Suy niệm LỄ ĐỨC MARIA MẸ THIÊN CHÚA_2020

28-12-2019 1,945 lượt xem

[Ds 6,22-27; Gl 4,4-7; Lc 2,16-21]

Suy niệm LỄ ĐỨC MARIA MẸ THIÊN CHÚA

Mục Lục

THIÊN CHÚA CHỌN CHÚNG TA VÌ THỰC SỰ VÌ CHÚNG TA NHỎ BÉ - + ĐTC Phanxicô

LẮNG NGHE VÀ SUY NGHĨ - + ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm

HỒNG ÂN CAO VỜI - Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

ĐỨC MARIA LÀ MẸ THIÊN CHÚA - Bs. Nguyễn Tiến Cảnh, MD

MARIA MẸ CHÚA TRỜI - Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

ĐẤNG MẪU NGHI THIÊN HẠ TUYỆT HẢO - JM. Lam Thy ĐVD

NỮ VƯƠNG BAN SỰ BÌNH AN - Tu sĩ Jos. Vinct. Ngọc Biển

HẠNH PHÚC ĐỜI CON - Trầm Thiên Thu

KHỞI ĐẦU MỚI - Viễn Dzu Tử

HÒA BÌNH và CHIẾN TRANH - Trầm Thiên Thu

MẸ THIÊN CHÚA - Giuse Ngô Xuân Thủy

THIÊN CHÚA CHỌN CHÚNG TA VÌ THỰC SỰ VÌ CHÚNG TA NHỎ BÉ

BÀI GIẢNG CỦA ĐTC PHANXICÔ TRONG BUỔI KINH CHIỀU ĐẦU TIÊN  NGÀY LỄ ĐỨC MẸ LÀ MẸ THIÊN CHÚA và KINH ‘TE DEUM’ TẠ ƠN CHÚA ĐÃ BAN CHO NĂM CŨ.

Thiên Chúa không chọn chúng ta vì chúng ta ‘tài giỏi oai phong’, mà thật ra vì chúng ta bé nhỏ và cảm thấy mình nhỏ bé.’

Ngày 31 tháng 12 năm 2019- 18:25  Jim Fair, Rome

Thiên Chúa thay đổi thế giới qua một người sinh ra trong nghèo khó tại một thị trấn cũng chẳng có gì đặc biệt và do một người đàn bà độc thân có niềm tin.

Đó là điều mà ĐTC Phan Sinh nhắc lại cho chúng ta trong bài giảng của ngài ngày 31-12-2019 tại Vương Cung Thánh Đường ở Vatican khi ngài chủ tọa buổi kinh chiều đầu tiên ngày lễ Đức Mẹ rất thánh là Mẹ Thiên Chúa; sau đó là Chầu Mình Thánh, hát kinh “Te Deum” theo truyền thống vào cuối năm và phép lành Mình Thánh Chúa.

“Chúng ta đừng có sợ hay cảm thấy mình không xứng hợp với nhiệm vụ quan trọng -ĐTC nói. “Hãy nhớ rằng: Thiên Chúa không chọn chúng ta vì chúng ta “tài giỏi oai phong”,  mà vì chúng ta nhỏ bé và cảm thấy mình bé nhỏ.

“Quyết định của Thiên Chúa thì rõ ràng: Để biểu lộ tình yêu của mình, Thiên Chúa đã chọn một thị trấn nhỏ và nghèo nàn; và khi Chúa tới Jerusalem, Người đến với những kẻ tội lỗi và bị ruồng bỏ. Lúc đó dân trong thành chẳng một ai nhận ra đó là Con Thiên Chúa xuống thế làm người đang đi trên đường phố, có lẽ ngay cả các môn đệ của Người.”

ĐTC nhấn mạnh, Thiên Chúa ngự trị, không chỉ ở trong đền thờ mà ở giữa dân chúng. Ngài nhắc lại lời các tiên tri cảnh báo dân chúng đừng có nghĩ là Thiên Chúa chỉ ở một nơi đặc biệt.

“Thiên Chúa ở giữa dân của Người. Người đi với họ và sống với họ. Sự trung thành của Người thì cụ thể; nó kề sát cạnh cuộc sống hàng ngày của con cái Người. Trái lại, khi Thiên Chúa muốn làm những điều mới lạ qua Con của Người, Người không bắt đầu từ trong đền thờ mà từ bụng một người đàn bà nhỏ bé và nghèo nàn của dân Người. Chọn lựa này của Thiên Chúa thì  thật kỳ diệu!”

******

Dưới đây là bản chuyển ngữ bài giảng của ĐTC PHAN SINH trong buổi Kinh Chiều:

“Khi giờ đã đến thì Thiên Chúa sai con của Người xuống” (Gl 4:4). Người Con được gửi đến do người Cha đã dựng lều của mình ở Bethlehem của Ephrathah là “một nhân vật nhỏ bé thuộc chi họ Judah” (Mk 5:2). Người sống ở Nazareth là tỉnh -nếu không muốn nói- cà Kinh Thánh cũng không nhắc tới: “Có cái gì hay đẹp ở Nazareth đâu?” (Ga 1:46), và khi Người chết, thì cả thị trấn to lớn Jerusalem đều ruồng bỏ, đóng đanh trên thập giá ở ngoài thành. Quyết định của Thiên Chúa thì rõ ràng: Để biểu lộ tình yêu của mình, Người đã chọn một thị trấn nhỏ và nghèo nàn. Khi Người vào Jerusalem, Người đi gặp những kẻ tội lỗi và bị ruồng bỏ. Lúc đó dân trong thành chẳng một ai nhận ra đó là Con Thiên Chúa xuống thế làm người đang đi trên đường phố, có lẽ ngay cả các môn đệ của Người là những người có thể -chỉ đến khi Chúa phục sinh- mới hiểu được trọn vẹn sự huyền diệu của Người nơi Đức Giesu. Những lời và những dấu chỉ cứu độ mà Người làm trong thị trấn làm mọi người rất bỡ ngỡ ngạc nhiên và thán phục, nhưng họ vẫn không nhận biết được đầy đủ và trọn vẹn ý nghĩa của việc Chúa làm. Từ đó, và chẳng có lúc nào họ nhớ lại khi tổng trấn La Mã hỏi: Các ngươi muốn ta tha Giesu hay Baraba?” Chúa Giesu đã bị đóng đanh bên ngoài thị trấn, trên đỉnh đồi Golgotha, bị tất cả dân thành kết án và chế nhạo. Nhưng, từ đó, từ thập giá đó, một cuộc sống mới, tất cả mọi quyền lực của Thiên Chúa qui tụ về Người. Và cũng Mẹ Thiên Chúa, đấng sầu bị / Addolorata đứng dưới chân Thánh Giá, lan truyền tình mẹ cho tất cả mọi người. Mẹ Thiên Chúa là Mẹ Giáo Hội và Mẹ dịu hiền đến với tất cả mọi người.

Thiên Chúa đã dựng lều của Chúa ở trong thị trấn….và Người không bao giờ đi khỏi đó! Người ở trong thị trấn đó và cả trong thị trấn Roma này của chúng ta. Không phải nó “được tạo dựng mà là được khám phá và được thể hiện ra” cho muôn người (Tông huấn Evangelii Gaudium, 71). Chúng ta phải xin Thiên Chúa ban ân sủng để những con mắt mới của chúng ta có thể “chiêm ngưỡng, đúng ra là có một cái nhìn đầy tin tưởng để khám phá ra Thiên Chúa hiện diện trong nhà chúng ta, trên những đường phố chúng ta đi và công trường nơi chúng ta vui chơi” (Ibid,71). Trong Kinh Thánh, các tiên tri cảnh báo chúng ta phải coi chừng kẻo bị cám dỗ, coi sự hiện diện của Thiên Chúa chỉ là cái đền thờ (Gr 7:4). Thiên Chúa hiện diện ở giữa dân Người. Người đi với họ và sống với họ. Sự trung thành của Chúa rất cụ thể; nó sát kề cạnh với cuộc sống hàng ngày của con cái Người. Trái lại, khi Thiên Chúa muốn làm những điều mới lạ qua Con của Người, Người  không bắt đầu từ đền thờ nhưng từ bụng một người đàn bà nhỏ bé và nghèo hèn của dân Người. Chọn lựa này của Thiên Chúa thật kỳ diệu!

Trong Thánh Vịnh 147 mà chúng ta vừa cầu nguyện mới đây, tác giả mời gọi Jerusalem vinh danh Thiên Chúa, vì “Người đưa lệnh của Người xuống trần gian. Lời Người ban ra lan truyền nhanh như ánh sáng” (c.15). Qua Thần Linh Chúa, đấng tuyên bố Lời Chúa trong tâm khảm mọi người, Thiên Chúa chúc phúc cho con cái Người và khuyến khích an ủi chúng làm việc cho hòa bình của thị trấn. Cha ước mong chúng ta nhìn mọi sự ở thị trấn Roma này chiều hôm nay với cái nhìn của Thiên Chúa. Chúa vui mừng nhìn thấy biết bao nhiêu điều thiện ích được thực hiện và hoàn thành mỗi ngày, biết bao nhiêu là cố gắng, biết bao nhiêu là đề tặng đã thực hiện để cổ súy tình huynh đệ và đoàn kết. Roma không phải chỉ là một thị trấn phức tạp với nhiều vấn đề, với bất bình đẳng, tham nhũng và căng thẳng xã hội. Roma là một thị trấn mà Thiên Chúa gửi Lời của Người tới, và qua Chúa Thánh Thần Người ngự trị trong lòng mọi dân thành, hướng dẫn họ tin, hy vọng –dù nhiều trở ngại- vẫn thích chiến đấu vì thiện ích của mọi người.

Cha nghĩ đến nhiều người can đảm, những người có niềm tin và những người không có niềm tin mà cha đã gặp trong nhiều năm. Họ là sức sống của Roma. Thực vậy, Thiên Chúa không bao giờ ngừng thay đổi lịch sử và bộ mặt của thị trấn của chúng ta qua những con người bé nhỏ và nghèo khó ở đây. Người đã chọn họ, linh hứng cho họ, khuyến khích họ hành động và đoàn kết với nhau. Người thúc đẩy họ hoàn thiện những hệ thống làm việc, tạo những dây liên kết đức hạnh, xây dựng những nhịp cầu, không phải bờ tường. Thực sự, qua hàng ngàn sông lạch nước chảy liên tục của Thần Linh Thiên Chúa, Lời Chúa đang làm cho thị trấn thành phì nhiêu từ chỗ khô cằn trở nên “mẹ của con trẻ đang vui đùa” (Tv 113:9).

Và Chúa đòi hỏi Giáo Hội Roma phải làm gì? Chúa ủy thác Lời Chúa cho chúng ta và thúc đẩy chúng ta xâm mình hành động, nhập cuộc trong mọi sinh hoạt, gây tình liên đới với dân chúng trong thành để “sứ điệp của Chúa được lan truyền nhanh chóng.”  Chúng ta cũng được kêu gọi phải đi gặp gỡ mọi người để nhận biết sự hiện diện của họ và lắng nghe tiếng than khóc cầu xin giúp đỡ của họ. Lắng nghe là sẵn sàng hành động Yêu! Dành thì giờ cho mọi người, đối thoại, công nhận -với cái nhìn suy tư  đầy thích thú- sự hiện diện và hành động của Thiên Chúa trong con người của họ, để làm chứng, bằng hành động hơn là lời nói, sức sống mới của Tin Mừng, mới thực sự là phục vụ tình yêu làm thay đổi thực tế. Hành động như vậy, một luồng khí mới sẽ lưu truyền trong thị trấn và cả trong Giáo Hội. Ước mong bắt đầu lại như vậy, để lướt thắng những lập luận đối kháng và rào cản, để cùng nhau hợp tác, xây đựng một thị trấn huynh đệ và công bằng hơn.

Chúng ta đừng có sợ hay cảm thấy mình không xứng hợp với một sứ mạng quan trọng như vậy. Hãy nhớ rằng Thiên Chúa không chọn chúng ta vì chúng ta “tài giỏi oai phong”, mà thực sự vì chúng ta nhỏ bé và cảm thấy mình bé nhỏ. Chúng ta cám tạ Thiên Chúa vì những hồng ân Chúa ban đã gìn giữ chúng ta trong năm nay, và chúng ta hướng lên Người với bài ca nguyện cầu.

Dec 31, 2019 18:25 Rome

+ ĐTC PHAN SINH

Chuyển ngữ; Bs Nguyễn Tiến Canh, MD

Theo Zenit bản Anh Ngữ của Virginia M. Forrester

https://zenit.org/articles/celebration-of-first-vespers-of-solemnity-of-mary-most-holy-mother-of-god-and-te-deum-of-thanksgiving-for-past-year/

LẮNG NGHE VÀ SUY NGHĨ

+ ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm

Nếu bạo lực hay hoà bình đều bắt nguồn từ bên trong, và vì thế, phải gieo vãi và vun trồng hạt giống hoà bình trong tâm hồn từ tấm bé, vậy còn nơi nào lý tưởng hơn môi trường gia đình…

1. Đã thành thông lệ, cứ vào ngày đầu năm dương lịch, Đức Giáo hoàng lại ban hành Sứ điệp Ngày Hoà bình Thế giới. Điều đặc biệt của Sứ điệp năm 2017: đây là dịp kỷ niệm 50 năm Hội Thánh Công giáo cử hành Ngày Hoà bình Thế giới, và Sứ điệp Hoà bình năm nay là Sứ điệp lần thứ 50.

