhường đặt trọn niềm tin nơi Ngài, bởi vì chính Người sẽ ban cho chúng ta ơn cứu độ vẹn toàn.

Lạy Mẹ Maria, xin giúp chúng con trung thành và tươi vui bước theo Chúa Giêsu trên con đường ấy. Amen. Mục lục

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

NGUYÊN NHÂN ĐỨC GIÊSU BỊ KHƯỚC TỪ TẠI QUÊ HƯƠNG

Ở đời người ta vẫn thường nói: “Bụt nhà không thiêng”, để nói lên thái độ khinh thường những gì là gần gũi. Nguyên nhân dẫn đến thái độ trên chính là do thói kiêu ngạo, tự mãn...

Thật vậy, kiêu ngạo là đầu mối sinh ra mọi giống tội.

Trong lịch sử cứu độ, chúng ta thấy rất nhiều thái độ kiêu ngạo đã từng xảy ra. Chẳng hạn như:

Lucifer đã muốn bằng Thiên Chúa; Adam và Eva đã chống lại lệnh truyền Người (x. St 3,1-20). Dân chúng muôn xây tháp Babel chọc trời... (x. St 11,1-9).

Tuy nhiên, những điều tưởng chừng như thay thế Thiên Chúa, thì lại là mối họa cho con người, bởi lẽ nó được khởi xướng từ Ma Quỷ, qua thái độ kiêu ngạo.

Vì thế, không lạ gì, khi con người kiêu ngạo với Thiên Chúa, thì đương nhiêu họ cũng khước từ anh chị em đồng loại và có nguy cơ giết chết đời sống tâm linh, đánh mất đức tin và không đón nhận được nguồn sống từ Thiên Chúa. Suốt ngày, họ chỉ quay quắt với chính mình, và không chừng đánh mất luôn chính bản thân!

Như vậy, sự kiêu ngạo là con đường không thể đến với Thiên Chúa, ngược lại, nó dẫn đưa kẻ tự mãn đến hố diệt vong.

Đây chính là khinh nghiệm từ tạo thiên lập địa và đến muôn đời sau cho tất cả mọi người Kitô hữu.

Vì kiêu ngạo nên họ không chấp nhận Đức Giêsu

Hôm nay, Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu bị đồng hương khước từ. Nguyên nhân cũng không là gì khác, đó chính là sự kiêu ngạo của người đồng hương.

Vì kiêu ngạo, nên trước mặt họ, Đức Giêsu chỉ là người bình thường nếu không muốn nói là tầm thường. Vì thế, mắt họ mờ đi và lương tâm trở nên trai cứng. Những dấu lạ điềm thiêng nơi Đức Giêsu đã không làm họ rung động và thay đổi đời sống, ngược lại, trước mặt họ: “Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao?”.

Tại sao vậy? Thưa sự kiêu ngạo đã là đó ngáng chỗ và lòng kiêu căng đã chiếm mất chỗ của Chúa trong cuộc đời của họ.

Trước thái độ trên, Đức Giêsu đã tuyên bố một câu mà muôn đời vẫn giữ nguyên giá trị: Đó là: “Tiên tri không bao giờ được tôn trọng trên chính quê hương mình”.

Qủa đúng như vậy, vì xét theo lẽ tự nhiên, một con người dù tài giỏi đến đâu, làm việc hiệu quả thế nào, và thành đạt trên nhiều lãnh vực hay nhiều nơi đi nữa, thì khi trở về gia đình, quê hương, họ luôn bị chính những người thân cận, làng xóm coi ở mức độ “thường thường bậc chung” vì lối suy nghĩ thiển cận, nên: “Gần chùa gọi bụt bằng anh”.

Điều này Đức Giêsu đã trải qua khi Ngài trở về quê hương của mình!

Chính vì sự coi thường này đã khiến cho ơn cứu độ của Thiên Chúa vuột mất khỏi họ, và suốt bao thiế kỷ, họ vẫn đang chờ đợi một Đấng Kitô khác chứ không phải Đức Giêsu, Đấng đã hiện diện giữa họ cách đây hơn 2.000 năm.

Thực trạng kiêu ngạo của con người hôm nay

Thực trạng ấy nơi những người đồng hương với Đức Giêsu khi xưa, hôm nay vẫn còn đây đó nơi chúng ta, vì: thói ích kỷ, kỳ thị, chấp nhất, định kiến, ác cảm, nên ta hay giam người anh chị em mình trong quá khứ và không bao giờ cho họ cơ hội để mở ra một tương lai tốt đẹp hơn, hòng làm lại cuộc đời hay ít ra là có cuộc sống tốt hơn...

