CHÚA NHẬT I MÙA CHAY - NĂM A

27-02-2020 2,043 lượt xem

(St 2,7-9; 3,1-7; Rm 5,12-19; Mt 4,1-11)

Click vào Mục Lục

TRỞ VỀ + ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên

SỐNG ĐẸP LÒNG CHÚALm. Giuse Nguyễn Hữu An

CÁM DỖJM. Lam Thy ĐVD

CÁM DỖ - MẠNH MẼ - CHIẾN THẮNGLm. JB. Nguyễn Minh Hùng

BẪY ĐỜITrầm Thiên Thu

THỬ THÁCH VÀ LỰA CHỌN Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, O.P.

HÃY CẢNH GIÁC TRƯỚC CÁM DỖJos. Vinct. Ngọc Biển, SSP

XIN ƠN CHÚA GIÚP ĐỂ CHỐNG TRẢ TÊN CÁM DỖ Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

LẠY CHÚA, XIN THƯƠNG XÓT CHÚNG CONBác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD

Thơ: CƠN CÁM DỖ Viễn Dzu Tử

Thơ: ĂN CHAY VÀ CẦU NGUYỆN (Thế Kiên Dominic)

TRỞ VỀ

+ ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên

Nếu người lữ khách cần dừng chân để xác định phương hướng và nhìn lại chặng đường đã qua, mỗi chúng ta cũng cần phải có những điểm dừng để nhìn lại cuộc đời đang sống. Như bản nhạc cuộc đời có những dấu lặng để tăng thêm âm điệu sâu lắng, cuộc sống của chúng ta cũng phải có những giây phút thinh lặng để trở về với chính mình. Mùa Chay chính là điểm dừng chân để nhìn lại chặng đường đời đã qua. Mùa Chay cũng chính là dấu lặng trong bản nhạc cuộc đời, để giúp chúng ta suy xét những hay dở, những phải trái trong cuộc đời đầy đa đoan này. Phụng vụ của Giáo Hội đã mượn lời thánh Phaolô để gọi Mùa Chay là “mùa Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ” (x. 2 Cr 62b).

Bốn mươi ngày của Mùa Chay phác họa nhiều sự kiện quan trọng trong Cựu Ước. Đó là 40 ngày mưa lớn gây trận Đại hồng thủy để xóa sạch nhân loại vương tội lỗi. Đó cũng là 40 ngày ngôn sứ Elia chạy trốn trước sự săn đuổi của vua Achab và hoàng hậu Isabel, sau khi ông “đơn thương độc mã” chiến đấu với 450 tiên tri của thần Baal và 400 tiên tri của thần A-sê-ra. Ông đã chiến thắng và làm cho những tiên tri này hổ thẹn và bị giết. Mùa Chay cũng nhắc lại 40 năm dân Do Thái lữ hành về Đất hứa. Đặc biệt, 40 ngày của Mùa Chay nhắc lại 40 ngày Chúa Giêsu vào hoang địa ăn chay và cầu nguyện. Ở đó, Người chịu cám dỗ và đã chiến thắng cám dỗ.

Thực ra, Thiên Chúa thi ân và ban ơn cứu độ trong mọi nơi, mọi lúc và cho mọi người. Ơn cứu độ và phúc lành của Chúa như mưa xuống cho mọi tạo vật, như ánh mặt trời chiếu soi khắp mặt đất. Tuy vậy, Mùa Chay là thời điểm thuận lợi để chúng ta đón nhận phúc lành của Chúa. Phụng vụ Mùa Chay là lời mời gọi chúng ta hãy trở về.

Trước hết là trở về với Chúa: Giáo lý Công giáo dạy chúng ta: mỗi khi phạm tội là chúng ta đi lạc đường. Dù thuộc nền văn hóa hay chủng tộc nào, Thiên Chúa luôn mời gọi con người bước đi trên con đường công chính, trung thành tuân giữ những giáo huấn Ngài đã truyền dạy. Phạm tội là đi ngược lại với những gì Chúa muốn. Tội lỗi làm cho con người xa Chúa, không còn sống trong mối thân tình mật thiết với Ngài nữa. Tác giả sách Sáng Thế, trong Bài đọc I của Phụng vụ hôm nay đã viết về sự sa ngã của đôi bạn đầu tiên của nhân loại, tức là ông Ađam và bà Evà. Đây là trang sử buồn, để lại dấu ấn không phai mờ về sự phản bội của con người đối với những lệnh truyền của Chúa. Đây cũng biến cố đau thương, làm cho con người và Thiên Chúa xa nhau. Trình thuật này được đọc lên trong phụng vụ của Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay đề giúp chúng ta nhận ra thận phận hèn yếu của mình.

Có lẽ bà Evà nghĩ rằng: ăn một trái cây có quan trọng gì! Tuy vậy, vấn đề ở đây không phải chỉ là một trái cây mà là lệnh truyền của Thiên Chúa. Con rắn là tác nhân trực tiếp của cám dỗ. Ở đây nó được trình bày giống như một con người, cũng lý luận, kích động, gieo rắc nghi ngờ. Không chỉ là thèm muốn một trái cây “ăn thì ngon, trông thì đẹp mắt”, mà bà Evà còn nghi ngờ lòng tốt của Thiên Chúa. Thế ra, Ngài không tốt lành như bà nghĩ trước đây, vì Ngài sợ bà trở nên khôn ngoan biết mọi sự nên Ngài cấm bà không được đụng vào trái của cây ở giữa vườn. Một khi bà nghi ngờ Thiên Chúa, thì bà cũng phủ nhận hết những điều tốt đẹp Chúa đã làm cho hai ông bà. Sự nghi ngờ lòng tốt của Chúa là lý do dẫn đến việc bà phạm tội, tức là ăn trái cấm. 

Trình thuật cám dỗ của tác giả sách Sáng thế cho chúng ta thấy sự bất hạnh của thân phận con người khi họ phạm tội. Sự bất hạnh này được diễn tả qua mâu thuẫn trái ngược giữa lời hứa của con rắn với thực trạng của ông bà sau khi phạm tội. Mắt ông bà mở ra, nhưng thay vì họ trở nên như những vị thần như con rắn hứa hẹn, thì ông bà lại thấy mình trần truồng. Một sự thật nghiệt ngã mà ông bà phải chứng kiến đó là sự bất hạnh và xấu hổ nhục nhã của ông bà sau khi phạm tội. Xấu hổ về sự trần truồng là hậu quả của tội, vì trước đó ông bà cũng trần truồng mà không xấu hổ. Điều ông bà khám phá sau khi phạm tội không phải là phẩm giá cao quý của mình như con rắn đã rủ rê, mà là sự bất hạnh, sự yếu hèn, cô độc và đáng thương.