Năm mươi năm trôi qua nhưng nội dung của Sứ điệp đầu tiên, năm 1967 của Chân phước Giáo hoàng Phaolô VI, vẫn còn nguyên tính thời sự: “Hoà bình là hướng đi duy nhất đích thực của sự phát triển con người – chứ không phải là những căng thẳng tạo ra do những thứ chủ nghĩa quốc gia đầy tham vọng, cũng như những cuộc chinh phục bằng bạo lực, hoặc những cuộc đàn áp nhân danh trật tự xã hội giả tạo” (Sứ điệp, số 1). Có lẽ được gợi hứng từ khẳng định căn bản này cũng như từ thực tế mà thế giới đang đối diện, chủ đề của Sứ điệp năm 2017 là: Bất bạo động, kiểu mẫu của nền chính trị phục vụ hoà bình.

2. Nói đến bất bạo động, người ta dễ nghĩ đến những khuôn mặt nổi bật như Mahatma Gandhi và Khan Abdul Ghaffar Khan trong công cuộc giải phóng Ấn Độ, hoặc mục sư Martin Luther King trong phong trào chống phân biệt và kỳ thị chủng tộc tại Hoa Kỳ. Đúng thế, nhưng đừng quên rằng chính Đức Giêsu Kitô mới là đấng khơi nguồn cho chủ trương bất bạo động: “Khi Người ngăn cản những kẻ tố cáo định ném đá người phụ nữ bị bắt vì phạm tội ngoại tình (x. Ga 8,1-11), và trong đêm Người bị bắt, khi Người ra lệnh cho Phêrô xỏ gươm vào bao (x. Mt 26,52), Chúa Giêsu đã mở ra con đường bất bạo động. Người đã bước đi trên con đường đó đến cùng, đến tận thập giá, ở đó Người trở thành sự bình an và chấm dứt mọi hận thù (x. Eph 2,14-16)” (Sứ điệp, số 3).

Chính vì thế, tất cả những ai mang danh Kitô hữu phải là người thực hành bất bạo động: “Ngày nay, để là những môn đệ đích thực của Chúa Giêsu, phải ôm ấp giáo huấn của Chúa về bất bạo động… Với các Kitô hữu, bất bạo động không chỉ là một ứng xử mang tính chiến thuật nhưng là một lối sống, là thái độ của một người xác tín vào tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa đến nỗi không sợ hãi đối diện với sự ác bằng vũ khí của tình yêu và chân lý mà thôi… Mệnh lệnh ‘Hãy yêu thương kẻ thù’ (x. Lc 6,27) phải được xem như hiến chương của bất bạo động Kitô giáo. Điều đó không có nghĩa là bị khuất phục trước cái ác nhưng là lấy sự lành đáp lại điều ác (x. Rm 12,17-21) và do đó, bẻ gẫy dây chuyền của bất công” (Sứ điệp, số 3).

Cũng vì thế, trong thời điểm hiện nay, khi đang có những cuộc khủng bố được dán nhãn tôn giáo, Đức Giáo hoàng Phanxicô có những khẳng định thật mạnh mẽ trước toàn thế giới: “Không có tôn giáo nào là khủng bố cả”; “Không thể lấy Danh Chúa để biện minh cho bạo lực. Chỉ có hoà bình là thánh thiện. Chỉ có hoà bình mới được gọi là thánh, không có chiến tranh nào là thánh cả!” (Diễn văn tại Assisi, ngày 20-10-2016)

3. Vì Chúa Giêsu là đấng khơi nguồn lối sống bất bạo động, nên để sống tinh thần bất bạo động cách đích thực, hãy lắng nghe giáo huấn và chiêm ngắm cách hành xử của Người. Theo Chúa Giêsu, bạo động hay hoà bình đều bắt nguồn từ trong lòng người: “Chính từ bên trong, từ lòng người, mà những ý định xấu xuất hiện” (Mc 7,21). Thế nên, phải bắt đầu xây dựng hoà bình từ bên trong. Phải gieo vãi và ươm trồng hạt giống hoà bình trong tâm hồn. Những phát minh và tiến bộ kỹ thuật, dù tinh vi đến đâu, cũng chỉ là phương tiện. Cội rễ chiến tranh hay hoà bình là ở trong lòng người: “Thật khó để biết rằng thế giới chúng ta hiện nay có nhiều hay ít bạo lực hơn quá khứ, hoặc những phương tiện truyền thông hiện đại và sự năng động ngày nay có làm cho chúng ta ý thức hơn về bạo lực không, hay ngược lại, còn làm gia tăng bạo lực” (Sứ điệp, số 2). Người ta vẫn nhắc đến câu châm ngôn “Muốn có hoà bình, hãy chuẩn bị chiến tranh”. Sẽ thật tuyệt vời nếu hiểu câu nói này từ góc nhìn nội tâm: hãy chiến đấu và chiến thắng những mầm mống tội lỗi trong tâm hồn, hoà bình sẽ xuất hiện trong mọi tương quan của đời sống xã hội.

Nếu bạo lực hay hoà bình đều bắt nguồn từ bên trong, và vì thế, phải gieo vãi và vun trồng hạt giống hoà bình trong tâm hồn từ tấm bé, vậy còn nơi nào lý tưởng hơn môi trường gia đình để làm công việc này? Vì gia đình là nơi vợ chồng, cha mẹ và con cái, anh chị em, học biết chia sẻ và quan tâm đến nhau. Gia đình là nơi những va chạm, kể cả xung đột, được giải quyết không phải bằng bạo lực nhưng bằng đối thoại, tôn trọng, thương xót và tha thứ (x. Sứ điệp, số 5). Một khi đã cảm nhận được tình yêu thương, mối quan tâm, lòng quảng đại và sự tha thứ trong bầu khí gia đình, người ta cũng sẽ bước vào đời với tâm hồn rộng mở, biết sẻ chia và nâng đỡ tha nhân hơn là chỉ hành động theo bản năng bạo lực.

Trong suốt ba năm 2017-2019, người Công giáo Việt Nam được mời gọi quan tâm đặc biệt đến đời sống gia đình. Ước gì mỗi gia đình Công giáo thực sự là cái nôi bình an và cống hiến cho đời những sứ giả hoà bình: “Trong gia đình, chúng ta không cần đến bom đạn để hủy hoại hay phục vụ hoà bình – chỉ cần ở với nhau, yêu thương nhau… Và chúng ta sẽ vượt qua mọi cái ác trong thế gian” (Mẹ Têrêxa Calcutta, Diễn văn nhận giải Nobel, 1979). mục lục

HỒNG ÂN CAO VỜI

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Ngày đầu năm mới và cũng là Ngày Quốc Tế Hòa Bình, Giáo Hội hân hoan cử hành lễ Đức Maria rất thánh, Mẹ Thiên Chúa. Cả hai sự kiện này cùng diễn ra khi Giáo Hội đang cử hành mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người, Ngài là Hoàng Tử Bình An, là hòa bình đích thực của nhân loại.

Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban chính Con của Ngài sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria. Đức Maria đã được nâng lên địa vị là Mẹ Thiên Chúa và Giáo Hội muốn đặt lễ hôm nay lên hàng đầu của năm tháng ngày giờ.

1. Tín điều Mẹ Thiên Chúa

Năm 431, có một cuộc tranh luận gay gắt đã diễn ra trong Giáo Hội Công Giáo, về tước hiệu đặc biệt của Đức Mẹ. Cuộc tranh luận đã đưa tới một công đồng chung, được tổ chức tại thành phố Êphêsô nhằm giải quyết vấn đề đặt ra.
Có hai lập trường hoàn toàn trái ngược nhau, một bên là giám mục Nestorius (Constantinople), bên kia là thánh Cyrilô (Alexanria).

Giám mục Netorius một mực cho rằng, Đức Maria nên được gọi là Christokos “người sinh ra Chúa Kitô”. Linh mục Dwight Longnecker giải thích rằng “Ngôn từ mà giám mục Netorious sử dụng, cho thấy, ông ta chủ trương rằng, Đức Giêsu Kitô có hai ngôi vị tách biệt. Vì thế, Đức Mẹ chỉ là người đã sinh ra Chúa Giê-su về mặt thể xác, nhân tính; và Mẹ nên được gọi là Christokos, tức là “Mẹ của Chúa Kitô” chứ không thể là “Mẹ Thiên Chúa”.

Đối lại với quan điểm trên, thánh Cyrilô và đa phần các giám mục đều cho rằng, Đức Maria phải được gọi là Theotokos, tức là “Mẹ Thiên Chúa”. Tín điều này khẳng định rằng Chúa Giêsu có “một ngôi vị duy nhất, gồm hai bản tính liên kết chặt chẽ với nhau (không hề tách rời nhau)”.

Đa số tuyệt đối đã đồng quan điểm rằng, Theotokos là tước hiệu xứng hạp với Đức Mẹ, và Nestorius đã bị truất phế chức giám mục Constantinople.

“Mẹ Thiên Chúa” không có nghĩa là Đức Maria hiện hữu trước Thiên Chúa hay Mẹ dựng nên Thiên Chúa, nhưng Mẹ là Đấng đã sinh ra Chúa Giêsu, Đấng vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật.

Trong mục nói về tín điều Ðức Maria, Mẹ Thiên Chúa, sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo có đoạn viết: “Quả thế, Ðấng mà Mẹ cưu mang làm người bởi Thánh Thần, Ðấng thực sự là Con Mẹ theo xác phàm, chính là Con hằng hữu của Chúa Cha, Ngôi Hai trong Ba Ngôi chí thánh. Vì vậy, Hội Thánh tuyên xưng Ðức Maria thực sự là 'Mẹ Thiên Chúa' (Theotokos)” (GLCG, số 495).

Truyền thống Kitô giáo Chính Thống và Byzantine ưa dùng tước hiệu này hơn bất cứ tước hiệu nào khác của Mẹ. Một bản thánh ca có từ lâu đời trong nghi thức phụng vụ của các truyền thống này, đã diễn tả một cách rất thơ văn, chân lý không đơn giản này như sau: “Đấng toàn thể vũ trụ không thể chứa đựng nổi lại được cưu mang trong cung lòng của Mẹ, ôi Mẹ là Mẹ Thiên Chúa!”

Việc Giáo hội Công Giáo quyết định tuyên xưng Mẹ là Theotokos (Mẹ Thiên Chúa), đã đánh dấu một bước ngoạt quan trọng trong dòng lịch sử Giáo hội. Tước hiệu này làm sáng tỏ hơn niềm tin của Giáo hội về Đức Giêsu Kitô, đồng thời cũng xác quyết mạnh mẽ hơn về bản chất của cuộc nhập thể của Đức Kitô. Tất cả những gì Giáo hội đã tin tưởng từ thời các thánh tông đồ, đã được long trọng xác quyết một cách chính thức trong Công đồng Êphêsô.

Hơn nữa, việc vinh danh Đức Mẹ với tước hiệu là Mẹ Thiên Chúa đã khẳng định vai trò ưu tuyển của Mẹ trong dòng lịch sử cứu độ, đồng thời cũng cho thấy rõ hơn mầu nhiệm cao cả đã diễn ra nơi cung lòng của Mẹ.

Để kỷ niệm thánh công đồng này, năm 1931, Đức Piô XI đã cho thiết lập lễ Mẹ Thiên Chúa vào ngày 11 tháng 10. Công đồng Vatican II đã chuyển lễ này sang ngày 01 Tháng Giêng và đổi tên thành lễ kính trọng thể Thánh Maria, Mẹ Thiên Chúa (Philip Kosloski; Sr Anna Nguyễn Tuyết, op chuyển ngữ từ: aleteia.org).

2. Tín Điều trong truyền thống Hội Thánh

a. Nền tảng Thánh Kinh.

Tín điều Mẹ Thiên Chúa được xây dựng trên nền tảng Thánh Kinh. Tiên tri Isaia loan báo: “một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh con trai và sẽ đặt tên con trẻ là Emmanuel” (Is 7,14). Đức Maria sinh ra Đấng Emmanuel, nên Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Lời tiên tri được thực hiện khi sứ thần Gabriel báo tin cho Mẹ Maria : "Bà sẽ thụ thai, sinh con trai và sẽ đặt tên con trẻ ấy là Giêsu... Vì thế Con Trẻ sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa." (Lc 1,31-35).

Thánh Phaolô viết: “Thiên Chúa đã sai con mình đến sinh bởi người nữ và sinh dưới chế độ luật” (Gal 4,14). Trong Tin mừng Gioan, Mẹ Maria được gọi là Mẹ Chúa Giêsu (2,1;19,26), và trong Tin mừng Luca, Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa đến thăm bà Elidabet (1,43).