Lý do họ không nhìn anh chị em mình dưới lăng kính màu hồng, mà toàn màu đen, bởi mắt họ đang đeo cặp kính râm của sự kiêu ngạo! Vì thế, lối suy nghĩ nông cạn, vu vơ và trống rỗng đã dẫn đến việc đánh giá, đối xử lệch lạc và thiếu công bằng cũng như bất nhân. Quả đúng là: “Yêu ai thì nói quá ưa – Ghét ai nói thiếu nói thừa như không”.

Những người nông nổi như vậy, họ đâu có hiểu được rằng: “Sông có khúc, người có lúc”.

Thật vậy, có người bị coi là không tốt, đồ bỏ, vứt đi ở chỗ này, nhưng họ lại được nhiều người coi trọng và kính nể ở một nơi khác... Còn có nhiều người được xem là nhẹ nhàng, tao nhã, lịch thiệp chốn quan trường, ngoài xã hội, nhưng khi về đến gia đình, họ lại là kẻ bất nhân, vô liêm sỉ với gia đình. Mở miệng ra là quát tháo, chửi bới nên “thượng thẳng tay, hạ thẳng chân” với người thân. Họ thuộc hạng “khôn nhà dại chợ”, hay “làm phúc nơi nao để cầu ao rách nát”; ... hay có những người ăn nói ngọt như đường mía lau, nhưng thực ra họ thuộc dạng: “Đội trên, đạp dưới” nên tâm địa bỉ ổi, xấu xa chẳng khác gì kẻ: “Miệng thì thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao”.

Sống sứ điệp Lời Chúa

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay vừa nhắc nhở, vừa mời gọi chúng ta ý thức sứ mạng tiên tri cũng như lối sống và cách thức loan báo Tin Mừng!

Trước tiên, sứ mạng tiên tri được trao ban cho chúng ta ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Sứ mạng ấy càng thôi thúc mãnh liệt khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Thêm Sức.

Vì thế, mỗi người phải có trách nhiệm loan báo Lời Chúa, thi hành sứ mạng ở mọi nơi, mọi lúc, dù: “Thuận tiện hay không thuận tiện”; được ủng hộ hay chống đối, được đón nhận hay bị khước từ... được tôn vinh hay giết chết... Mặt khác, không thể chọn lựa theo ý mình, mà phải nói điều Thiên Chúa muốn, luôn tập trung vào việc diễn tả Lời Chúa cách trung thành (x. 1 Cr 9,15-16); không được giả hình và bóp méo Lời Chúa (x. 2 Cr 11,10; 13,8).

Thứ đến, khi thi hành sứ vụ, cần nhớ nằm lòng câu nói của Đức Giêsu: “Không tiên tri nào được kính trọng nơi quê hương mình”.

Bởi vì làm tiên tri không phải là chuyện đơn giản, mà là: “Vô cùng phong nhiêu”, phúc tạp! Vì Lời Chúa một đàng là lời tình yêu, nhưng một đàng là lời cật vấn lương tâm, vạch trần tội ác, bất công, gian dối, hình thức... nên: “Nếu thế gian ghét các con, thì hãy nhớ rằng họ đã ghét Thầy trước … Đầy tớ không lớn hơn chủ mình. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, thì họ cũng sẽ bắt bớ các con” (Ga 15,18-20).

Thật vậy, sứ mạng tiên tri đòi chúng ta chấp nhận lội ngược dòng, không thể sống theo phong trào hay “hiệu ứng đám đông”. Đôi khi chấp nhận điên vì sứ vụ, khùng Tin Mừng, khi dám nói lên tiếng nói công lý, công bằng ngay tại những nơi nguy hiểm như: sòng bài, quán rượu, quán karaoke…, nơi những con người đang “quậy” tứ tung hay “điên cuồng” trong những cuộc chơi bất chính...

Khi lựa chọn như thế, sự lẻ loi, cô lập và chống đối hay phải thí mạng là lẽ đương nhiên.

Mong sao, sứ mạng và số phận tiên tri của Đức Giêsu trong thời của Ngài, cũng là của chúng ta trong thời đại hôm nay.