Trở về với Chúa chính là tâm tình sám hối, nhận ra thân phận tội lỗi và yếu hèn của mình, để xin Chúa tha thứ.

Tinh thần trở về của Mùa Chay cũng là trở về với chính mình: con người bôn ba vật lộn với cuộc sống, đầy những toan tính bon chen, nhiều khi đánh mất chính mình. Họ không nhận ra mình là ai trong vũ trụ mênh mông này. Ađam và Evà đã chối bỏ thân phận thụ tạo, muốn nên ngang hàng với Thiên Chúa. Con người ngày nay đánh mất mình khi chối bỏ sự hiện hiện của Chúa trong cuộc đời và không muốn nhận mối tương quan giữa thụ tạo với Đấng Tạo Hóa. Khi đánh mất mình, con người cũng phủ nhận mối tương quan với anh chị em mình, để rồi sống ích kỷ, hận thù, bất bao dung và chia rẽ oán hờn. Mùa Chay nhắc chúng ta hãy trở về với chính mình nhận ra mình chỉ là một “đóa hoa vô thường” trong vũ trụ. Như một đóa hoa nay còn mai mất, chúng ta cần phải hướng về vĩnh cửu, bằng những cố gắng nên hoàn thiện trong đời sống hiện tại.

Sau cùng, Mùa Chay là mùa trở về với tha nhân: Con người sống trên trần gian không phải là những ốc đảo cô đơn, nhưng có liên đới với anh chị em mình. Những mâu thuẫn nảy sinh ở mọi lãnh vực khác nhau đều phát xuất từ tính ti tiện, ích kỷ và ghen tương. Trở về với tha nhân là nhận ra nơi họ những điểm tốt lành, đồng thời nhận ra nơi chính bản thân chúng ta cũng có những khuyết điểm. Trở về với tha nhân là thực thi lòng bao dung nhân hậu đối với những lầm lỗi của người khác. Thánh Phêrô đã hỏi Chúa Giêsu: “Nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? có phải bảy lần không?. Chúa trả lời: “Thày không bảo là đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18,21-22). Như thế, sự tha thứ không dừng lại ở những con số, nhưng là tha thứ vô điều kiện. Hơn nữa, cùng với sự tha thứ bao dung, chúng ta còn thể hiện tình yêu mến đối với người xúc phạm mình. Nếu con người biết thực thi lòng bao dung đối với nhau, thì cuộc đời này sẽ tươi đẹp biết bao, và vương quốc Đức Giêsu rao giảng sẽ được thực hiện trên trần gian này.

Để thực sự trở về với Chúa, với chính mình và với tha nhân, con người phải trải qua những chiến đầu kiên cường. Phụng vụ Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay giới thiệu với chúng ta Đức Giêsu chiến đấu chống lại những cám dỗ của ma quỷ. Tên cám dỗ, đã xuất hiện ở đầu lịch sử để cám dỗ ông Ađam và bà Evà, giờ đây lại tái xuất để cám dỗ Chúa Giêsu trong hoang địa. Thánh Matthêu đã gọi đích danh tên cám dỗ là “quỷ”. Khi đặt ra những điều hấp dẫn gọi mời, không phải quỷ có ý thử xem Chúa có phải là Đấng Thiên Sai hay không, nhưng nó muốn phá vỡ chương trình của Thiên Chúa. Thực ra, quỷ biết rõ Chúa Giêsu là ai. Sau này nhiều lần chúng đã hô lên trước đám đông để nói về thân phận và nguồn gốc của Người. Ví dụ trường hợp được thánh Mác-cô ghi lại: khi Chúa Giêsu chữa cho người bị thần ô uế nhập tại Hội đường Caphanaum, thần ô uế đã la lớn tiếng rằng: “Ông Giêsu Nagiarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệu chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Mc 1-23-24). Theo trình thuật của thánh Mátthêu, ma quỷ đã cám dỗ Chúa Giêsu cùng một cách thức như nó đã cám dỗ bà Evà. Cũng vuốt ve, cũng lý luận, cũng hứa hẹn. Như chúng ta thấy, Chúa Giêsu không chịu khuất phục trước những lời ngon ngọt của ma quỷ. Người đã chiến thắng cám dỗ. Người không để cho quỷ lừa đảo bằng những “lời nói có cánh” dịu ngọt của nó.

Lịch sử không may có Ađam là nguyên nhân gây nên tội ảnh hưởng mọi thế hệ, nhưng lại may mắn vì có Chúa Giêsu. Thiên Chúa không bỏ rơi con người dưới ách của sự chết. Ngài đã có sáng kiến sai Con Một của Ngài đến trần gian để phục hồi phẩm giá của họ, dẫn họ về với tình trạng thánh thiện của thời ban đầu, thời mà Chúa hằng ngày đi dạo với con người trong làn gió hiu hiu thổi của buổi chiều hôm. Nhờ Đức Giêsu mà hôm nay, chúng ta không chỉ đi đàm đạo với Chúa, mà được Chúa nhận làm con, được Chúa nuôi dưỡng và yêu thương ấp ủ vỗ về. Thánh Phaolô, trong Bài đọc II đã khẳng định: “Tình yêu  thương của Chúa mãnh liệt đến nỗi ở đâu tội lỗi lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội. Thánh nhân cũng đã so sáng giữa ông Ađam ở khởi đầu lịch sử với Đức Giêsu Kitô, đấng được gọi là Ađam thứ hai, cũng là Ađam cuối cùng. Nếu Ađam thứ nhất là nguyên nhân của sự chết, thì Đức Giêsu là nguyên lý của sự sống. Nhờ Đức Giêsu và trong Đức Giêsu, mà nhân phẩm và danh dự của chúng ta được phục hồi.