Các Kitô hữu thời sơ khai được các Tông Đồ hướng dẫn, luôn có một niềm tin vững chắc vào thiên chức Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria. Điều này được chứng tỏ bằng những việc tôn kính phổ quát như Kinh Tin Kính của các Tông Đồ.

b. Truyền thống Hội Thánh

Tước hiệu Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, đã được các giáo phụ như Thánh Cyrilô, Athanasiô, Ignatiô Antiochia, tin yêu và truyền dạy.

Công Đồng Êphêsô năm 431 tuyên tín Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa.

Công Đồng Constantinople III (680-681) xác quyết rằng: Chúa Giêsu Kitô được sinh ra bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, và Đức Trinh Nữ Maria chính thức và thật sự là Mẹ Thiên Chúa theo nhân tính của Chúa Kitô.

Đức Giáo Hoàng Piô XI, đã ra thông điệp “Mediator Dei” mừng kỷ niệm 1.500 năm Công Đồng Êphêsô và công bố lễ Mẹ Thiên Chúa, mừng trong toàn thể Giáo Hội vào ngày 11 tháng 10.

Đức Piô XII, đã thiết lập Năm Thánh Mẫu vào năm 1954 và tuyên bố rằng chức Mẹ Thiên Chúa là nguồn gốc tất cả mọi ơn sủng và đặc sủng của Mẹ Maria.

Thánh Bônaventura đã nói: “Chức mẹ Thiên Chúa là một ơn vĩ đại phi thường nhất Thiên Chúa có thể ban cho loài thụ tạo. Ơn ấy Ngài đã ban cho Đức Maria”. Thánh Tôma tiến sĩ nói thêm : “Tước vị Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria cao trọng hầu như vô cùng, vì Thiên Chúa không thể cất nhắc ai lên bậc tốt lành và cao sang hơn nữa. Chức Mẹ Thiên Chúa hầu như đã tới biên giới vô cùng”.

Công Đồng Vatican II dành chương VIII trong Hiến Chế Lumen Gentium, nói về Mẹ Thiên Chúa. Và trong Hiến Chế về Phụng Vụ, các Nghị Phụ Công Đồng đã chuyển lễ Mẹ Thiên Chúa ngày 11 tháng 10 sang ngày 1 tháng 1 hằng năm.

Thánh Lễ thật phong phú với những lời cầu nguyện cùng Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Giáo Hội. Cả 4 kinh nguyện Thánh Thể đều nhắc tới Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa. Trong kinh nguyện Thánh Thể I, linh mục chủ tế đọc: Hiệp cùng Hội Thánh, chúng con kính nhớ Đức Maria vinh hiển trọn đời đồng trinh Mẹ Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Kinh nguyện Thánh Thể II, III và IV đọc : Cùng với Đức Trinh Nữ Maria Mẹ Thiên Chúa...

“Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con…” là lời kinh được đọc lên hàng triệu triệu lần mỗi ngày. Danh hiệu Mẹ Chúa Trời được đọc trong phụng vụ của Giáo Hội, trong kinh nguyện riêng tư tại gia đình, trên xe, trên giường bệnh... Càng hiểu biết và yêu mến mầu nhiệm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, chúng ta càng hiểu biết và yêu mến cách trọn vẹn hơn mầu nhiệm Chúa Cứu Thế, Người Con rất yêu dấu của Đức Mẹ.

3. Nữ Vương ban sự Bình An

Giáo Hội mừng lễ Mẹ Thiên Chúa vào ngày đầu năm Dương lịch,cũng là ngày cầu nguyện cho hòa bình thế giới như một nhắc nhớ việc chiêm ngưỡng Mẹ là một Tạo Vật mới tinh tuyền của Thiên Chúa, một Evà mới khởi đầu một thời đại mới, một tạo dựng mới. Kỷ nguyên cứu độ đã khởi sự qua việc Chúa Giêsu nhập thể trong cung lòng Đức Mẹ sau lời xin vâng. Mẹ được tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế để bắt đầu kỷ nguyên cứu độ. Nếu Evà cũ đã bất tuân để vùi lấp con người trong khổ đau và sự chết, thì Đức Mẹ với tâm tình xin vâng đã đưa Chúa Giêsu đến với nhân loại mang lại sự sống và tình yêu. Từ đây nhân loại sẽ bước đi trong ánh sáng cứu độ. Chúa Giêsu vị Vua Thái Bình, Hoàng Tử Bình An đã đi vào lòng thế giới, để thiết lập vương quốc Nước Trời qua Mẹ Maria.

Ðức Phaolô VI đã viết: “Vì sự trùng hợp tốt đẹp giữa ngày 01 tháng giêng với ngày thứ tám giáp lễ Giáng Sinh mà chúng tôi đã đặt ngày đó là ngày Thế Giới Hòa Bình, mà thế giới mỗi ngày càng hưởng ứng thêm, và thành quả của hòa bình đã phát sinh trong lòng nhiều người.” (Marialis Cultus, số 5).

Chúa Giêsu được xưng tụng là Hoàng Tử Hòa Bình, đến chuộc tội nhân loại, giao hòa con người với Chúa Cha. Mẹ Maria luôn gắn bó, hợp tác, hiệp công với Con của mình nên đã trở nên Nữ Vương Hòa Bình cho toàn thế giới. Mẹ đã đóng góp cả cuộc đời mình cùng với Chúa Giêsu mà giải phóng con người khỏi ách nô lệ tội lỗi.

Đức Mẹ khuyên mọi tín hữu siêng năng lần hạt và coi chuỗi kinh Mân Côi như là phương tiện hun đúc hòa bình. Ngày 13 tháng 10 năm 1917 tại Fatima, Đức Mẹ đã hiện ra để lại lời nhắn nhủ dưới hình thức của huấn lệnh là: cải thiện đời sống, siêng năng lần hạt, tôn sùng trái tim Mẹ. Đây chính là lộ trình nên Thánh bao gồm ba bước tiếp theo nhau và chuỗi Mân Côi được đặt như là một nhịp cầu giữa một bờ là tội lỗi nhân loại và bờ bên kia chính là ơn thánh hóa của Thiên Chúa. Cũng như việc lần hạt chuyên cần là một phương tiện hiệu quả giúp người ta đạt được hòa bình. Chính trong ý nghĩa này, kinh Mân Côi phải được gọi là Kinh của hòa bình. Ở đâu kinh Mân Côi được cổ võ thì ở đó cũng vang lên lời cầu nguyện tha thiết: “Nữ Vương ban sự bình an, cầu cho chúng con”.

Lễ Mẹ Thiên Chúa kết thúc tuần Bát Nhật Giáng Sinh làm tỏa sáng vẻ đẹp kỳ diệu của tình yêu cứu độ. Ngôi Hai đã vâng phục nhập thể cứu rỗi nhân loại. Với tiếng xin vâng, Đức Maria làm Mẹ Ngôi Lời nhập thể và làm Mẹ hết thảy những ai được tháp nhập vào thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô.

Ngày đầu Năm Mới, xin Mẹ ban bình an và cho chúng con thêm tuổi thêm khôn ngoan, thêm nhân đức, thêm ơn nghĩa trước mặt Thiên Chúa và mọi người. Amen. mục lục

ĐỨC MARIA LÀ MẸ THIÊN CHÚA

Bs. Nguyễn Tiến Cảnh, MD

Hôm nay là ngày đầu năm Dương Lịch, ngày Lễ Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Xuyên suốt giòng lịch sử của Giáo Hội, lễ này đã có nhiều danh hiệu khác nhau, mỗi danh hiệu đều nói lên những đặc tính riêng của nó.

LỄ ĐẦU NĂM  KITÔ GIÁO 

Trước tiên, lễ đầu năm Kitô giáo nằm trong tuần bát nhật của lễ Giáng Sinh, nghĩa là 8 ngày sau khi Chúa Giêsu sinh ra. Trước Công đồng Vatican II (1962-1965), lễ này gọi là lễ Cắt Bì hay lễ Đặt Tên. Sau Công đồng Vatican II, ngày 1-1 được đổi thành lễ Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, đồng thời chọn làm ngày Thế Giới Cầu Nguyện cho Hòa Bình.

LỄ CẮT BÌ hay LỄ ĐẶT TÊN  

Ý nghĩa của Ngày lễ Đầu Năm Kitô giáo có dựa trên Kinh Thánh không? Từ thượng cổ, trong Kinh Thánh và ngay cả thời nay, người ta tin rằng tên đặt cho một người không đơn thuần chỉ là một danh hiệu mà còn ám chỉ ý nghĩa của nó, như  nhân cách, cá tính, ước vọng, quyền lực và số mệnh v.v… của người mang cái tên ấy. Giêsu Nazareth sinh ra ở Bethlehem do cha mẹ là người Do Thái (Mt 1-2; Lc 1-2). Lúc thụ thai, thiên thần đã nói đặt tên cho con trẻ là Giêsu (Lc 2:21). Giêsu, tiếng Do Thái là Yeshua, sau này gọi là Yehoshua hay Joshua. Giêsu là tên rất thông dụng trong Tân Ước, có nghĩa là Chúa Cứu Thế (Mt1:21), là một trong những cách mà người Kitô hữu đặt tên và xác định con người của Chúa Giêsu.

Khi Chúa Giêsu sinh ra được 8 ngày thì phải chịu cắt bì. Đây là dấu chỉ sức chịu đựng đau khổ giao ước giữa Thiên Chúa và dân Do Thái (Lc 2:21-24). Từ Christos là tiếng Hy Lạp dịch qua tiếng Do Thái là mashiah nghĩa là “Đấng được xức dầu”. Vì danh hiệu này,  người Kitô hữu tuyên xưng niềm tin của mình: Chúa Giêsu là đấng thiên sai. Trong tân ước, ‘tên, con người và việc làm’ của Thiên Chúa liên hệ mật thiết với Chúa Giêsu Kitô không thể tách rời được. Người môn đệ thực sự của Chúa Giêsu phải cầu nguyện nhân danh Chúa Giêsu (Ga 14:13-14). Thánh Gioan nói (Ga 2:23) ‘tin vào danh Chúa Giêsu là tin Người là Đức Kitô, là Con Thiên Chúa’ (Ga 3:18). Danh Chúa Giêsuu chỉ có quyền lực ở nơi nào có niềm tin và đức vâng lời (Mc 9:38-39). Tin vào danh thánh Chúa Giêsu sẽ dẫn đưa đến viêc tuyên xưng Danh Người (Dt 13:15). Kêu cầu danh thánh này thì được ơn cứu chuộc.

ĐỨC MARIA LÀ MẸ THIÊN CHÚA 

Nhân vật thứ hai được mừng và tôn vinh trong ngày lễ đầu năm là Mẹ Chúa Giêsu. Đây là một nữ đồng trinh Do Thái đã nhận lãnh trọn vẹn trách nhiệm về lời nói “Xin Vâng” khi thiên thần Chúa đến báo tin Mẹ sẽ sinh con trai. Qua đáp ứng đó, Mẹ đã phá vỡ ranh giới văn hóa và tôn giáo của thời đại Mẹ, chứng tỏ Mẹ có một niềm tin sắt đá và can đảm vô cùng, dù Mẹ không biết kết thúc câu chuyện sẽ ra sao. Mẹ đã mang Trời tức Thiên Đàng  xuống trái đất.

Từ Maria là tiếng Do Thái “Mariam”, nếu triết tự thì có lẽ do tiếng Ai Cập có nghĩa là “đáng yêu”. Mẹ là môn đệ tuyệt vời dẫn đưa chúng ta tới thiện ích và nhân tính của Thiên Chúa. Maria đón chào và tiếp nhận lời Chúa với đầy đủ và trọn vẹn ý nghĩa nhất qua tiếng “Xin Vâng”. Mẹ đã không hiểu lời đó trong suốt cuộc đời Chúa Giêsu, nhưng Mẹ tin tưởng và giữ kín trong lòng câu mẹ trả lời lúc thiên thần truyền tin Mẹ sẽ thụ thai Chúa Giêsu. Nguyên văn câu đó là “giữ nó sống”, “suy nghĩ”, “cân nhắc”, đã được giữ kín trong tâm trí mẹ (Lc 2:19) cho đến một buổi chiều thứ sáu u tối ở trên đồi Calvary, 33 năm sau đó, Mẹ mới thực sự thấm thía và cảm nghiệm trọn vẹn trách nhiệm của Mẹ với hai tiếng “Xin Vâng”.