Ước gì vì: “Nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” là lựa chọn của mỗi người Kitô hữu, vì: “Tình yêu Đức Kitô thúc bách chúng ta” nên chúng ta “được Chúa kêu gọi để tỏa sáng như các vì sao  giữa lòng thế giới tối tăm này” (Pl 2,15).

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con tình yêu của Chúa, để chúng con yêu cả những người thù ghét mình. Xin ban sức mạnh của Chúa, để chúng con can đảm, vững bước trên con đường thi hành sứ vụ.

Xin cho chúng con mặc lấy lòng bao dung, nhân hậu của Chúa, để chúng con đón nhận anh chị em chúng con trong tình Chúa và tình người. Amen. Mục lục

Tu sĩ: Giuse – Vinh Sơn Ngọc Biển, S.S.P.

THÁCH THỨC

GIẢ HÌNH HỢM HĨNH QUÂN BIỆT PHÁI

XẢO QUYỆT MƯU MÔ LŨ QUỶ MA

Ác nhân luôn mưu mô những điều xấu xa, chỉ vì tư lợi chứ không vì công ích. Sự dã tâm là ác ý, có ý “chơi khăm” người nào đó, “bằng mặt mà không bằng lòng”, trước mặt nói ngọt sớt như mía lùi mà sau lưng bất ngờ đâm thọc. Loại người này được gọi là “khẩu phật, tâm xà”, miệng nam-mô mà bụng một bồ dao găm, ác như mãng xà độc hại, rất đáng quan ngại!

Kẻ dã tâm khôn ranh rất tinh vi, vị kỷ mà không vị tha, chỉ tìm cách thỏa mãn tư lợi, còn ai ra sao cũng mặc, như người ta thường nói: “Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”. Đó là dạng “nhiễm xạ” tinh thần – cũng nguy hiểm như nhiễm chất phóng xạ thật. Kiểu như nhóm biệt phái giả hình, xét nét người khác để bắt bẻ, đả phá chứ không xây dựng.

Thách Thức tương đương Thử Thách nếu đó là điều khó khăn, mức yêu cầu, sự trở ngại có thể khó nhận ra hoặc tiên liệu, những thứ đó thường vượt tầm khả năng giải quyết. Đó là cuộc trải nghiệm quý giá, là vốn sống, là ngọn lửa thử vàng của ý chí và tài thao lược. Để thấu hiểu và vượt qua thách thức, thậm chí biến thách thức thành cơ hội, điều cốt lõi là bản lĩnh cá nhân, nhưng tinh thần và trí tuệ của tập thể cũng hữu ích, có thể là lá chắn và thanh gươm giúp chúng ta chiến thắng hoặc thành công.

Thách Thức tương đương Thách Đố nếu đó là kiểu gây hấn, chống đối người khác. Kiểu này nguy hiểm vì “cái tôi” bắt đầu nổi dậy, đè bẹp sự khiêm nhường. Thường thì kẻ yếu thế lại muốn chứng tỏ mình mạnh, giống như kẻ kém võ lại thích khua múa, kẻ ít chữ lại hay nói văn chương, kẻ nghèo lại khoái phô trương,... Cứ tưởng Khôn mà hóa Khốn!

Kinh Thánh đã minh định: “Khôn ngoan đã được tác thành trước vạn vật, sự hiểu biết anh minh đã có tự muôn đời” (Hc 1:4). Ai cũng được Thiên Chúa ban cho sự khôn ngoan, với mức độ có thể khác nhau, nhưng sự khôn ngoan cũng vẫn cần được trau giồi, và quan trọng là cách sử dụng sự khôn ngoan sao cho hợp lý. Có Khôn rồi mà còn phải Khéo nữa.

Ý thức nghiêm túc, tác giả sách Huấn Ca đặt vấn đề: “Gốc rễ của khôn ngoan đã được mặc khải cho ai? Và những công trình kỳ diệu của khôn ngoan, ai nào biết rõ?” (Hc 1:6). Và sau đó liền có câu trả lời mạch lạc: “Sự viên mãn của khôn ngoan là KÍNH SỢ ĐỨC CHÚA. Khôn ngoan lấy hoa trái của mình làm cho họ say sưa, lấy bảo vật của mình chất đầy nhà cửa họ, đem sản phẩm của mình đổ đầy kho lẫm” (Hc 1:16-17). Kinh Thánh cũng đã xác định nguồn gốc của sự khôn ngoan: “Tất cả sự khôn ngoan đều phát xuất từ Đức Chúa, và khôn ngoan vẫn ở với Người đến muôn đời” (Hc 1:1).