Ma quỷ đã xuất hiện ở khởi đầu lịch sử để cám dỗ bà Evà. Nó cũng đã xuất hiện khi Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đời công khai để loan báo Tin Mừng. Ma quỷ cũng vẫn đang hiện diện trong cuộc đời để lừa lọc, gây chia rẽ và làm cho chúng ta xa cách Chúa. Vì thế, Mùa Chay là mùa chiến đấu thiêng liêng giữa ánh sáng với tối tăm, giữa thánh thiện với tội lỗi. Mùa chay cũng là mùa trở về để nối lại tình xưa nghĩa cũ với Thiên Chúa trước khi con người phạm tội, để nối lại tình huynh đệ thân thương với anh chị em mình. Nhờ thành tâm trở về, mỗi chúng ta sẽ được canh tân, hòa giải và trở nên tạo vật mới trong Đức Kitô. mục lục

SỐNG ĐẸP LÒNG CHÚA

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Hàng năm, Phúc Âm Chúa Nhật I Mùa Chay đều nói về cám dỗ. Chúa Giêsu vào hoang địa. Sau bốn mươi đêm ngày ăn chay và cầu nguyện, Satan xuất hiện và cám dỗ. Chúa Giêsu đã chiến thắng Satan.

1. Đọc lại câu chuyện Sáng Thế (St 3,1- 7): Cám dỗ và sa ngã

Rắn là vật tinh ranh hơn mọi dã thú (3,1a). Rắn là loài có hình thù và cách di chuyển đặc biệt; nó khôn khéo và nguy hiểm làm người ta sợ và ghê tởm. Nhiều tôn giáo (cụ thể tại Canaan) coi rắn như thần và nó có vai trò trong việc ma thuật và biểu tượng sự sinh sản phong phú. Ở đây, rắn biểu tượng cho sự độc ác và khôn khéo, tìm cách phá hoại hạnh phúc con người bằng cách phá đổ mối thân thiện giữa con người với Thiên Chúa. Sách Khôn Ngoan ví rắn là quỷ dữ (Satan): “Chính vì quỷ dữ ganh tỵ, mà cái chết xâm nhập thế gian” (Kn 2,24); Khải Huyền gọi là Satan, ma quỷ (Kh 12,9); (1Ga 3,8).

Rắn quỷ quyệt đưa ra một câu hỏi bâng quơ: “Các ngươi không được ăn hết mọi trái cây trong vườn không?” (3,1b). Quả là một câu hỏi khôn khéo và nguy hiểm vì có hai nghĩa:

- Không được ăn tất cả, chỉ một số nào đó thôi.
- Không được ăn cây nào cả.

Rõ ràng, lời này có ý xuyên tạc hoàn toàn ý Thiên Chúa, và như thế có tác dụng lôi kéo người nữ vào câu chuyện. Người nữ phản kháng : Quả cây trong vườn chúng tôi được ăn. Nhưng về quả cây ở giữa vườn thì Thiên Chúa đã phán : các ngươi không được ăn, không được rờ đến kẻo phải chết (3,2). Việc đầu tiên là người nữ thấy cần phải đính chính để bênh vực Chúa, và nói quá đi (không được đụng tới) như thể xác định một lệnh truyền nghiêm nhặt để giữ mình.

Con rắn ngọt ngào dụ dỗ : Chẳng chết chóc gì đâu ! quả nhiên Thiên Chúa biết, ngày nào các ngươi ăn nó, mắt các ngươi sẽ mở ra và các ngươi sẽ nên như những Thiên Chúa biết cả tốt xấu. (3,4-5). Hết sức khôn khéo, rắn không xúi giục ăn trái cấm, nhưng tạo nên trong lòng con người sự nghi ngờ Lời Chúa. Nó quả quyết mình biết Chúa hơn người nữ và thuyết phục bà bớt tin tưởng để phán đoán rằng, biết đâu Thiên Chúa cấm vì sợ con người sẽ bằng mình. Các ngươi sẽ như Êlohim (giống Êlohim) là những kẻ biết thiện ác. Biết không nguyên bằng trí thức nhưng còn là kinh nghiệm; biết là làm chủ được sức mạnh thần bí. Rắn gợi cho con người nghĩ là họ có thể mở rộng cuộc sống vượt qua những giới hạn mà Chúa đã đặt, để họ có quyền định đoạt tốt xấu cho mình nghĩa là định mệnh cuộc đời mình, và như thế là đồng nghĩa với sự từ chối lệ thuộc Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, tức là kiêu ngạo muốn tách mình ra khỏi Thiên Chúa.

Người đàn bà đã nhìn : quả là cây ăn phải ngon. Mà nhìn thì đã sướng mắt. Nó đáng quý thực, cái cây ấy, để được tinh khôn (3,6). Rắn không nói gì thêm. Cần đi vào yên lặng để những lời cám dỗ trên được lắng sâu vào trí óc và cõi lòng. Nó tác động từ giác quan, đi vào trí khôn tạo lòng muốn. Người nữ ngắm nghía trái cây thấy ngon (giác quan - cảm giác), mát mắt (thẩm mỹ) và đáng thèm khát để được Khôn Ngoan, thông minh như Chúa, nên giống Chúa. Và bà đã hái lấy quả mà ăn, và bà cũng trao cho chồng ở bên bà đưa cho chồng. (3,6). Người bị dụ dỗ trở hành kẻ dụ dỗ. Nàng chia cho chồng với ước mơ hão huyền là chồng được thông minh như Thiên Chúa.

Tại sao trong tình trạng sáng suốt và quân bình ban đầu, con người có thể bị sa ngã? Xét cho cùng, dầu sao họ cũng chỉ là thụ tạo bất toàn, với thân phận mỏng manh. Điều quan trọng đó là họ luôn có tự do để phán đoán và quyết định. Và ông đã ăn (3,6). Lời Thánh Kinh thật vắn gọn diễn tả sự yếu đuối, nhu nhược của Ađam và ông đã sa ngã. Mắt hai người mở ra (3,7). Đúng như lời rắn nói, bây giờ họ thấy một cái gì mới, nhưng cách khác hẳn họ tưởng: thay vì trở nên thần linh biết thiện ác, họ biết mình trần truồng. Tất nhiên, trước khi phạm tội, họ trần truồng nhưng coi đó là tự nhiên và không xấu hổ. Bây giờ sự vô tội đã mất, xấu hổ là dấu chỉ của ý thức tội lỗi họ có; tội đã gây nên trong thẳm sâu con người sự đổ vỡ: thế quân bình và hòa hợp giữa tinh thần và thể xác đã mất, con người không còn làm chủ được mình nữa, và vì thế cảm thấy xấu hổ trước mặt nhau.