 NỮ TỬ ZION [1]

Công đồng Vatican II đã tặng Mẹ một danh hiệu mới với bổn phận được nêu lên trong Hiến-Chế-Tín-Lý về Giáo Hội Ánh-Sáng-Muôn-Dân (Lumen Gentium # 52). Đây là lần đầu tiên Giáo Hội chính thức gọi Mẹ là “Nữ Tử Zion”, một tước hiệu có một nền tảng Kinh Thánh rất phong phú. Danh hiệu này tiêu biểu cho Zion Thiên Sứ. Maria là mẹ Đấng Thiên sai và thần dân mới của Thiên Chúa: từng cá nhân và toàn thể dân tộc kết hợp mật thiết với nhau theo đúng truyền thống cấu trúc văn hóa Israel. Theo các tiên tri thì Nữ Tử Zion là vị hôn thê của Chúa khi nàng tuân giữ giao ước. Vì là “Mẹ Zion”, mẹ không chỉ đón chào và đại diện Israel mà cả Giáo Hội, toàn thể dân Chúa của Giao Ước mới.  Mẹ Maria là “Trưởng Nữ Zion”, dẫn đầu tất cả dân Chúa trên đường hành trình về vương quốc Thiên Chúa. 

Tình mẹ của Maria tự nó không là dấu chỉ của ơn cứu chuộc, nhưng phương cách sống, đường lối hành sử đặc biệt của mẹ chính là ơn cứu chuộc.  Ơn cứu chuộc không có một danh hiệu nào khác ngoài danh hiệu Đức Giêsu, nhưng qua Mẹ Maria, chúng ta có Mẹ đồng thuận để có được ơn cứu chuộc. Các danh thánh của Đức Giêsu và của Mẹ Maria liên kết với nhau rất mật thiết, đặc biệt và tài tình.

Hôm nay chúng ta mừng lễ Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Mẹ là khuôn mẫu cho mỗi tín hữu chúng ta. Xin nhắc lại những lời rất đanh thép của Giám mục Anh quốc N.T. Wright,  năm 2008 trong Thượng Hội đồng các Giám mục về Lời Chúa Trong Đời Sống và sứ mạng của Giáo Hội. Giám mục Wright là một trong các giám mục được ĐTC chỉ định đại diện anh em trong Thượng Hội Đồng, đã nói về 4 giai đoạn trong đời sống của Mẹ Maria qua 4 tiếng: Xin Vâng (Fiat), Ngợi Khen (Magnificat), Giữ Kín Trong Lòng (Conservabat) và Đứng Yên Lặng (Stabat). “Xin Vâng”, có nghĩa là Mẹ bằng lòng và chấp nhận Lời Chúa phán. “Ngợi Khen” Mẹ nói lên sức mạnh và lòng can đảm của mẹ. “Giữ Kín Trong Lòng”, Mẹ chiêm nghiệm lời Chúa và giữ kỹ trong trí.“Đứng Yên Lặng” nói lên lòng trung thành của Mẹ cho đến phút chót lúc Mẹ đứng lặng người dưới chân Thánh Giá khi Chúa hấp hối, kiên nhẫn chờ đợi trong lòng sự ứng nghiệm của lời tiên tri Simêon và cảm nghiệm một điều mới mẻ, bất ngờ và có lẽ không vui nhưng lại là một linh hứng cứu chuộc.

Qua Kinh Thánh, Thiên Chúa kêu gọi mỗi người chúng ta với một tình yêu trọn vẹn đầy ân sủng thì đáp ứng của chúng ta phải là “Xin Vâng”. Chúng ta cũng “Ngợi khen” với sức mạnh của chúng ta- để làm sao thích hợp lời của chúng ta với những tình trạng cá nhân, đặc biệt xã hội chính trị. Rồi chúng ta “Giữ kín trong lòng” để chiêm nghiệm những gì chúng ta trông thấy và nghe được. Nhưng Kinh Thánh nói Mẹ Maria cũng phải trải qua nhiều khó khăn. Mẹ muốn điều khiển con mẹ, nhưng mẹ bất lực. Mẹ như bị lưỡi gươm đâm thấu tim khi mẹ “đứng yên” dưới chân Thánh Giá. Chúng ta cũng phải kiên nhẫn chờ đợi, để cho Lời Chúa nói với chúng ta những điều mà chúng ta không ngờ hay chẳng vui vẻ gì để chấp nhận, nhưng nó lại có tính cứu chuộc. Nên đọc Lời Chúa cách khiêm tốn và tin tưởng rồi chờ đợi mục đích của Chúa ẩn chứa bên trong như Mẹ Maria. Maria quả thật là một gương mẫu về niềm tin cho mọi Kitô hữu.

NGÀY THÉ GIỚI CẦU NGUYỆN CHO HÒA BÌNH 

Ngày Thế Giới Cầu Nguyện cho hòa bình được Giáo Hội khởi xướng dưới thời Đức Phaolô VI năm 1967. Mọi tín hữu đều được mời gọi cầu nguyện cho hòa bình thế giới vào đầu năm. Sứ điệp của Giáo hoàng Biển Đức XVI trong ngày cầu nguyện thứ 43 là: “Nếu bạn muốn kiến tạo Hòa Bình, bạn phải bảo vệ Tạo Vật.”  Đức Phaolô VI nói một câu rất nổi danh: “Nếu bạn muốn có Hòa Bình, bạn phải thực thi công lý.”

ĐGH Biển Đức XVI đã trình bày “một viễn kiến toàn cầu về hòa bình”, một hòa bình “có được trong hòa hợp giữa Thiên Chúa, loài người và tạo vật. Với viễn ảnh đó, phân hóa môi trường thì không những phá vỡ sự hòa hợp giữa loài người và tạo vật mà còn hủy hoại trầm trọng sự hợp nhất giữa loài người và Thiên Chúa.” Ngài đã nổi danh là “Giáo hoàng Xanh” vì ngài đã liên tục kêu gọi bảo vệ môi trường. Ngôn ngữ trong sứ điệp năm mới của ngài hoàn toàn có tính cưỡng hành. “Làm sao người ta có thể dửng dưng vô cảm trước những vấn đề như khí hậu thay đổi, bỏ hoang, hủy hoại và làm mất sức sản xuất ở nhiều phạm vị nông nghiệp rộng lớn, ô nhiễm sông ngòi, hủy giệt môi sinh, làm tăng khí hậu quá đáng, phá rừng ở nhửng vùng xích đạo và nhiệt đới?

“Làm sao người ta có thể bỏ qua một hiện tượng đang lớn mạnh gọi là ‘di cư vì môi trường’, có nghĩa là người dân -vì môi trường bị phân hóa hủy giệt- phải rời bỏ nơi họ đang sống cùng với tất cả vật dụng, gia nghiệp của do, vì bị ép buộc, vì chẳng đặng đừng để tránh những nguy hiểm và những bất trắc không lường trước được, mà không biết phải đi đâu? Làm sao chúng ta lại không thể phản ứng lại những tranh chấp đang xẩy ra  và rất có thể mai sau liên quan đến những nguồn lợi thiên nhiên? (….)

“Đó là tất cả những vấn nại ảnh hưởng rất lớn trên việc thi hành nhân quyền như quyền được sống, quyền có thức ăn, quyền y tế sức khỏe và quyền phát triển.”

ĐGH Biển Đức XVI làm nổi bật viễn kiến toàn cầu như một tặng phẩm của Thiên Chúa ban cho loài người. Họ có quyền và “bổn phận phải săn sóc và vun trồng.” ĐTC kêu gọi mọi người nên biết “nhìn xa trông rộng về một phương mẫu phát triển” dựa trên không phải những “nhu cầu sống thời nay, của người và vật, mà là nhu cầu của tất cả những thế hệ tương lai.

ĐTC cũng nhấn mạnh việc bảo vệ môi trường là “bổn phận của tất cả mọi người” bằng cách thay đổi thái độ và cá tính. Biển Đức kêu gọi một “cách sống mới” không chỉ dựa trên tiêu thụ hợp lý mà còn “xã hội và đoàn kết” cũng như “khôn ngoan”. Vì vậy, loài người cần phải canh tân“giao ước giữa loài người và môi trường, là tấm gương phản chiếu tình yêu sáng tạo của Thiên Chúa, đấng chúng ta từ đó mà có và trên hành trình dương thế chúng ta đi về với Người.”

“Khủng khoảng hiện nay của chúng ta……căn bản là khủng khoảng luân lý, và tất cả những khủng khoảng đó đều liên quan với nhau. Chúng ta cần phải suy nghĩ lại, coi lại con đường chúng ta đang đi.

Chủ đề mới nhất gần đây cho năm mới của người Kitô hữu là “Ngày Thế Giói Cầu Nguyện cho Hòa Bình”. Giáo Hội kêu gọi mọi Kitô hữu bắt đầu năm mới bằng cầu nguyện cho hòa bình. Việc cầu nguyện không chỉ giới hạn ở ngày Mồng Một Tết đầu năm, nhưng phải kéo dài suốt cả năm. Dân Do Thái, đặc biệt, họ kết hợp với người Kitô hữu trong lời nguyện cầu và xây dựng hòa bình. Thiên Chúa là Hòa Bình. Mặc dù chúng ta, những người Kitô giáo coi sự can thiệp của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô là một quyết định dứt khoát và rõ ràng, nhưng sự can thiệp này không biểu hiện ngày xuất hiện của vương quốc Đấng Thiên sai đối với những người anh chị em Do Thái. 

Theo thần học Kitô giáo đương đại, chúng ta biết chắc biến cố Đức Kitô “chưa tới”. Vì chúng ta, những người Kitô hữu và những người Do Thái, còn đang cùng nhau đợi, cùng nhau hành động để có được vương quốc của Đấng Thiên sai, nên chúng ta phải cùng nhau hành động đặc biệt trong phạm vi công lý và hòa bình. Dân Do Thái, dĩ nhiên có ưu tiên làm hội viên cùng với người Kitô hữu để có vương quốc công lý, tình thương và hòa bình. Vương quốc của Đấng Thiên sai đối với cả người Kitô giáo lẫn người Do Thái thì vẫn còn đang ẩn hiện đâu đó. Đối với chúng ta, chỉ cầu nguyện cho hòa bình không thôi thì chưa đủ, chúng ta phải có hành động. Đó là công việc của những ai đang chờ mong vương quốc của đấng thiên sai bao trùm ngự trị trọn vẹn cuộc đời chúng ta và cả thế giới.

LỜI KẾT: THỜI GIAN TƯỞNG NHỚ VÀ TRI ÂN 

Đầu Năm Mới là cơ hội và thời gian để nhớ lại quá khứ và chia sẻ hy vọng ở tương lai. Tôn giáo đích thực dạy chúng ta phải tôn trọng mạng sống và cho chúng ta cảm nghĩ thánh thiêng về Danh Thánh Thiên Chúa. Khi chúng ta để ý đến những ý nghĩa khác nhau của lễ Rosh Hashanah và lễ Tân Niên của Kitô Giáo, chúng ta thấy có một số việc đi song hành với nhau. Thiên Chúa mà người Do Thái và người Kitô Giáo tôn thờ không muốn cái chết đổ lên đầu những kẻ tội lỗi, mà họ có quyền quay trở về với Người để được sống. Cả Do Thái Giáo lẫn Kitô Giáo đều dạy hủy bỏ một mạng sống thì cũng có thể hủy bỏ cả thế giới, và bảo toàn một mạng sống thì cũng là bảo toàn cả thế  giới. 

Thiên Chúa của người Do Thái và người Kitô Giáo đã nói với mọi người là: “Hãy tìm kiếm Ta để được sống” và “Hãy chọn  sự sống”. Người Do Thái và người Kitô Giáo hiện hữu là để biểu lộ sự thánh thiêng của danh Thiên Chúa và quyền năng tối thượng của Người trên muôn loài thụ tạo. Trong một thế giới có quá nhiều tiếng nói và vấn đề đang đòi hỏi phải đứng chóp bu hạng nhất, Do Thái Giáo và Kitô Giáo đã nhận biết Thiên Chúa là chúa tể toàn năng và tối thượng trên muôn loài. Sau cùng, người Do Thái và người Kitô Giáo vẫn hằng ao ước một ngày nào đó có hòa bình, lưỡi gươm đem làm lưỡi cày và cây thương trở thành giao tỉa cây (Is 2:4).

Lễ Rosh Hashanah và Lễ Tân Niên Kitô Giáo là những cơ hội tuyệt hảo để ăn mừng, ca tụng sự sống. Theo quan niệm Á Châu và Việt Nam ta thì người ta chúc mừng nhau sức khỏe, đa tôn, đa tử, đa phú quí, nghĩa là họ chúc nhau cũng như cầu mong cho mình được mọi điều tốt đẹp. Đó là những lễ hội để cầu xin Trời ban mọi điều an lành, hạnh thông, nam nữ, vợ chồng, con cháu hòa hợp, xum họp yên vui, yêu thương, được muôn điều như ý, đặc biệt những ai nhận biết Chúa là chúa giải phóng khỏi cảnh nô lệ, độc tài, áp bức (Exodus), và những ai nhận biết Thiên Chúa là Cha Chúa Kitô của chúng ta. 