Một danh nhân nào đó xác định: “Người khôn ngoan là người thấy cái gì cũng mới lạ”. Thấy mới lạ không là để tò mò, mà để khám phá và tìm hiểu thấu đáo. Đó là con người trong cuộc sống đời thường. Còn về tâm linh, người khôn ngoan là người biết kính sợ Thiên Chúa: “Lòng kính sợ Đức Chúa là tuyệt đỉnh của khôn ngoan, mang lại bình an và sức khoẻ dồi dào. Đức Chúa đã thấy và đã đếm khôn ngoan, Người đổ mưa am tường và hiểu biết của trí tuệ, nâng cao vinh dự của những kẻ gắn bó với khôn ngoan” (Hc 1:18-19). Sự khôn ngoan rất cần trong đời sống, nhưng còn càng cần hơn trong đời sống Kitô hữu.

Tuy nhiên, điều quan trọng là người khôn ngoan không cậy nhờ phàm nhân, mà chỉ cậy nhờ vào Chúa. Họ tâm niệm và chân thành thân thưa: “Con ẩn náu bên Ngài, lạy Chúa, xin đừng để con phải tủi nhục bao giờ” (Tv 71:1). Chắc chắn họ sẽ không phải hổ ngươi, vì được Chúa soi sáng và hướng dẫn. Ngay trong những khi gặp thử thách, họ vẫn trọn niềm tín nguyện: “Vì Ngài công chính, xin cứu vớt và giải thoát con, ghé tai nghe và thương cứu độ. Xin Ngài nên như núi đá cho con trú ẩn, như thành trì để cứu độ con, núi đá và thành trì bảo vệ con, chính là Ngài” (Tv 71:2-3). Đúng như Thánh Phaolô xác định: “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8:39).

Phàm nhân luôn bị tác động bởi thất tình (hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố,dục). Đôi khi cầu nguyện mà có vẻ như không thấy “động tĩnh” gì, thế nhưng họ vẫn tin tưởng và khôn ngoan, vẫn vững tâm kiên trì: “Lạy Thiên Chúa, xin giải thoát con khỏi bàn tay kẻ dữ, khỏi móng vuốt phường nham hiểm và bọn dã man. Vì lạy Chúa, chính Ngài là Đấng con trông đợi, lạy Đức Chúa, chính Ngài là Đấng con tin tưởng ngay từ độ thanh xuân” (Tv 71:4-5). Và họ xác tín từ những điều xem chừng rất tự nhiên: “Từ thuở sơ sinh, con nương tựa vào Ngài, Ngài đã kéo con ra khỏi lòng mẹ, con ca tụng Ngài chẳng khi ngơi” (Tv 71:6). Đó là niềm tín thác đích thực, chắc chắn Chúa vui lòng và sẽ không ngơ mãi, không nỡ để họ phải thất vọng.

Tin là chấp nhận hoặc từ chối. Làn ranh rất mong manh. Một niềm giữ vững đức tin, họ hiên ngang vui mừng thể hiện niềm tin đó: “Miệng con công bố Ngài chính trực, suốt ngày tường thuật ơn cứu độ Ngài ban, ơn của Ngài, nhiều khôn xiết kể! Con thuật lại bao chiến công của Chúa, nhắc nhở rằng: chỉ mình Ngài chính trực công minh. Từ độ thanh xuân, lạy Thiên Chúa, con đã được Ngài thương dạy dỗ. Tới giờ này, con vẫn truyền rao vĩ nghiệp của Ngài” (Tv 71:15-17). Người biết tín thác vào Chúa thì đúng là người khôn ngoan thực sự.

Hằng ngày, mọi nơi và mọi lúc, chúng ta có được gì cũng đều là hồng ân Chúa ban. Quả thật, nếu xét cho cùng, ngay những gì chúng ta đang sở hữu cũng không hoàn toàn thuộc quyền mình, vì chúng ta có thể mất chúng bất kỳ lúc nào – kể cả sự sống. Thánh Phaolô nói: “Trong các ân huệ của Thiên Chúa, anh em cứ tha thiết tìm những ơn cao trọng nhất. Nhưng đây tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn cả” (1 Cr 12:31). Con đường trổi vượt đó là con đường khôn ngoan luôn sáng rực ánh hồng ân huyền nhiệm.