Sau khi sa ngã, hai người lẫn trốn Thiên Chúa. Họ đi trốn chứng tỏ lương tâm hối hận vì đã không vâng lời. Tội phá vỡ sự hài hòa với chính mình. Để chạy tội, con người như đổ lỗi cho Chúa: người đàn bà mà Chúa đã đã đặt bên tôi, chính y thị đã hái nơi cây ấy cho tôi, nên tôi đã ăn ( 3,12). Người đàn ông đỗ lỗi cho Chúa : chung quy chỉ vì Chúa cho tôi người đàn bà ở với tôi.

Người nữ đổ tội cho rắn : Con rắn dụ dỗ tôi nên tôi đã ăn (3,13). Cả hai câu nói trên tỏ lộ mối rạn nứt giữa người với nhau. Sự liên đới trong tội bị phủ nhận, người ta đổ trách nhiệm cho nhau. Sự đồng phạm không liên kết con người trước mặt Chúa, nhưng làm họ ra lẻ loi. Tội bắt đầu gây chia rẽ và phá vỡ mối tương quan hài hòa giữa người với nhau.

2. Ý nghĩa “con rắn” và “trái cấm”

Tại sao Kinh Thánh chọn loài “rắn” làm hiện thân cho Satan? Còn “trái cấm” có ý nghĩa hiện sinh gì trong cuộc sống không?

a. Con rắn

Trước tiên, hình ảnh “rắn” rất quen thuộc trong Cựu Ước. Cái tên “Satan” (Quỉ Vương) có sẵn trong các tôn giáo cổ xưa, nhưng Do Thái là tôn giáo đầu tiên cho rắn đội lốt Satan đến cám dỗ con người ăn trái cây “biết lành biết dữ”. Rắn cũng xuất hiện lần nữa khi Môisen và Aaron ném gậy xuống đất hòa thành rắn để Pharao cho dân Chúa đi tự do. Trong sa mạc, Môisen đúc rắn đồng treo lên cây cao, hễ ai bị rắn cắn nhìn vào đó sẽ được khỏi. Có thể hiểu “bị rắn cắn” theo nghĩa rộng như là một sự chùn chân, chán nản, không muốn tiếp tục cuộc hành trình qua sa mạc. Trong 40 năm lưu lạc trong sa mạc, dân Do Thái có lẽ đã tiếp xúc, đụng độ hoặc muốn đồng hóa với các bộ lạc thờ rắn sống trong vùng, và Môisen phải đúc rắn đồng riêng cho dân Do Thái để họ lên tinh thần mà tiếp tục cuộc hành trình về đất hứa. Ngày nay, các nhà khảo cổ đã tìm thấy được một số rắn đồng tại vùng mỏ đồng sa mạc Araba.

Ngoài Kinh Thánh ra cũng có nhiều chuyện thần thoại khác về rắn đã được lưu hành trước đó rất lâu. Chuyện thần thoại Gilgamesh ở xứ Sumeria, kể lại vua Utnaphistim và vợ ông ta đã tìm được một loài cây trường sinh, nhưng trước khi có dịp ăn quả trường sinh thì có một con rắn đã đánh cắp cây quý khỏi tay nhà vua, và từ đó không ai có thể sống đời đời nữa. Điển tích về rắn cướp lấy cơ hội trường sinh bất tử ảnh hưởng ít nhiều vào sự tích Satan hóa thân con rắn đến cám dỗ Evà, từ đó loài người mất đi cơ hội sống đời đời. Phải đợi đến thời Kitô giáo, “trái cấm” được thay thế bằng “Mình và Máu” của Chiên Thiên Chúa. Cũng như thế, Evà , người nữ đem trái cấm đến cho Ađam ăn, sẽ được thay thế bằng Đức Trinh Nữ Maria, người “chưa hề biết đến một người nam”. Ngoài ra, cuộc chiến giữa rắn tiền sử và thần Marduk nói lên nhu cầu hy sinh đổ máu của “thần thánh” để loài người được sống. Khái niệm thần thánh trở thành của lễ hiến tế để đem lại sự sống cho nhân loại có lẽ không xa lạ cho lắm đối với hậu cảnh văn hóa và tôn giáo của Cựu Ước và Tân Ước. Tư tưởng “máu đào tử đạo là hạt giống đức tin” có lẽ cũng mang ảnh hưởng phần nào của khái niệm trên đây.

Với quan niệm của người Á Đông xem rồng như là vật linh thiêng, thì dân tộc Trung Đông cũng tôn thờ rắn vậy. Rắn đại diện cho sự khôn ngoan, nhanh nhẹn và cả sự nguy hiểm, trả thù độc địa nếu cần. Dân tộc xứ Syria xem rắn như một thần phù trợ. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy tại các đền thờ, các tạc hình “đầu rắn” vì họ tin thần rắn sẽ cắn chết những kẻ xâm lăng và bảo vệ dân chúng khỏi hiểm nguy bệnh tật. Khi thấy rắn lột da nhưng vẫn sống, người ta tin rắn có bí quyết trường sinh bất tử. Người Hy Lạp có thần Asklepios chữa bệnh mang dấu hiệu hình rắn mà ngày nay vẫn thấy tại các tiệm thuốc tây, văn phòng bác sĩ, hoặc nhà thương. Người Việt tin là rắn có trí nhớ và khả năng trả thù như trong chuyện Nguyễn Trãi giết cả một tổ rắn hổ mang và sau này bị rắn trở lại báo oán (tru di tam tộc).

b. Trái cấm

Vì sự tinh ranh của rắn, Satan đội lốt rắn để đem “trái cấm” đến dụ dỗ con người. Nhưng “trái cấm” có ý nghĩa gì không? Cũng như các ngụ ngôn Đức Giêsu dùng để giảng dạy trong Tân Ước, ngôn ngữ huyền thoại của sách Sáng Thế không phải là loại ngôn ngữ cứng rắn của siêu hình học. Muốn hiểu ý nghĩa sâu sắc của nó chúng ta cần phải đặt mình vào trong bối cảnh và ngữ cảnh của câu chuyện.

Vì thế, ở đây chúng ta hãy giải thích “trái cấm” qua lăng kính hiện sinh. Nếu xét theo kinh nghiệm trưởng thành của mỗi người, chúng ta có thể diễn đạt ý nghĩa của “trái cấm” qua ba giai đoạn sau đây.
Trước tiên, “vườn địa đàng” đại diện cho tuổi còn bé thơ, sống trong vô tư và trần truồng, mọi miếng ăn thức uống đều lệ thuộc vào cha mẹ, chỉ biết chơi đùa với thú vật, mỗi buổi chiều tà cha mẹ dẫn đi chơi hay ngồi nghỉ dưới bóng mát của hàng cây.