Đầu năm mới, năm hồng ân, năm toàn xá lòng Chúa thương xót. Xin Chúa ban cho chúng con được ngày càng thấm nhuần hiểu biết thánh danh Thiên Chúa, Đức Giêsu và Mẹ Maria, ban cho chúng con tràn đầy hồng ân Thiên Chúa. Xin hãy dẫn đưa và bảo vệ chúng con lên đường thi hành sứ mệnh, thiết lâp công lý, công bằng, làm khí cụ và đại diện cho sự sống và hòa bình. Ban cho thế giới được hòa bình an vui, không còn chiến tranh khủng bố, hết cảnh phải lũ lượt gồng gánh bỏ nhà ra đi mà không biết phải đi đâu.

------------------------------------------------------------------------------

[1] Zion- 1-Zion là tên ngọn đồi ở Jerusalem, nay gọi là Đồi Đền Thờ hay Núi Đền Thờ. Ban đầu là  đồn lũy của người Jebusite mà vua David tiến chiếm vào khoảng 1000 năm trước cn và xây thành David trên đó (2Sm 5:6-9) tức Jerusalem. Vì là nơi đặt Hòm Bia Giao Ước và là Đền Thờ nên Zion đã trở thành trung tâm đời sống văn hóa và chính trị của người Do Thái cổ đại. Zion còn được gọi là Núi Thánh của Thiên Chúa

(Tv 2:6).

[2] Theo thời gian tên Zion được dùng để chỉ toàn bộ Jerusalem và Palestine (Is 1:27). Nữ Tử Zion là thuật ngữ nói đến toàn thể dân tộc Do Thái. Sau khi Judah sụp đổ vào năm 70 trước cn, Zion trở thành biểu tượng niềm hy vọng rằng quê hương của người Do Thái ở Palestine sẽ được phục hồi.

[3] Zion trong Tân Ước chỉ thành trên trời (Dt 12:22; Kh 14:11). mục lục

MARIA MẸ CHÚA TRỜI

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

“Họ đã gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi… và tám ngày sau được gọi tên là Giêsu” (Lc 2,16-21).

Với đoạn Tin Mừng trên đưa chúng ta về với người mẹ vừa mới sinh con là chính Đức Maria sinh ra Chúa Giêsu. Đó là lý do Giáo hội cử hành lễ Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa sau lễ Chúa Giêsu giáng sinh tám ngày, để mời gọi con cái mình tỏ lòng kính trọng và biết ơn Đức Maria, đồng thời tuyên xưng Mẹ là Mẹ Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, vì nhờ Mẹ, Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho chúng ta.

Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, Vua Thái Bình (x.Is 9, 5) sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria, Nữ Vương Hòa Bình. Vì thế, ngày đầu năm, Giáo hội khấn xin Mẹ chuyển cầu cùng Chúa cho thế giới được hòa bình.

Đức Maria cưu mang và sinh hạ Chúa Giêsu

Tại Belem Chúa Giêsu đã được sinh ra từ Đức Trinh Nữ Maria. Người đã không sinh ra “do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra” (Ga 1,13). Người là ân ban do tình yêu thương của Thiên Chúa, là “Đấng đã yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một Ngài, để bất cứ ai tin nơi Ngài không bị hư mất, nhưng có cuộc sống đời đời” (Ga 3,16).

Sau Đức Maria và thánh Giuse thì đến các kẻ chăn chiên trên cánh đồng Belem trông thấy vinh quang khiêm tốn của Đấng Cứu Thế. Nghe theo lời loan báo của các thiên thần, « họ đã ra đi vội vã đến thành Belem, và thấy Maria, Giuse và Hài Nhi mới sinh năm trong máng cỏ” (Lc 2, 16).

Hôm nay, Giáo hội chiêm ngắm thiên chức làm Mẹ Chúa Giêsu của Đức Maria. Thánh Luca giới thiệu cho chúng một “cuộc gặp gỡ” của mục đồng với “Hài Nhi”, cùng với Đức Maria, Mẹ Người và thánh Giuse. Sự hiện diện âm thầm của Giuse gợi lên sứ mệnh quan trọng của thánh nhân trong tư cách là người gìn giữ mầu nhiềm cao cả của Con Thiên Chúa. Đức Maria, Giuse và các mục đồng vây quanh “Hài Nhi mới sinh ” (Lc 2,16) để tôn thờ, làm nên hình ảnh sống động và tuyệt đẹp của Giáo hội.

Chúa Giêsu nằm trong “Máng cỏ” ám chỉ Thánh Thể mà chính Đức Maria là nhà tạm chứa đựng! Nếu không có kinh nghiệm về “gặp gỡ” cá nhân với Thiên Chúa, người ta không thể tin được. Chỉ có “gặp gỡ” cộng thêm là “nhìn thấy tận mắt”, rồi “chạm tới”, các mục đồng mới có thể trở nên những sứ giả của Tin Mừng ” thuật lại cho người khác về Hài Nhi Giêsu ” (Lc 2,17).

“Tất cả những người nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại cho họ” (Lc 2,18), là hoa trái đầu tiên của “cuộc gặp gỡ” Đức Kitô. “Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và đã xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ” (Lc 2, 20) là hoa trái thứ hai. Đức Maria, là mẫu gương của sự chiêm ngắm “Còn Maria thì ghi nhớ tất cả những việc đó và suy niệm trong lòng” (Lc 2,19). Người ta gọi tên người là Giêsu nghĩa là “Thiên Chúa cứu độ”. Tên của Người cũng là Bình An. Chúng ta hãy đón nhận Tên Cực Thánh và rất ngọt ngào này vào lòng và thường xuyên lặp lại trên môi!

Đức Maria Mẹ Thiên Chúa

Không có gì lạ, khi có người đặt câu hỏi: chúng ta có nên gọi Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Thiên Chúa không? Vì nếu Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa, thì chẳng lẽ Đức Maria, Đấng đã hạ sinh Chúa Giêsu lại không phải là Mẹ Thiên Chúa? […]

Ngôi Lời đã làm người, có hồn có xác. Thánh Công đồng Nicêa dạy, chính Con duy nhất của Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha, đồng bản thể với Chúa Cha, nhờ Người mà muôn vật được tạo thành, và tất cả tồn tại trong Người, vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế, nhập thể, làm người, chịu chết, đã sống lại, và Người sẽ lại đến trong vinh quan để phán xét; Công đồng tuyên phán: chỉ có Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Lời Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha, giống Chúa Cha. Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi sánh sáng, được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Đức Chúa Cha… Nên Đức Maria vừa được gọi là Mẹ Chúa Kitô, và Mẹ Thiên Chúa nữa.

Như thánh Ignatiô thành Antiokia (+ 110) là người đầu tiên nêu tên Đức Maria sau các sách Tin Mừng và viết : “Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô đã được Đức Maria cưu mang trong lòng theo nhiệm cục cứu độ” và “ Đức Giêsu cũng được sinh ra bởi Đức Maria và bởi Thiên Chúa”. Thánh Grégoire de Nazianze (330 – 390) khẳng định: “Đức Kitô sinh bởi một Trinh Nữ, người nữ ấy là Mẹ Chúa Kitô”. Vì thế, nếu Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật và là người thật, sinh bởi Đức Maria, thì chúng ta cũng có thể gọi mà không sợ sai lầm rằng: Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa.

Ngày cầu cho hòa bình

Ngày đầu năm, Giáo hội cử hành biến cố trên với niềm vui, sống lại với niềm tin trong phụng vụ lễ Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, Con Thiên Chúa đã đảm nhận lấy xác phàm hay hư nát của chúng ta, trở thành bé nhỏ và nghèo nàn để cứu độ chúng ta.

Còn món quà nào cao quí hơn là chính Con Thiên Chúa, Đấng là Hoàng Tử Bình An được Chúa Cha ban tặng cho chúng ta. Hoà bình là món quà Thiên Chúa ủy thác cho con người. Vì lòng thương xót, Thiên Chúa đã “ban Người Con duy nhất của Ngài” cho nhân loại (Ga 3,16). Để cầu chúc cho nhau, chúng ta mượn lời sách Dân Số: “Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh chị em” (x. Ds 6,26).

Lạy Chúa Giêsu, Hoàng Tử Bình An ban cho thế giới được hòa bình và hòa hợp giữa các dân tộc.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu, Nữ Vương bình an giúp chúng ta hiểu và sống sứ điệp bình an mà Chúa Giêsu Con Mẹ đã mang đến, để chúng con có thể mang bình an đến cho mọi người trên trái đất yêu dấu này.

Nữ Vương Bình An, cầu cho chúng con. Amen. mục lục

ĐẤNG MẪU NGHI THIÊN HẠ TUYỆT HẢO

JM. Lam Thy ĐVD

Phải sống dưới ách đô hộ của đế quốc La Mã suốt một thời gian dài là nỗi tủi nhục, cay đắng đối với dân tộc Do Thái. Vì thế, họ luôn sống trong niềm mong đợi về một Đấng Mê-si-a sẽ đến để đem lại hòa bình cho đất nước. Tuy nhiên, tư tưởng của Thiên Chúa lại vượt xa lối nghĩ của loài người. Đấng Mê-si-a đến trần gian không phải để tái lập nền hòa bình bằng một cuộc chiến tranh chính trị, nhưng với một sứ mệnh vĩ đại hơn rất nhiều: Người đến để giao hòa Thiên Chúa và nhân loại tội lỗi. Qua mầu nhiệm nhập thể, Con Thiên Chúa đã mặc lấy xác phàm để thật sự trở thành một người như mọi người, một sứ giả của hòa bình. Đêm Giáng Sinh quả là đêm an bình cho nhân loại khi các thiên thần cùng hòa vang “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2,14). Điều ấy đã được thể hiện rõ qua niềm vui khôn tả của Mẹ Maria, thánh Giu-se và các mục đồng trước sự chào đời của Hài Nhi Giê-su. Các nhà hiền sĩ từ phương Đông xa xôi cũng tìm đến chiêm bái thờ lạy Ngài. 

Thường khi sinh con, các bậc cha mẹ phải đặt tên cho con. Có nhiều trường hợp người con chỉ mới được tượng thai trong lòng mẹ, thì cha mẹ đã lo chọn cho người con một cái tên hợp với ý nguyện của họ. Tục lệ dân Do Thái ngày xưa cũng vậy, nhưng còn thêm một điểm, nếu người con ấy là con trai đầu lòng thì phải đem con đến đền thờ chịu lễ cắt bì. Đức Giê-su vâng lệnh Thiên Chúa Cha xuống thế làm người trần thế như mọi người, Người đã “sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật” (Gl 4, 4-5). Và vì thế nên Đức Mẹ và Thánh Giu-se đều giữ đúng luật, sau khi sinh Con, đến ngày thứ 8 liền dâng Con vào đền thờ để chịu lễ cắt bì. Còn tên của Người Con cao trọng đó cũng được đặt đúng như lời sứ thần truyền: Giê-su. 

Các dân tộc Đông phương đều tin rằng những người con được sinh ra, được nuôi nấng dạy dỗ cho nên người đều nhờ “Phúc đức tại mẫu” (Phúc đức tại nơi người mẹ). Cũng vì thế nên ngay từ ngàn xưa, khi mừng Lễ Chúa Giáng Sinh, Dân Chúa vẫn chú tâm đến Người Mẹ đã tượng thai và hạ sinh Con-Thiên-Chúa-làm-người và không ngớt chiêm ngưỡng khuôn mặt phúc hậu no đầy ân sủng của Đức Mẹ nơi máng cỏ Bê-lem. Có thể nói, Mùa Giáng sinh cũng là mùa lễ Ðức Mẹ. Tuy vậy, vẫn có những ngụy thuyết (ở thế kỷ III, IV, V…) cho rằng tôn vinh Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa là xúc phạm tới Đấng Tối Cao. Họ lý luận: Thiên  Chúa dựng nên (tức là sinh ra) loài người, thì không thể có việc loài người lại sinh ra Thiên Chúa được. Nói Thiên Chúa được sinh ra từ một người đàn bà trần thế, chẳng hóa ra coi Thiên Chúa còn thua kém loài người sao?

Cụ thể như vào những thập niên đầu thế kỷ V (năm 427-429), linh mục Nestorio –  phát ngôn viên của Đức Giám mục Constantinopoli – khi khẳng định rằng “Đức Maria chỉ là mẹ của một người, bởi vì Thiên Chúa không thể sinh ra từ một người đàn bà được”, thì lập tức các Ki-tô hữu đã coi đó là gương mù, gương xấu và mạnh mẽ phản đối ngay trước mặt Đức Giám Mục. Tuy nhiên, linh mục Nestorio đã không thay đổi tư tưởng của mình, và vì thế, Giáo hội đã phải triệu tập Công Đồng Chung Ê-phê-sô. Công Đồng khai mạc ngày 24/6/431 và đã tuyên tín: “Tuyệt thông cho những ai không tuyên xưng rằng Đấng Emmanuel thực sự là Thiên Chúa, và bởi thế, Đức Trinh Nữ là Mẹ của Thiên Chúa (Theotokos) vì Mẹ đã hạ sinh Ngôi Lời Thiên Chúa hóa thành nhục thể theo xác thịt.” (xc. DS – “Densiger-Schonmetzer”, số 252; hay “The Christian Faith” trang 149).