Kinh Thánh đã xác định khôn ngoan là biết kính sợ Chúa, mà kính sợ Chúa thì phải biết yêu thương – tức là đức mến. Một hệ lụy lô-gích, tính liên đới kỳ diệu. Vừa như một cách định nghĩa và vừa là cách giải thích, Thánh Phaolô nói về đức mến: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Cr 13:4-7). Nghe có vẻ dài dòng, nhưng rõ ràng đến từng chi tiết. Đây là chương nói về đức mến rất tuyệt vời trong các thư của Thánh Phaolô. Quả thật, đức mến không đơn giản như chúng ta tưởng.

Như chúng ta đã biết, đức mến là một trong ba nhân đức đối thần (Tin, Cậy, Mến), cả ba đều quan trọng, nhưng đức mến quan trọng nhất, vì “đức mến không bao giờ mất được” (1 Cr 13:8a). Thật vậy ư? Chắc chắn đúng như vậy: “Ơn nói tiên tri ư? Cũng chỉ nhất thời. Nói các tiếng lạ chăng? Có ngày sẽ hết. Ơn hiểu biết ư? Rồi cũng chẳng còn. Vì chưng sự hiểu biết thì có ngần, ơn nói tiên tri cũng có hạn” (1 Cr 13:8b-9). Lạ thật! Cái gì cũng hữu hạn, nhưng lòng yêu thương lại vô hạn. Ác nhân không hề có lòng yêu thương, thế nên họ ích kỷ và luôn tìm cách ghen ghét, mưu hại người khác, tìm cách thách thức bất cứ ai.

Đề cập tầm quan trọng của đức mến, Thánh Phaolô lý giải: “Khi cái hoàn hảo tới thì cái có ngần, có hạn sẽ biến đi. Cũng như khi tôi còn là trẻ con, tôi nói năng như trẻ con, hiểu biết như trẻ con, suy nghĩ như trẻ con; nhưng khi tôi đã thành người lớn, thì tôi bỏ tất cả những gì là trẻ con” (1 Cr 13:10-11). Cách so sánh rất cụ thể, rõ ràng và dễ hiểu.

Thánh Phaolô nói cả ba nhân đức đối thần quan trọng, nhưng không phải vì vậy mà coi nhẹ các đức đối nhân – nghĩa là chúng cũng không kém phần quan trọng. Không ai tin cậy và yêu mến Thiên Chúa lại là người mưu mô, xảo quyệt, ác độc, nham hiểm, không biết thương xót đồng loại. Chỉ có loài quỷ đội lốt người mới như vậy.

Sống yêu thương là thể hiện đức tin, mà đức tin thì trừu tượng, nếu không khéo sẽ hóa thành ảo tưởng. Thánh Phaolô cho biết: “Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương, mai sau sẽ được mặt giáp mặt. Bây giờ tôi biết chỉ có ngần có hạn, mai sau tôi sẽ được biết hết, như Thiên Chúa biết tôi” (1 Cr 13:12). Và ngài tái xác định tầm quan trọng của đức mến: “Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (1 Cr 13:13).

Thách thức liên quan kiêu căng. Trình thuật Lc 4:21-30 đề cập sự thách thức của người Do Thái đối với Chúa Giêsu. Một lần tại Hội đường, khi mở Sách Thánh gặp câu nói về Thần Khí, Chúa Giêsu nói với cử tọa: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”. Nghe vậy, mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ môi miệng Ngài. Quả thật, Chúa Giêsu đúng là một “nhân vật đặc biệt nhất”, một “dị nhân” chính hiệu, khiến ai cũng phải tâm phục và khẩu phục. Thế nhưng vẫn có những kẻ ác ý xấu xa muốn hại Ngài. Bản chất khó dời!

Chúa Giêsu biết bụng dạ xấu xa của họ nên Ngài nói với họ: “Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na-um, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!”. Người ta có dã tâm không phải vì Chúa Giêsu làm gì sai trái, mà vì tính đố kỵ, thói ghen ghét, không muốn người khác hơn mình, sợ mình lép vế, quen thách thức và ưa thọc gậy bánh xe. Nhưng Ngài vẫn thản nhiên nói tiếp: “Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”. Thế kỷ XXI rồi mà câu nói này vẫn đúng, bởi vì người ta khó có thể chấp nhận tài năng của những người cùng quê hương với mình!