Giai đoạn “Ađam và Evà bị cám dỗ” nói lên những khủng hoảng thường gặp phải trong tuổi dậy thì. Đây là cái tuổi thích mạo hiểm và tự do, hay chống đối lại bề trên nhưng không màng đến hậu quả xấu. Ở giai đoạn này, tính tình thì rất nông nổi và bồng bột, dễ bị quyến rũ và sa ngã về tính dục và tình cảm.

Cuối cùng, giai đoạn “sống ngoài vườn địa đàng” nói lên sự trưởng thành, đầy đủ nghị lực và trách nhiệm để tự lập. Đàn ông tự kiếm sống với mồ hôi nước mắt của chính mình, đàn bà mang nặng đẻ đau, nhưng cả hai sẵn sàng chấp nhận mọi vất vả để tạo dựng mái ấm gia đình riêng cho họ. Vườn địa đàng có thiên thần “cầm gươm đứng gác cửa” ngăn chận không cho con người trốn chạy trách nhiệm hay trở về với tổ ấm của cha mẹ, nhưng phải đương đầu với thực tại đau khổ và biết giá trị của sự chọn lựa. Nói cách khác, “trái cấm” đánh dấu một khúc quanh quan trọng trong đời người. Khi lớn lên không tránh khỏi những sai lầm hay sa ngã, nhưng chỉ qua đó, con người mới làm chủ vận mệnh và chịu trách nhiệm cho sự chọn lựa của mình. Đó có thể là lý do tại sao “trái cấm” được gọi là trái của “cây biết lành biết dữ”. (x. Nội san chia sẻ, số 52, tháng 12, năm 2006, trang 79-82).

3. Chiến thắng cám dỗ theo gương Chúa Giêsu

Trong hành trình về đất Hứa, dân Israel đi trong sa mạc một thời gian dài và đã gặp nhiều cám dỗ: cám dỗ trở lại Ai cập để có bánh ăn; cám dỗ thờ tượng con bê vàng; cám dỗ thử thách Thiên Chúa.

Thánh Gioan Kim Khẩu đã quả quyết: “Trên đời này không ai mà không bị cám dỗ”. Con người “già cái lợi cái răng, nhưng ba cái lăng nhăng không già”.

Như vậy cám dỗ là một cái gì hết sức mạnh mẽ, hết sức lôi cuốn, và rất khó chống cự. Chúa Giêsu đã chiến thắng mọi cám dỗ của Satan bằng Lời Chúa và đời sống chay tịnh cầu nguyện, luôn tín thác vào Chúa Cha. Lời Chúa là sức mạnh tâm linh, là lẽ sống thần linh và là lời ban sự sống. Đọc và suy gẫm Thánh Kinh sẽ đem lại cho chúng ta sức mạnh để chiến thắng tội lỗi. Gương của Chúa Giêsu được Tin Mừng Thánh Luca kể rõ: mỗi lần ma quỉ đưa ra một chước cám dỗ thì Chúa Giêsu lại lấy một lời của Kinh Thánh mà đẩy lui chước cám dỗ ấy:

- Có lời chép rằng: người ta không sống bằng cơm bánh mà còn bằng lời của Thiên Chúa nữa.(Lc 4,5)
- Có lời chép rằng:ngươi phải thờ lạy Chuá là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ một mình Người.(Lc 4,8)
- Có lời chép rằng: ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi.(Lc 4, 11).

Dường như suốt cả cuộc đời, Chúa Giêsu luôn bị Satan tấn công : “ Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỹ bỏ đi, chờ đợi thời cơ ”. (Lc 4,13). Nhất là vào những giây phút cuối đời của Người. Trong vườn Giêtsêmani, khi đối diện với khổ nạn và cái chết đang cận kề, Chúa Giêsu không khỏi sợ hãi đến nổi mồ hôi đổ ra như máu. Người đã thân thưa cùng Chúa Cha đến hai lần: “ Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha ”. (Mt 26, 39b) ; “ Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha ”. (Mt 26, 42b).

Chủ yếu cám dỗ của ma quỷ là làm sao tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa Cha. Mỗi người ở mỗi hoàn cảnh đều có thể bị nó cám dỗ để chia cắt tình yêu của mình với Chúa. Dựa vào sức mình, vào khả năng của mình… mà không biết cậy dựa vào tình yêu Chúa thì chúng ta đang bị rơi vào tròng của ma quỷ.

Mùa Chay là thời gian đặc biệt để xét mình, để sám hối canh tân bản thân, nhờ đó mà sống đẹp lòng Chúa mỗi ngày.

Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận có kể lại một câu chuyện về mẹ của ngài trong một diễn văn nhân lễ mở tay mừng tân chức như sau: "Cách đây khá lâu có hai linh mục đến thăm mẹ già của tôi tại Úc châu và hỏi bà: "Bà cố có muốn Đức Cha Thuận làm hồng y không?" Bà cụ (nay đã 98 tuổi) trả lời: "Không! Tôi dâng con tôi cho Chúa là để tế lễ Người, như thế là đủ! Tôi chẳng cần con tôi làm hồng y đâu" - "Nhưng lên hồng y sẽ làm vinh danh Chúa hơn!" - "Thế hai cha không làm vinh danh Chúa à?". Mới đây, sau khi Đức Cha Thuận được tấn phong hồng y thực thụ, một trong hai linh mục hôm nọ cùng một vị khác lại gặp bà cụ và hỏi: "Nay Đức Cha Thuận đã lên hồng y rồi, bà cố có vui không?" - "Dạ vui chớ!" - "Sao hôm nọ, bà cố đã trả lời là không muốn con bà làm hồng y!" - "Nay tôi vui vì đó là ơn Chúa cho. Có chức quyền to ở trần đời dễ làm bậy lắm! Còn chức quyền to trong Giáo Hội thì phải lo mà chu toàn theo ý Chúa" - "Vậy bây giờ Đức Cha đã lên hồng y, bà cố cầu nguyện gì cho đức Hồng y?" - "Tôi chỉ cầu nguyện cho con tôi sống đẹp lòng Chúa!" - "Thế thôi à?" - "Vâng, sống đẹp lòng Chúa, đó là điều duy nhất tôi luôn cầu nguyện cho con tôi!". mục lục

CÁM DỖ

JM. Lam Thy ĐVD

Nguyên tổ A-đam và E-va đã lỗi phạm điều giao ước với Thiên Chúa khi nghe theo cám dỗ của con rắn ma quỷ. Đến như A-đam Mới Giê-su Ki-tô cũng không thoát khỏi cám dỗ, nhưng Người đã chiến thắng Xa-tan nhờ khiêm nhường tuân phục thánh ý Chúa Cha. Còn Ki-tô hữu, tất cả cuộc đời là phải sống những điều đã hứa khi được rửa tội, tức giao ước giữa tín hữu với Thiên Chúa; nhưng ma quỷ luôn cám dỗ hãy coi thường và đừng thực thi những lời hứa đó.  Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trình bày những cám dỗ ấy.