Cứ kể ra mới nghe lập luận của phe chống đối thì thấy cũng có lý (Thiên Chúa sinh ra loài người thì làm sao loài người lại sinh ra Thiên Chúa được). Tuy nhiên, đó mới chỉ là “tư tưởng của loài người, không phải tư tưởng của Thiên Chúa” (Mt 16, 23). Thật thế, "Đối với loài người thì điều đó không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể được." (Mt 19, 26). Đức Giê-su là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, nhưng khi vâng lệnh Chúa Cha xuống thế làm người thì rất cần phải là một con người cụ thể bằng xương bằng thịt, được sinh ra và nuôi dưỡng như một người phàm, bởi loài người cứ thích được “thực mục sở thị” (trông thấy nhãn tiền) thì mới tin. Và vì thế, khi được sinh ra bởi Đức Maria, thì Đức Giê-su Thiên Chúa là người phàm như bao người khác. Một cách cụ thể, trong Đức Giê-su, thiên tính (bản tính Thiên Chúa) và nhân tính (bản tính loài người) kết hợp bất khả phân ly trong một ngôi vị duy nhất, như Công Đồng Nicea đã khẳng định: “Chúa Ki-tô là Thiên Chúa thật và là người thật, Người có cùng một bản thể như Thiên Chúa Cha.” 

Điều đó đã liên tục được công bố bởi các Công Đồng Chung (Công Đồng Chung Ê-phê-sô năm 431; Công Đồng Chalcedonia năm 451 và Constantinople II năm 553; Công Đồng Constantinople III năm 680-681). Ngoài ra, còn có những giáo huấn của các Đức Giáo Hoàng về Mẹ Thiên Chúa như Đức Giáo Hoàng Pi-ô XI, đã ra thông điệp “Mediator Dei” để mừng kỷ niệm 1500 năm Công Đồng Ê-phê-sô và công bố lễ Mẹ Thiên Chúa mừng trong toàn thể Giáo Hôi vào ngày 11 tháng 10. Đức GH Pi-ô XII, trong một thông điệp, đã tuyên bố Năm Thánh Mẫu vào năm 1954 và chủ trương rằng tước hiệu Mẹ Thiên Chúa là nguồn gốc tất cả mọi ơn sủng và đặc sủng của Mẹ Maria. Sau cùng, Công Đồng Va-ti-ca-nô II trong Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội “Lumen Gentium” đã dành cả chương VIII để nói về Mẹ Thiên Chúa. Và trong Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh (“Sacrosanctum Concilium”), các Nghị Phụ trong Công Đồng đã chuyển lễ Mẹ Thiên Chúa sang ngày đầu năm (01/01). 

Như vậy là đã quá rõ ràng: Đức Mẹ được hồng ân tượng thai và sinh hạ Con-Thiên-Chúa-làm-người đã được tiền định từ trước vô cùng. Vậy thì còn tước hiệu nào xứng hợp hơn để nói về Ðức Maria trong lịch sử Cứu Độ bằng tước hiệu Mẹ Thiên Chúa? Từ xác tín Đức Mẹ đã tượng thai và hạ sinh Đức Giê-su Thiên Chúa, ĐTC Biển Đức XVI còn đi xa hơn khi khẳng định các Ki-tô hữu cũng được vinh dự tượng thai và hạ sinh Ngôi Lời Nhập Thể (“Vì Đức Maria hoàn toàn thấm nhuần Lời Chúa, nên ngài có khả năng trở thành Mẹ của Lời Nhập Thể. Khi chiêm ngưỡng nơi Mẹ Thiên Chúa một cuộc đời hoàn toàn do Lời lên khuôn, ta hiểu được rằng cả ta nữa cũng được mời gọi bước vào mầu nhiệm đức tin, nhờ đó, Chúa Ki-tô tới cư ngụ trong đời ta. Thánh Am-brô-si-ô nhắc nhở ta rằng xét theo một phương diện nào đó, mọi tín hữu Ki-tô đều tượng thai và sinh hạ Lời Thiên Chúa: mặc dù chỉ có Mẹ Thiên Chúa là tượng thai bằng xương bằng thịt, còn chúng ta, Chúa Ki-tô là con cái của mọi người chúng ta trong đức tin. Như thế, điều xẩy ra cho Đức Maria cũng hàng ngày xẩy ra nơi mỗi người chúng ta, trong việc nghe Lời Chúa và trong việc cử hành các bí tích.” – T/H Lời Chúa “Verbum Domini”, số 20). 

Ngoài ra, dựa trên mầu nhiệm Ngôi Lời giáng thế đem bình an cho nhân loại, các Đức Giáo Hoàng cũng liên tiếp ban hành những Thông điệp cầu cho thế giới một nền hòa bình vĩnh cửu. Nối tiếp truyền thống tốt đẹp đó, năm 1967 ĐTC Phao-lô VI thiết lập Hội Đồng Giáo Hoàng "Công Lý và Hòa Bình", và từ năm 1968, lập ra ngày "Hoà Bình Thế Giới" cử hành vào ngày 01/01 hàng năm. Như vậy là ngày 01/01 hàng năm là ngày tổng hợp 4 ý niệm cao trọng: Lễ Cắt Bì và Lễ Đặt Tên Con Thiên Chúa làm người + Lễ Mẹ Thiên Chúa + Ngày Thế giới hòa bình. Tất cả lại một lần nữa minh nhiên thành ngữ “Phúc đức tai Mẫu” (mà kẻ viết bài này chỉ muốn viết “Phúc đức tại Thánh Mẫu Maria”). 

Tóm lại, ngày đầu năm – ngày sum họp gia đình – trong bầu khí nồng ấm của mùa Xuân, hãy “hướng về Đức Trinh Nữ Maria, người mà – như Công Đồng Va-ti-ca-nô II nhắc nhở chúng ta – là “mẫu mực của Giáo hội trong giới luật của đức tin, lòng nhân hậu, và hiệp nhất hoàn hảo với Đức Ki-tô” (Hc “Lumen Gentium”, số 63). Đó chính “Là người con gái của Israel, Đức Maria đã trả lời bằng đức tin trước tiếng gọi của Thiên Chúa và trở thành Mẹ của Con Một Người. Mẹ dạy chúng ta sống một đời sống đức tin bằng sự vâng phục của Mẹ trước ý định của Thiên Chúa và sự tận tâm trung kiên của mình với Chúa Giê-su và công việc của Người.” (Bài Giáo huấn ngày thứ Tư 23/10/2018 của ĐTC Phan-xi-cô). 

Hướng về Đức Trinh Nữ Maria trong tâm tình sống 4 ý niệm cao trọng: Lễ Cắt Bì và Lễ Đặt Tên Con Thiên Chúa làm người + Lễ Mẹ Thiên Chúa + Ngày Thế giới hòa bình, người Ki-tô hữu không chỉ gói gọn trong gia đình của mình, mà là mở ra với anh em trên khắp năm châu bốn biển, bởi vì “Đây chính là một tin tốt lành đòi hỏi mỗi người bước về phía trước, thực thi lòng thương xót vô hạn, lắng nghe những đau khổ cũng như hy vọng của người khác, kể cả những người ở xa tôi, và bước đi trên con đường đầy đòi hỏi của tình yêu, một tình yêu biết trao ban và tiêu tốn chính mình một cách tự do cho lợi ích của anh chị em chúng ta.” (Sứ điệp “Ngày Thế giới hòa bình”, số 10).

Càng suy niệm càng thấy Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa thì cũng có nghĩa là Mẹ Giáo hội nói riêng, là Mẹ loài người nói chung. Chính Mẹ là Đấng Mẫu Nghi Thiên Hạ có một không hai (độc nhất vô song). Ôi! “Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa vì Chúa đã ban cho chúng con một người Mẹ tuyệt hảo về mọi phương diện. Nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria, xin Chúa nhận lời chúng con nài van, mà ban cho chúng con luôn biết sống đẹp lòng Chúa, hòa thuận thương yêu nhau, như Chúa đã yêu thương chúng con. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện chung Thánh lễ Thánh Maria Mẹ Thiên Chúa). mục lục

NỮ VƯƠNG BAN SỰ BÌNH AN

Tu sĩ Jos. Vinct. Ngọc Biển

Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta hân hoan mừng lễ Đức Maria – Mẹ Thiên Chúa. 

Nếu các tước hiệu khác nơi Mẹ Maria, Giáo Hội muốn biểu dương công đức ưu việt nơi Mẹ, thì với danh xưng Mẹ Thiên Chúa, Giáo Hội muốn đề cao uy quyền của Mẹ Maria trong vai trò là thân mẫu Thiên Chúa. Bởi vì ngay khi đáp lại lời Thiên Chúa qua tiếng “xin vâng”, Mẹ đã đón nhận, cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu Thế, Ngài là Hoàng Tử Hòa Bình, đã đến chuộc tội nhân loại, làm cho Trời – đất kết chữ tình; xe chữ đồng; là chiếc cầu nối liền giữa trời và đất; đem lại sự bình an và giao hòa giữa con người với Thiên Chúa. 

Chính vì uy quyền độc nhất vô nhị nơi Mẹ Maria bắt nguồn từ Thiên Chúa, nên Giáo Hội cũng chọn ngày này để cầu nguyện cho hòa bình trên khắp thế giới khi mời gọi con cái mình hướng về Mẹ Maria là Nữ Vương Hòa Bình, để cầu nguyện cho nhân loại được an bình thư thái.

  • Đức Maria Mẹ Thiên Chúa

Danh xưng Mẹ Thiên Chúa được dành cho Đức Maria đã khởi đi từ việc Giáo chủ Constantinople là giám mục Nettôriô từ chối không công nhận thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria. Ông cho rằng: “Mẹ Maria chỉ là Mẹ của Đức Giêsu về mặt nhân tính, còn thiên tính thì không thể. Nơi Đức Giêsu nhân tính và thiên tính tách biệt, không hòa chung thành một”. Từ đó ông rút ra kết luận: “Mẹ Maria không thể là Mẹ Thiên Chúa”. Từ những lập luận trên mà Công Đồng Chung Êphêsô (431) đã đuợc triệu tập để làm sáng tỏ cũng như khẳng định và tuyên bố tín điều “Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa”. Công đồng tuyên tín: “Giây phút long trọng nhất trong đời Đức Mẹ là giây phút Ngôi Hai xuống thai trong lòng Mẹ. Từ giây phút ấy, Đức Mẹ trở nên Mẹ Thiên Chúa”.

Vậy, dựa vào đâu mà Công Đồng có những phán quyết chắc chắn như vậy:

Thưa, Công Đồng dựa vào Thánh Kinh:

Trước tiên, tước hiệu Mẹ Thiên Chúa nơi Đức Maria đã được hé mở từ thời Cựu Ước khi tiên tri Isaia tiên báo: “Một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh con trai và sẽ đặt tên con trẻ là Emmanuel” (Is 7,14). Lời tiên báo về việc hạ sinh Đấng Cứu Thế đã được sứ thần Gabriel chính thức và trực tiếp báo tin cho Mẹ Maria: “Bà sẽ thụ thai, sinh con trai và sẽ đặt tên con trẻ ấy là Giêsu…. Vì thế Con Trẻ sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (x. Lc 1,31-35). 

Rõ nét hơn cả, chính là lời chào mừng của bà Êlisabét khi được Đức Maria ghé thăm. Lúc ấy, bà được đầy Thánh Thần, nên đã thốt lên: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Lc 1, 43).

Và, khi thời đã điểm, những gì được tiên báo thì nay đã được tỏ hiện trong đêm đông giá lạnh nơi cánh đồng Belem khi Con Thiên Chúa Giáng Sinh làm người để ở cùng chúng ta (x. Lc 2, 1-20). Khi sinh ra Ngôi Lời Thiên Chúa, Đức Maria đã thực sự trở thành Mẹ Thiên Chúa trong vai trò là thân mẫu Đấng Emmanuel.

Với biến cố trọng đại này, Công Đồng Vatican II (1962-1965) tái khẳng định khi viết: “Từ muôn đời, Đức Trinh Nữ đã được tiền định làm Mẹ Thiên Chúa cùng một lúc với việc Nhập Thể của Ngôi Lời Thiên Chúa…. Đức Trinh Nữ nhờ ơn huệ và vai trò làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ được hợp nhất với Con Mẹ là Đấng Cứu Chuộc và hiệp nhất với Giáo Hội. Mẹ Thiên Chúa là mẫu mực của Giáo Hội trên bình diện đức tin, đức ái và hoàn toàn hiệp nhất với Chúa Kitô” (Lumen Gentium, số 61).

Chính vì những xác quyết trên mà Giáo Hội không ngớt kêu xin Mẹ Maria trong vai trò là Mẹ Thiên Chúa: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử”. 

  • Hòa bình chỉ có khi mỗi người cùng ý thức xây dựng

Như vậy, khi sinh hạ Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, là Hoàng Tử Hòa Bình, Chúa của sự bình an, Mẹ Maria cũng trở thành Nữ Vương Hòa Bình cho nhân loại. 