Họ im lặng, không đối đáp được câu nào. Đuối lý, cụt hứng, hết cãi. Mà còn nói gì được nữa chứ? Chúa Giêsu liền nói thẳng một hơi: “Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: vào thời ông Êlia, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước Ít-ra-en; thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Xa-rép-ta miền Xi-đôn. Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Êlisa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Ít-ra-en, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Na-a-man, người xứ Xy-ri thôi”. Quá rõ, thật thấm thía và đau điếng, trúng tim đen quá mà! Chẳng ai dám lý luận chi nữa!

Quái gở! Lũ ác nhân lật mặt như trở bàn tay, mới khen nức lòng mà lại chống đối ngay, bằng chứng là lời kể của Thánh Luca: “Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Ngài ra khỏi thành – thành này được xây trên núi. Họ kéo Ngài lên tận đỉnh núi để xô Ngài xuống vực” (Lc 4:28-29). Đúng là quá đểu – đểu thật chứ không đểu giả!

Tuy nhiên, chính những con người đểu cáng đó, dã tâm và nham hiểm, cũng chẳng làm gì được người ngay lành, chính trực. Thật vậy, Chúa Giêsu thấy họ phẫn nộ mà Ngài vẫn thản nhiên “băng qua giữa họ mà đi” (Lc 4:30). Chắc hẳn lúc đó lũ “quỷ sống” ấy muốn lộn ruột gan và phát điên lên được. Ngày nay, những người mưu mô nham hiểm với người khác cũng vậy thôi. Loại ác nhân như vậy ở đâu cũng có, chẳng trừ nơi nào, y như ma quỷ có mặt mọi nơi để rình rập người tốt vậy. Chúng ẩn náu và hóa trang rất tinh vi bằng các loại trang phục nhân nghĩa hào nhoáng rất bắt mắt: “Lạ gì đâu! Vì chính Satan cũng đội lốt thiên thần sáng láng!” (2 Cr 11:14).

Có nhiều mối phúc, một trong các mối phúc đó liên quan cách sống khôn ngoan và hướng thiện: “Phúc thay người chẳng nghe theo lời bọn ác nhân, chẳng bước vào đường quân tội lỗi, không nhập bọn với phường ngạo mạn kiêu căng, nhưng vui thú với lề luật Chúa, nhẩm đi nhẩm lại suốt đêm ngày” (Tv 1:1-2).

Lạy Thiên Chúa nhân lành chính trực, xin giúp con biết ghê tởm chính mình, nhưng biết cảm thông và yêu thương mọi người, nhất là những người hèn mọn, vô danh tiểu tốt, cô thân cô thế. Xin hoán cải và biến đổi con theo Thánh Ý Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ của nhân loại. Amen. Mục lục

TRẦM THIÊN THU

ƠN CỨU ĐỘ CỦA CHUNG

(Suy niệm từ Lc 4.21-30)

Ơn Cứu Độ, của chung nhân thế.

Chúa Ngôi Hai nhập thể cứu đời.

Ngài luôn lên tiếng kêu mời,

Ai người thiện chí nghe lời giảng khuyên.

Tin Mừng Chúa rao truyền Phúc Thật:

Sống trần gian chớ mất niềm tin,

Muốn tìm đến cõi bình yên,

Cậy trông quyền phép linh thiêng Chúa Trời.

Chúa Cứu Thế muôn đời thương xót,

Mong thế nhân nên một đoàn chiên,

Canh tân, sám hối thường xuyên

Chờ  ngày Chúa gọi, Cha Hiền thưởng công…

Là tín hữu, ta đừng tự mãn,

Chớ nghĩ mình hơn bạn chưa tin.

Một mai lãnh nhận đức tin,

Họ vào Nước Chúa nhãn tiền trước ta.

(Thế Kiên Dominic)

Với mục đích để Lời Chúa được loan truyền và thông tin Giáo hội được lan tỏa, Legio Mariæ sẵn lòng để các tổ chức và cá nhân sử dụng lại tin bài đã đăng trên báo giấy và báo mạng legiomariævn.com của mình.

Tuy nhiên, vì đức công bằng và sự bác ái, xin quý vị vui lòng ghi đầy đủ nguồn như sau: “Theo Đạo Binh Đức Mẹ, website: legiomariævn.com”.

Ngoài ra, nếu chia sẻ bài lên mạng xã hội (Facebook, Twitter…), đề nghị dùng đường dẫn gốc trên website của Đạo Binh Đức Mẹ.

Tin liên quan