Theo từ nguyên, cám dỗ là "Khêu gợi lòng ham muốn đến mức làm cho sa ngã". Nói đến cám dỗ là nói đến những vuốt ve nhẹ nhàng, những mời mọc hấp dẫn, cùng với những phong toả ngọt ngào, khó lòng từ chối, vượt thoát. Con người đứng trước những cám dỗ của ba thù, thường thì khó lòng cưỡng nổi, bị khuất phục là cái chắc. Chỉ cần một kẻ thù là Xa-tan cám dỗ cũng đã thấy khó lòng chống đỡ nổi, huống hồ tới ba kẻ thù cùng lúc tấn công thì làm sao tránh khỏi sa chước cám dỗ? Nhưng 3 kẻ thù đó là ai mà ghê gớm vậy? Đó chính là: 1- Dục vọng của bản thân; 2- Hấp lực của thế gian; 3- Cạm bẫy của Xa-tan. Nói con người đứng trước ba thù vây hãm cũng chẳng khác gì một thành trì bị "thù trong – giặc ngoài" hãm hại, chỉ còn nước bó tay chờ chết (bó-tay-chấm-com!).     

Đó là nói về con người trần thế, nhưng vấn đề đặt ra hôm nay là tại sao Đức Giê-su là Thiên Chúa mà còn bị ma quỷ cám dỗ không chỉ một lần mà tới 2 lần: Bài Tin Mừng hôm nay (CN.I/MC-A – Mt 4, 1-11) trình thuật trước khi khai mạc sứ vụ, Đức Giê-su vào  hoang địa ăn chay 40 đêm ngày và chịu để ma quỷ cám dỗ. Sau đó, trước khi chính thức bước vào cuộc thương khó, Người lại bị cám dỗ tại vườn Ghết-sê-ma-ni, đến độ phải kêu lên với Chúa Cha: “Áp-ba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con.” (Mc 14, 36). 

Cứ xét chuyện Đức Giê-su bị cám dỗ sẽ thấy ma quỷ rất sành tâm lý, chúng không chỉ cám dỗ về vật chất mà còn cả về tinh thần nữa: Về vật chất, chúng đem miếng ăn, sự vinh hoa phú quý trần thế làm mồi nhử; về mặt tinh thần, chúng đánh ngay vào tính tự cao tự đại của con người, lấy quyền lực siêu phàm làm mồi nhử. Với Đức Giê-su Ki-tô thì chuyện ma quỷ cám dỗ chỉ là chuyện nhỏ (bằng chứng là khi chúng đi quá lố, Đức Giê-su ngay lập tức đã đuổi thẳng: "Xa-tan kia, xéo đi!" – Mt 4, 10); nhưng sở dĩ Chúa chịu để ma quỷ cám dỗ, cũng là có ý muốn làm gương để răn dạy mọi người hãy cảnh giác trước mưu mô thâm độc của ba thù. Nói ma quỷ rất sành tâm lý, vậy tại sao chúng thất bại? Chuyện cũng dễ hiểu, ma quỷ dù biết Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật (bản tính Thiên Chúa), nhưng trước mắt chúng là một chàng thanh niên Giê-su bằng xương bằng thịt (bản tính loài người) như mọi người bình thường khác, vì thế chúng đem chính những thứ mà con người trần tục thường mê đắm để làm mồi cám dỗ, hầu có thể hạ gục Người. 

Trước hết, chúng biết Đức Giê-su vào hoang địa ăn chay 40 đêm ngày, chắc chắn Người phải đói bụng, vậy thì miếng ăn lúc này là mồi nhử hữu hiệu nhất, bởi chính đây mới là kẻ thù đáng sợ nhất của con người trần thế: Đó là kẻ thù từ bên trong (tự thân chủ thể) – là "thù trong" chớ không phải "giặc ngoài" – kẻ thù đến từ bên ngoài (khách thể). Tuy nhiên, có một điều rất đáng lưu ý là ma quỷ không đưa bánh thật ra, mà lại đưa một hòn đá rồi bảo Đức Giê-su hoá phép cho hòn đá ấy biến thành bánh mà ăn. Cái quỷ quyệt của ma quỷ chính ở điểm này, bởi với một con người bình thường thì chúng chỉ cần đưa ra miếng bánh, nhưng đây lại là Thiên Chúa đầy quyền năng, vì thế chúng nhắm vào tâm lý kiêu ngạo, hiếu thắng, muốn chứng tỏ mình của con người, để kích động Chúa. Và nếu vì đói bụng, hoặc cũng có thể do bản tính loài người hay kiêu căng tự phụ, Chúa làm phép lạ biến đá thành bánh để ăn, thì Chúa đã mắc mưu thâm độc của chúng. Nói cách khác, nếu làm theo ý ma quỷ thì Chúa đã bị khuất phục, bị sai khiến theo ý chúng. Nhưng chúng đã thất bại, bởi đối tượng chúng cám dỗ không chỉ là một chàng thanh niên Giê-su Na-da-ret bình thường, mà còn là Con Một Thiên Chúa được sai đến để chế ngự tội lỗi, cứu độ nhân loại.