Khi chọn ngày mồng 01 tháng 01 hằng năm để cử hành lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa và cầu nguyện cho hòa bình thế giới, Giáo Hội muốn đặt để nhân loại dưới sự che chở đầy uy thế của Mẹ trước tòa Thiên Chúa. 

Truyền thống này được bắt đầu từ ý định và mong muốn của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, nên chính ngài đã dời ngày lễ này vào 01-01 hằng năm để xin Đức Maria bầu cử cho thế giới được an bình, hạnh phúc. 

Nhân dịp này, mỗi người chúng ta cũng hãy hướng nhìn về đất nước, dân tộc Việt Nam thân yêu, để thấy được sự cần thiết của hai chữ hòa bình! 

Có lẽ ngày nay trên thế giới, nhiều nước rất ngưỡng mộ Việt Nam, vì nơi đất nước này, tiếng bom đạn đã chấm dứt hàng chục năm, dân chúng xem ra có vẻ được an bình thư thái!!! 

Chúng ta không phủ nhận điều đó, nhưng nếu hiểu hòa bình theo nghĩa không có tiếng bom đạn thì chưa đủ, bởi vì theo quan điểm học thuyết của Kitô giáo, thì: hòa bình không phải chỉ là chấm dứt chiến tranh. Nó cũng không chỉ dừng lại ở chỗ có cơm ăn áo mặc, điện, đường, trường, trạm, được ổn định hay các trung tâm du lịch, vui chơi giải trí được mọc lên…! Không! Hòa bình đích thực nó còn phải tiến xa và sâu hơn nhiều. 

Về mặt cá thể:

Trước hết, đó là: mỗi cá thể cần có một mối liên hệ mật thiết với Thiên Chúa là Chủ Tể và nguồn gốc của hòa bình. 

Thứ đến, phải đạt được một trạng thái an bình thư thái ngay trong tâm con người. Sống hài hòa trong mối tương giao thân thiện với mọi người. 

Cuối cùng, đó là mọi thành phần phải có trách nhiệm, liên đới với nhau trong tình huynh đệ. 

Về mặt quốc gia:

Xét trên góc độ quốc gia: một đất nước được coi là hòa bình khi và chỉ khi con người được đảm bảo và quyền tự do tôn giáo được đề cao. Nhân phẩm được coi trọng và bảo vệ. Những lợi ích công cộng được ưu tiên. 

Trong lãnh vực giáo dục: hệ thống và các nhà giáo dục cần đào tạo con người phát triển toàn diện cả về chất lượng tri thức lẫn đạo đức, biết kính trên nhường dưới, biết tôn sư trọng đạo, biết lưu giữ và bảo tồn những truyền thống, văn hóa tốt đẹp, biết phát huy những cái mới phù hợp với đạo lý dân tộc….

Về mặt gia đình và tôn giáo:

Trong lãnh vực tôn giáo: cần trú trọng đến “nhân chi sơ tính bổn thiện” nơi con người và phát huy tinh thần bác ái, yêu thương, liên đới dựa trên tình yêu giữa Thiên Chúa và con người. 

Trong đời sống gia đình: mỗi thành viên cần ý thức vai trò và bổn phận của mình. Người làm cha cho đáng làm cha; người làm mẹ cho xứng thiên chức làm mẹ; người làm con cần sống hiểu thảo vâng lời….

Như vậy, muốn có hòa bình đúng nghĩa, chúng ta không thể ngồi ù lỳ và mong đợi, mà mọi thành phần phải sống tinh thần trách nhiệm. Trách nhiệm mà không sợ hãi. Trách nhiệm mà vẫn đảm bảo được sự tôn trọng và đối thoại chân thành. Nói cách khác, muốn có hòa bình thì phải chiến đấu. Chiến đấu cho lẽ phải để bảo vệ công bằng, xây dựng sự thật nhằm tiêu diệt cái xấu, nhất là những điều mà người ta vẫn thường ngụy trang khi nhân danh cái xấu để biện minh cho mục đích tốt. 

Được như thế, chúng ta mới có một trạng thái tâm hồn an vui thanh thản với bản thân, hiền hòa và nhân ái với mọi người.

Mừng lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa hôm nay, chúng ta hãy biết noi gương Mẹ, để suy đi nghĩ lại trong lòng những ân huệ của Thiên Chúa và những biến cố trong cuộc đời cũng như xã hội, từ đó, biết xắn tay áo lên và hành động vì một nền hòa bình đích thực. 

Mong sao, sau khi dâng thánh lễ, mỗi người ra về với tâm tình đổi mới, đổi mới tư duy, đổi mới phương cách, đổi mới hành động. Đổi mới trong sự vâng phục Thiên Chúa. Đổi mới trong sự hài hòa thiên nhiên. Đổi mới trong sự hy sinh, quên mình. Có thế, lòng chúng ta mới thực sự vui mừng phấn khởi như các mục đồng xưa, để ra đi loan báo tin mừng, tin vui, tin bình an của Hoàng Tử Hòa Bình cho mọi người.

Lạy Mẹ Maria, trong ngày đầu năm mới này, chúng con xin dâng năm sống mới của từng người cho Mẹ, xin Mẹ che chở, cầu thay nguyện giúp, để cho chúng con được an bình thư thái.

Đặc biệt, xin Mẹ giúp chúng con biết noi gương Mẹ, luôn suy gẫm Lời Chúa và đem ra thực hành trong đời sống, để Lời của Chúa là cội nguồn bình an được sinh hoa kết qủa dồi dào trong lòng mỗi người chúng con. Amen. mục lục

HẠNH PHÚC ĐỜI CON

Trầm Thiên Thu

Năm Mới Cầu Xin CHÚA TRỜI Thương Xót

Tân Niên Khấn Nguyện ĐỨC MẸ Đỡ Nâng.

Chuyện kể rằng một cậu bé có điều thắc mắc nên hỏi người cha: “Bố ơi, cả đời một cây chuối sinh ra được bao nhiều buồng?” Người cha ôn tồn: “Chỉ một buồng duy nhất.”

Cậu bé rất ngạc nhiên về câu trả lời của người cha, vì cậu cứ tưởng cả đời cây chuối ít nhất cũng phải cho vài buồng. Hiểu nỗi lòng người con nên người cha giải thích: “Khi buồng chuối chín cũng là lúc cây chuối mẹ chết đi.”

Thật kỳ diệu. Và tình mẫu tử cũng vậy. Tất cả vì con. Hình ảnh cây chuối cho thấy điều đó. Sau khi cung cấp chất dinh dưỡng toàn bộ thân cây để nuôi buồng chuối, cây chuối mẹ sẽ gục xuống chết đi. Như vậy trong quá trình hình thành một quả chuối ngon ngọt, cây chuối đã để lại cho chúng ta một bài học quý báu về tình yêu hy sinh của cha mẹ dành cho con cái.

Năm cũ qua, năm mới tới. Ngày đầu năm dương lịch là lễ mừng kính Thánh Mẫu Thiên Chúa – và cũng là ngày cầu xin ơn hòa bình cho thế giới hữu hình này. Có mẹ là có niềm vui và an toàn đối với con cái. Mẹ là tất cả của con, là “sợi dây” đưa cánh-diều-con bay lên cao và bay đi xa...

Người Do Thái có câu: “Thiên Chúa không thể ở mọi nơi, nên Ngài đã tạo dựng những người mẹ.” Đó là tình cảm đặc biệt – bền vững và tốt đẹp. Tuy nhiên, nếu “biến đổi” câu nói một chút, chúng ta có thể thấy chân lý rõ ràng hơn: “Thiên Chúa có thể ở mọi nơi và chứng tỏ điều đó bằng cách tạo dựng những người mẹ.” Nói về người mẹ, trong cuốn Vanity Fair có lời nhận định thú vị: “Mẹ là danh xưng đối với Thiên Chúa trên những đôi môi và trong những trái tim của những người con bé bỏng” (tiểu thuyết gia William Makepeace Thackeray, Hoa Kỳ).

Mẹ là hạnh phúc đời con. Thi sĩ Chế Lan Viên mô tả thật chí lý: “Con dù lớn vẫn là con của mẹ – Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con.” (thi phẩm “Con Cò”) Thật vậy, mặc dù đứa con có bao nhiêu tuổi thì cũng vẫn “bé bỏng” đối với người mẹ. Thiên Chúa tạo dựng người mẹ thật kỳ diệu, không bao giờ chúng ta có thể hiểu hết Tình Mẫu Tử – tình mẹ dành cho con cái rất sâu rộng và vô điều kiện.

Nói đến mẹ cũng ngụ ý cha. Người cha hay người mẹ đều có vị trí riêng, nhưng vị trí của mẹ luôn có điều đặc biệt. Con vui thì mẹ mừng, nhưng con đau một thì mẹ đau mười. Còn cha mẹ thật hạnh phúc, và thật bất hạnh cho những ai chịu mồ côi – nhất là mồ côi mẹ. Thảo nào tục ngữ Việt Nam so sánh: “Mất cha ăn cơm với cá, mất mẹ liếm lá đầu đường.” Mồ côi mẹ khổ lắm, bởi vì “mồ côi cha là một lần mồ côi, mồ côi mẹ là bảy lần mồ côi.”

Trong “bản giao hưởng cuộc đời”, Tình Mẹ như một nốt trầm, có lẽ không được lưu ý nhưng lại vô cùng quan trọng, vì đó là nốt nền để làm nổi bật những nốt khác trong cả giai điệu, như cố NS Y Vân mô tả: “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào…” (Lòng Mẹ) Nốt trầm Tình Mẹ âm vang kỳ diệu trong cả giai-điệu-đời-con.

Mẹ luôn dành cho con những gì tốt lành và cần thiết nhất. Thiên Chúa còn hơn như vậy, đến nỗi Ngài ban chính mình Ngài cho con cái – tức là chúng ta. Ngày xưa, chính Ngài phán với ông Môsê: “Hãy nói với A-ha-ron và các con nó rằng: Khi chúc lành cho con cái Ít-ra-en, anh em hãy nói thế này: Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em! Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh (em) và dủ lòng thương anh em! Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em! Chúc như thế là đặt con cái Ít-ra-en dưới quyền bảo trợ của danh Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng.” (Ds 6:22-27) Lời chúc bình an luôn được sử dụng nhiều, cả trong tôn giáo lẫn xã hội. Chắc chắn lời chúc lành đẹp nhất là lời chúc bình an, như lời thiên thần ca vang trong Đêm Cực Thánh: “Bình an dưới thế cho người thiện tâm.” (Lc 2:14) Bởi vì cuộc đời thiếu sự bình an nên hằng ngày chúng ta vẫn cầu xin: “Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, xin ban bình an cho chúng con.”

Có thể không trải qua nhưng ai cũng biết rõ là chiến tranh rất nguy hiểm, vì thế mà rất cần hòa bình, dù đó là hòa bình về phương diện xã hội hoặc tinh thần, nhưng phải là hòa bình đích thực, không thể giả tạo. Hòa bình trọn vẹn phải là hòa bình cả thể lý lẫn tinh thần. Ngày nay Việt Nam không còn chiến tranh bom đạn, nhưng lại có những loại chiến tranh còn nguy hiểm hơn bom đạn.

Mọi thời và mọi lúc đều có đủ thứ nguy hiểm bất ngờ. Ngày xưa Thánh Vịnh gia cũng đã chân thành cầu xin: “Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho CẢ HOÀN CẦU biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài.” (Tv 67:2-3) Điều ước như thế thật tốt lành. Ước nguyện là một dạng cầu mong – mong cho chính mình và cầu cho người khác: “Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa, chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài! Ước gì muôn nước reo hò mừng rỡ, vì Chúa cai trị cả hoàn cầu theo lẽ công minh, Người cai trị muôn nước theo đường chính trực và lãnh đạo muôn dân trên mặt đất này. Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa, chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài.” (Tv 67:4-6) Đó cũng là một dạng cầu nguyện, chắc chắn đẹp lòng Thiên Chúa, và Ngài luôn sẵn sàng trao ban.

Trong suốt thời gian Mùa Vọng, chúng ta luôn cầu xin trời cao đổ sương thánh xuống và ngàn mây mưa Đấng Cứu Tinh, rồi chúng ta đã được thỏa nguyện ngay đêm Con Chúa giáng sinh làm người: “Đất đã sinh ra mùa màng hoa trái: Chúa Trời, Chúa chúng ta, đã ban phúc lộc.” (Tv 67:7) Đấng Thiên Sai đã đến, Đấng Ngôi Lời đã làm người, Đấng Emmanuel đang ở với và ở giữa chúng ta. Nhưng không nên dừng lại ở đó, chỉ lo hưởng thụ mà quên cầu nguyện. Phàm nhân chúng ta rất dễ “ngủ quên trong chiến thắng”, vì thế chúng ta vẫn phải luôn tỉnh thức và không ngừng chân thành cầu xin: “Nguyện Chúa Trời ban phúc lộc cho ta! Ước chi toàn cõi đất kính sợ Người!” (Tv 67:8) Vâng, tín nhân nào cũng mong cho “danh Cha cả sáng” mà thôi.