Không đánh vào cái bụng đói của Chúa được, chúng xoay qua mặt tâm linh, đó là tính kiêu ngạo. Nếu là một con người bình thường, khi biết chắc là mình có nhảy xuống từ nóc Đền Thờ cao chót vót cũng sẽ được "Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng" (Mt 4, 6), chắc chắn họ sẽ nhảy xuống liền, và như thế sẽ được hoan hô ca tụng tận mây xanh. Lòng kiêu căng tự phụ được ve vuốt, đối với con người thì còn gì hơn thế nữa? Ngay từ Nguyên tổ của loài người, chuyện này cũng đã xảy ra: Khi rắn (ma quỷ) xúi bà E-va ăn trái cấm, bà còn e ngại vì nhớ Lời Đức Chúa: "Các ngươi không được ăn, không được động tới, kẻo phải chết",  thì ngay lập tức "Rắn nói với người đàn bà: "Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác." (St 2, 4-5). Ấy thế là Nguyên tổ phạm tội, loài người bị tội lỗi thống trị. Loài người là vậy đó, nhưng với Đức Giê-su thì vì Người là Thiên Chúa, nên Người quở mắng liền: "Nhưng cũng đã có lời chép rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi." Sau 2 lần thất bại, ma quỷ lại xoay qua mặt phú quý vinh hoa là mồi nhử hấp dẫn nhất đối với con người. Chỉ cần quy phục, quỳ lạy chúng, sẽ được tất cả. Lần này thì Chúa đuổi thẳng: "Xa-tan kia, xéo đi! " và ma quỷ thất bại hoàn toàn, bỏ đi một nước. 

Quả thật, giặc từ bên ngoài đánh chiếm thành trì, còn có thể thấy rõ kẻ thù, may ra còn hy vọng chiến đấu; nhưng nếu đó là kẻ thù từ bên trong thì chúng đã đồng hóa với "cái tôi" trở thành vô hình vô ảnh; vậy thì làm sao chống đỡ cho nổi? Nói như vậy thì phải chăng con người luôn bị ma quỷ cám dỗ và đành thúc thủ trước những mưu mô quỷ quyệt của chúng sao? Xin thưa, nếu anh chỉ sống theo xác thịt, chiều theo thị hiếu vật chất, thì bảo đảm anh thua là cái chắc, nhưng anh còn một vũ khí rất lợi hại để có thế chống lại được ba thù, có thế chiến thắng được những cơn cám dỗ. Câu "Muốn thắng người, phải thắng được mình trước" (tục ngữ) có thể viết thành "Muốn thắng chước cám dỗ của ma quỷ, phải thắng được mình trước". Mà cái vũ khi lợi hại để có thể thắng được mình (nhiên hậu mới nói đến thắng được cám dỗ), đó chính là: CẦU NGUYỆN. 

Không tự tin quá đáng (sẽ thành tự kiêu), cũng không tự ti, mà hãy dốc lòng tin cậy vào Thiên Chúa, bởi "Nếu chỉ vì một người, một người duy nhất (là A-đam) sa ngã, mà sự chết đã thống trị, thì điều Thiên Chúa làm qua một người duy nhất là Đức Giê-su Ki-tô, lại còn lớn lao hơn biết mấy. Quả vậy, những ai được Thiên Chúa ban ân sủng dồi dào và cho trở nên công chính, thì sẽ được sống và được thống trị." (Rm 5, 17). Vậy thì tại sao lại không thể làm như lời dạy của Thánh Gia-cô-bê Tông đồ: "Anh em đau khổ ư? Người ấy hãy cầu nguyện. Ai vui vẻ chăng? Người ấy hãy hát thánh ca. Ai trong anh em đau yếu ư? Người ấy hãy mời các kỳ mục của Hội Thánh đến; họ sẽ cầu nguyện cho người ấy, sau khi xức dầu nhân danh Chúa. Lời cầu nguyện do lòng tin sẽ cứu người bệnh; người ấy được Chúa nâng dậy, và nếu người ấy đã phạm tội, thì sẽ được Chúa thứ tha. Anh em hãy thú tội với nhau và cầu nguyện cho nhau để được cứu thoát." (Gc 5, 13-16). 

Vâng, để "Được sống và được thống trị", xin cùng dâng lời cầu nguyện: Ôi ! Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, chính nhờ sống theo Thần Khí hướng dẫn vào trong hoang địa ăn chay cầu nguyện 40 đêm ngày, mà Chúa đã được đầy sức mạnh chiến thắng được cơn cám dỗ quỷ quyệt của ma quỷ. Để có thể chống chọi được với những mời mọc hấp dẫn, những cám dỗ ngọt ngào của xác thịt, của ma quỷ, cúi xin Chúa thương giúp chúng con thực hành theo lời Thánh Phê-rô: "Vậy anh em hãy tự khiêm tự hạ dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa, để Người cất nhắc anh em khi đến thời Người đã định. Mọi âu lo, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em. Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự, vì biết rằng toàn thể anh em trên trần gian đều trải qua cùng một loại thống khổ như thế" (1Pr 5, 6-9). Ôi! Lạy Chúa, con tín thác nơi Ngài. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen. mục lục

CÁM DỖ - MẠNH MẼ - CHIẾN THẮNG

Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng

Cám dỗ không là tội. Trái lại, khi rơi vào cám dỗ mà hết sức chống trả bằng cầu nguyện, cậy dựa vào ơn Chúa và nghị lực bản thân, sẽ càng nên thánh, càng chứng minh lòng trung tín với Thiên Chúa, càng mạnh mẽ trong linh hồn.

Cám dỗ là chuyện xưa như trái đất. Từ khi có con người, đã có cám dỗ. Cơn cám dỗ đầu tiên đánh sập lòng trung thành dành cho Thiên Chúa của nguyên tổ. 

Nguyên tổ thất bại, kéo theo thất bại hết lần này đến lần khác của con cháu. Vì thế, tội lỗi cứ triền miên, ngày càng tinh vi, ghê gớm. Sự tàn bạo, độc ác của kẻ dấn thân vào tội trong thế giới loài người, nhiều lần cho thấy, không phải cấp số nhân, nhưng hình như cấp lũy thừa.

Chúa Giêsu, một khi đã làm người, Người nếm trải đầy đủ mọi kinh nghiệm của thân phận làm người, kể cả cám dỗ, ngoại trừ tội lỗi. 

Ba cơn cám dỗ của Chúa mà Tin Mừng hôm nay cho biết, là đại diện của mọi thứ cám dỗ của đời người.

1. Cám dỗ về vật chất: 

Ăn chay thì phải đói. Vì thế cần lương thực, cần bánh ăn. Thế là xuất hiện lời dụ dỗ ngọt ngào, hợp thời, hợp lý: “Hãy biến đá này thành bánh mà ăn đi”. 