Hai năm rõ mười. Tất cả đều rạch ròi và chính xác vì các lời tiên tri đã ứng nghiệm: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã dùng các tiên tri mà phán dạy cha ông, nhưng đến thời sau hết, tức là trong những ngày này, Người đã phán dạy chúng ta nơi Người Con.” (Dt 1:1-2) Người Con đó đã đến thế gian để hướng dẫn chúng ta biết bí quyết về Trời.

Cho tới lúc này, tất cả chúng ta đang thực sự sống trong thế kỷ XXI, thời kỳ khoa học tiến bộ, nhưng là thời kỳ cánh chung, thời kỳ viên mãn. Thánh Phaolô cho biết: “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử. Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: Áp-ba, Cha ơi!” (Gl 4:4-6) Quả thật, không gì có thể so sánh với niềm hạnh phúc quá lớn như thế. Tại sao vậy?

Vừa phân tích vừa giải thích, Thánh Phaolô xác định: “Anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa.” (Gl 4:7) Niềm hạnh phúc gia tăng mau chóng, vừa rộng vừa dài vừa cao, bởi vì chúng ta chỉ là những tội nhân khốn nạn đáng án tử, thế mà lại được trắng án, đặc biệt hơn nữa là được làm con cái của Thiên Chúa và được kế thừa di sản thánh: “Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa, mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa.” (1 Ga 3:1) Chuyện như không tưởng mà lại là sự thật trăm phần trăm, không hề mơ hồ, không hề ảo tưởng. Một thực tế hoàn toàn có thật.

Nhân loại chúng ta đã mất Người Mẹ thứ nhất là Bà Tổ Êva, thế nhưng chúng ta không bị mồ côi, vì Thiên Chúa lại ban cho chúng ta Người Mẹ thứ nhì là Đức Maria. Không chỉ vậy, Ngài còn ban cho chúng ta Người Mẹ thứ ba là người mẹ riêng của mỗi chúng ta. Kế hoạch của Thiên Chúa không chỉ kỳ diệu mà còn mầu nhiệm lắm.

Trình thuật Tin Mừng theo Thánh sử Luca (Lc 2:16-21) nói về Mẹ Thiên Chúa, với đức tính nhu mì đặc biệt, rất khác thường, rất lạ lùng, rất độc đáo.

Sau khi được các thiên thần báo tin lạ, các mục đồng liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp Đức Maria, Đức Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. Tận mắt tỏ tường, sự thật chứ không là mơ. Có lẽ lúc đó cả đám mục đồng léo nhéo nói cười vì thích thú, vừa ngắm nhìn vừa nựng Bé Giêsu nhiều lắm. Đúng là lạ lùng thật!

Niềm vui rõ nét nơi họ, chắc họ cảm thấy được an ủi khi thấy hoàn cảnh nghèo khó của Thánh Gia như thế, và họ vui sống kiếp nghèo của họ. Vâng, họ chỉ là những người chăn chiên thuê nhưng họ thực sự diễm phúc vì được trở nên các chứng nhân đầu tiên về sự kiện quan trọng: Con Thiên Chúa giáng sinh. Các mục đồng diễm phúc như vậy vì họ đã TIN thật lòng mà không đắn đo. Giả sử chúng ta là họ đêm đó, liệu chúng ta có đủ lòng tin? Có lẽ không dễ chút nào. Ước gì chúng ta có được niềm tin mãnh liệt như các mục đồng!

Sau khi tận mắt chứng kiến, họ ra về và kể lại điều đã được thiên thần nói với họ về Hài Nhi Giêsu. Người ta có kinh nghiệm là “đi xa hỏi già, về nhà hỏi trẻ.” Trẻ em chân thật và đơn sơ, không biết giấu giếm hoặc lọc lừa, cứ thấy sao thì chúng nói vậy. Khi nghe các trẻ chăn chiên thuật chuyện, có lẽ ai cũng thấy ngạc nhiên. Không ngạc nhiên sao được vì câu chuyện quá lạ lùng, ngoài sức tưởng tượng. Thế nhưng họ cũng đã tin lời kể của đám trẻ nhà nghèo kia là thật. Họ cũng thực sự là những người có phúc, mặc dù chỉ nghe kể, không tận mắt chứng kiến.

Sự kiện lạ và con người cũng lạ. Thật vậy, Người Mẹ Trẻ Maria có động thái rất khác lạ: Im lặng và lặng im, nhưng “hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng.” Như vậy thì Đức Mẹ ít nói lắm, chỉ cười thôi. Đúng là Mẹ Hiền, hiền lắm luôn! Thật vậy, khi hiện ra với cô bé Bernadette ở Lộ Đức (1858), Đức Mẹ cũng hay cười. Các người chăn chiên mãn nhãn và thỏa lòng, rồi họ ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, hoàn toàn đúng như đã được nói với họ. Tuyệt đối chính xác từng chi tiết.

Chỉ một ngày thôi cũng có bao thứ chuyển biến, dù xa hay gần. Mọi sự xảy ra đều theo quy luật quan phòng và tiền định của Thiên Chúa. Thánh sử Luca cho biết: “Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giêsu, đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ.” Tất cả được ứng nghiệm đúng như lời tiên báo của các ngôn sứ từ hằng ngàn năm trước.

Tình Mẫu Tử rất kỳ diệu, Người Mẹ rất kỳ lạ, đôi khi có vẻ như “kỳ cục” một chút – hiểu theo nghĩa tích cực. Kiểu “kỳ cục” của mẹ là vì mẹ quá thương con, dù con mình không hơn con người khác.

Khi Thiên Chúa muốn Con Một Giêsu giáng sinh làm người, Ngài biết đường đời gian nan lắm, và Ngài đã tiền định cho Con Trẻ Giêsu một Người Mẹ. Chúng ta thật hạnh phúc vì cũng được tiền định làm con cái của Đức Nữ Trinh Maria – Mẹ Thiên Chúa. Cùng với Đức Mẹ, chúng ta hãy đồng ca Bài Magnificat của Đức Mẹ, và Kinh Hòa Bình của Thánh Phanxicô Assisi, đặc biệt là hôm nay – ngày cầu xin ơn bình an cho cả thế giới, cho tất cả mọi người, dù họ là ai thì cũng là thụ tạo của Ngài.

Lạy Thiên Chúa là Khởi Nguyên và Tận Cùng, một năm mới lại bắt đầu trên thế gian này, nơi chúng con đang sống. Xin giúp chúng con biết sống yêu thương và đoàn kết để kiến tạo hòa bình đích thực, xin giúp chúng con biết tôn thờ một Cha trên trời và chu toàn bổn phận hằng ngày – với Ngài và với tha nhân, nhất là thể hiện hiếu thảo đối với ông bà và cha mẹ.

Lạy Thánh Mẫu Thiên Chúa và Hiền Mẫu của chúng con, xin thương nguyện giúp cầu thay, xin hướng dẫn chúng con sống theo lời dạy của Mẹ, đặc biệt là Mệnh Lệnh Fátima. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen. mục lục

TRẦM THIÊN THU

KHỞI ĐẦU MỚI

Chào tân niên khởi đầu

Mọi thứ đều mới mẻ

Chúc mọi người vui vẻ

Chúng ta cùng bắt đầu.

Quên hết mọi ưu sầu

Cùng xây dựng hạnh phúc

Quyết suy nghĩ tích cực

Hành động, không nói suông.

Có Thiên Chúa yêu thương

Có Đức Mẹ che chở

Cứ an tâm, đừng sợ! [*]

Thánh Thần sẽ dạy cho.

Năm cũ đã trôi qua

Cùng xin lỗi Thiên Chúa

Và xin lỗi nhau nữa

Cố gắng hoàn thiện hơn.

Khởi đầu một tân niên

Mười hai chương đời mới

Mỗi ngày một cơ hội

Xin Thiên Chúa chúc lành.

Viễn Dzu Tử

[*] Mệnh lệnh cách “ĐỪNG SỢ!” (St 15:1; St 21:17-18; St 26:23-24; St 35:16-17; St 43:23; St 46:1-4; St 50:18-21; Xh 14:13; Xh 20:20; Đnl 31:6; Is 7:4; Is 8:12; Is 10:24; Is 35:4; Is 37:6; Is 40:9; Is 41:10; Is 41:13-14; Is 43:1; Is 43:5; Is 44:2; Is 44:8; Is 51:7; Is 54:4; Gr 1:17; Gr 46:27-28; Gr 51:46; Gs 10:25; Xp 3:16; Mt 10:26; Mt 10:28; Mt 10:31; Mt 14:27; Mt 17:7; Mt 28:5; Mt 28:10; Mc 5:36; Mc 6:50; Lc 1:13; Lc 1:30; Lc 2:10; Lc 5:10; Lc 12:4; Lc 12:7; Lc 12:32; Lc 21:9; Ga 6:20; Ga 14:27; Cv 18:9; Kh 1:17-18; và còn nhiều…) được đề cập 365 lần trong Kinh Thánh, với các sắc thái khác nhau. Như vậy, suốt năm, mỗi ngày Chúa vẫn động viên mỗi chúng ta. mục lục

HÒA BÌNH và CHIẾN TRANH

Chiến tranh chỉ tạo khổ đau

Hòa bình là nỗi khát khao không ngừng

Nhưng còn ích kỷ ngập lòng

Chỉ tham tư lợi, chẳng mong giúp đời

Ai sao cứ mặc kệ người

Của cướp được rồi là của riêng ta

Chiến tranh vì có tâm tà

Không còn công lý, chẳng hòa bình đâu

Chỉ lo khấn vái, van cầu

Nếu không hành động, Chúa đâu nhậm lời

Bao người đau khổ giữa đời

Mình thản nhiên cười, vô cảm vậy sao?

Hòa bình chẳng có thấy đâu

Bởi đường gian ác còn nhiều quanh co

Cầu xin Thiên Chúa nhân từ

Ra tay giải thoát, cứu qua khốn cùng

Xin Thánh Linh đánh động lòng

Cho nhân loại biết yêu thương chân thành

Cầu xin Đức Mẹ nhân lành

Giúp đời yêu mến vòng tình Mân Côi

Từ lâu Mẹ đã hứa rồi

Mân Côi siêng đọc, vui đời bình an. mục lục

TRẦM THIÊN THU

Lễ Thánh Mẫu Thiên Chúa – 2019

MẸ THIÊN CHÚA

Muốn cho Ngôi Hai cứu đời

Thiên Chúa tuyển chọn một người nữ trinh

Đoan trang kiều diễm thông minh 

Vô nhiễm nguyên tội đẹp xinh giữa đời.

Công dung ngôn hạnh tuyệt vời

Maria xứng đáng là người cứu tinh

Thiên sứ Truyền lệnh Thiên Đình

Sinh Con Thiên Chúa cứu tinh nhờ Người.

Nghe xong lòng dạ rối bời

Vợ chồng là việc của người trần gian

Tôi là Trinh nữ phận an

Lo sống cho xứng con ngoan Chúa Trời. 

Chúa Cha soi sáng ý Người

Tinh thần vui vẻ nhẹ vơi tâm hồn

Xua tan lo lắng bồn chồn 

Trinh Nữ ưng Thuận thiện ngôn một lời.

“Xin vâng Thánh ý Chúa trời” 

Ngôi Hai Thiên Chúa tức thời Đậu Thai

Thánh Thần gìn giữ Ngôi Thai

Trong lòng Trinh Nữ Ngôi Hai vẹn toàn.

“Xin vâng” hai tiếng khôn ngoan

Kéo nguồn cứu độ nhân gian an bình

Bê-Lem Con Chúa giáng sinh

Chiên bò sưởi ấm, thiên binh kính thờ.

Thiên Thần truyền lệnh bất ngờ

Rô-đê tìm giết bây giờ kíp đi

Xa hương lánh nạn cấp kỳ

Giuse cuốn gói còn gì khổ hơn.

Cha Mẹ lao động nuôi con

Trời yên biển lặng qua cơn truy lùng

Trở về quê cũ lao công

Thánh Gia an phận qua dòng thời gian.

Giêsu ngày thêm khôn ngoan`

Ba năm giảng đao trần gian hướng nhờ

Cứu vớt nhân loại tội nhơ

Thoát ách nô lệ bơ vơ lạc đường

Mẹ đầy ơn phúc Thiên Vương 

Mừng Mẹ Thiên Chúa Triều đường hoan ca. mục lục

Giuse Ngô Xuân Thủy

Với mục đích để Lời Chúa được loan truyền và thông tin Giáo hội được lan tỏa, Legio Mariæ sẵn lòng để các tổ chức và cá nhân sử dụng lại tin bài đã đăng trên báo giấy và báo mạng legiomariævn.com của mình.

Tuy nhiên, vì đức công bằng và sự bác ái, xin quý vị vui lòng ghi đầy đủ nguồn như sau: “Theo Đạo Binh Đức Mẹ, website: legiomariævn.com”.

Ngoài ra, nếu chia sẻ bài lên mạng xã hội (Facebook, Twitter…), đề nghị dùng đường dẫn gốc trên website của Đạo Binh Đức Mẹ.

Tin liên quan