Cơn cám dỗ đầy thực tiễn: Cứ đói, cho bánh; Nghèo, phải làm mọi cách để thoát nghèo, bất chấp lương thiện hay không. Thiếu vắng hạnh phúc, phải mau chóng đòi bằng được hạnh phúc cá nhân mình… 

Một cơn cám dỗ thực tiễn đến nỗi thực dụng như thế dễ đánh ngã chúng ta, vì nó đụng trực tiếp vào chính sự sống của mình.

2. Cám dỗ tập trung vào quyền lực. 

Ai cũng ham muốn quyền lực, muốn mình hơn người khác, cho nên cơn cám dỗ quyền lực là xoáy đúng chỗ yếu của con người: “Tôi sẽ cho ông quyền thống trị cả thế giới này, nếu ông quỳ xuống mà lạy tôi”. 

Hấp dẫn quá. Chỉ một cái lạy, một thái độ khuất phục, chịu lụy, không mất một công sức nào, không mất một xu lẻ, trong nháy mắt, mọi quyền hành nằm trong tay mình. 

Xưa tổ tông ham muốn quyền hành đến nỗi dù ảo tưởng vẫn ham muốn: đòi bằng Đấng Tạo Hóa. Tổ tông đã chìu theo sự dữ. Tổ tông đã phải cúi đầu nô lệ sự dữ. 

Bạn và tôi không bao giờ được phép quên một sự thật: khi lụy phục ai, kẻ nắm quyền chính là người được lụy phục. 

Còn kẻ có chút quyền, dẫu quyền ấy chỉ do nô lệ mà có, dễ lạm quyền, dễ hành xử theo quyền hành, dễ đi đến tàn bạo, hóng hách, phủi bỏ sự hiện diện của người bên cạnh. Bởi phải thao túng quyền mới có thể khẳng định cái uy, cái mạnh của bản thân.

Thao túng quyền hành còn là nhu cầu để che lấp tình trạng tưởng là quyền, nhưng thực chất là nô lệ của mình.

Bởi thế, một khi đã nghe theo sự dữ, đã để mình lệ thuộc sự  dữ, sự dữ sẽ thống trị lòng mình. Một khi sự dữ đã có cơ hội tác oai, sự tàn bạo của lòng người khó lường.

Bởi đó, quyền lực dễ làm người ta đánh mất tính người, bỏ rơi tình người. Càng có quyền bao nhiêu, sẽ càng sử dụng quyền để thống trị người khác bấy nhiêu.

3. Cám dỗ về danh vọng. 

Cũng giống như quyền lực, địa vị, ai cũng hám danh, thích trọng vọng. Đôi khi đó chỉ là danh ảo, vẫn ham hố. Vì dẫu có ảo, vẫn tìm được sự nổi nan, tiếng tăm, ảnh hưởng và thế giá nào đó. Dẫu có ảo, vẫn được biết đến, vẫn nhận được sự tôn vinh nào đó, cho dù chỉ là tôn vinh hình thức.

Nếu Chúa Giêsu chiều theo lời cám dỗ đầy ham hố danh vọng: “Ông hãy nhảy từ trên núi cao xuống, vì Thiên Chúa sẽ truyền cho các thiên thần gìn giữ ông”, thì sau đó Chúa nhận được gì? 

Cứ thử tưởng tượng, nếu Chúa sa chước cám dỗ thật, nếu đúng là Chúa nhảy từ trên núi xuống, nhờ các thiên thần gìn giữ cho được bình yên vô sự, chắc chắn ngay lập tức, Chúa nổi như cồn. Và chắc chắn, Người không cần bôn ba rao giảng chi cho cực lòng. Thiên hạ sẽ ào ạt kéo theo vị thầy thuộc hàng siêu nhân. 

Như thế, sự thành công cuối cùng chẳng thuộc về Chúa, lại thuộc về ma quỷ, vì thực chất, người ta theo Chúa, nhưng đàng sau đó thực quyền lại chính là ma quỷ. 

Chỉ tưởng tượng thôi, ta đã phát rùng mình khiếp sợ. Vì hôm nay, trên danh nghĩa là bước theo Chúa Giêsu, nhưng đúng hơn, ta cùng với Chúa của mình nô lệ ma quỷ.

Nhưng đó chỉ là tưởng tượng. 

Qua cơn cám dỗ của mình, Chúa Giêsu để lại cho ta tấm gương tuyên chiến với ma quỷ: quyết liệt, mạnh mẽ, bất khoan nhượng. 

Chúa còn để lại bài học của người biết sống Lời Chúa, biết  đặt niềm tin vào Lời Chúa, lấy Lời Chúa làm nghị lực, làm sức mạnh vượt lên trên mọi cám dỗ, dẫu là cám dỗ căn bản của cuộc đời mỗi người. 

Qua bài học chay tịnh và cám dỗ của Chúa Giêsu cho thấy mùa chay là mùa của sa mạc, của thử thách và cám dỗ. 

Nhưng đừng quên, đó cũng là mùa của ân sủng, của dịp thuận tiện để người thiện chí bước vào trong cõi tâm của mình khám phá lại mình, làm mới mình, chỉnh sửa chỗ chưa đúng, phát huy cái hay, cái đúng.

Đó cũng là mùa nêu cao và sống tình thương, sự bác ái, lòng vị tha, gạt bỏ ganh ghét, hận thù, hiềm khích, đi tới gắn kết, đại lượng, hiệp nhất, thân tình.

Trên hết, đó là mùa nhắc nhở ta luôn kết hiệp mật thiết với Chúa trong siêng năng cầu nguyện, lãnh nhận bí tích, nhất là bí tích giao hòa, nhằm đạt tới lý tưởng của ơn phục sinh mà Chúa Giêsu đã đi trước và mời gọi. mục lục

BẪY ĐỜI

Bốn Mươi Ngày Ăn Chay Và Khấn Nguyện

Trọn Cuộc Sống Biến Đổi Để Hoàn Lương

Cuộc đời luôn có nhiều thứ cạm bẫy, loại nào cũng nguy hiểm, mặc dù có vẻ rất bình thường: Tiền tài, danh vọng, chức tước, địa vị, quyền hành, nhục dục,... Đa dạng cạm bẫy, đủ thứ mưu ma chước quỷ. Cái bẫy tinh vi là sự cám dỗ.

Cái gì cũng có nguyên nhân, nguồn gốc, hoặc xuất xứ. Có thể nói rằng cám dỗ đến từ ánh mắt. Con mắt là cửa sổ tâm hồn, nhưng cũng chính cái “cửa sổ” ấy có thể khiến người ta gặp nguy hiểm, thậm chí nó có thể khiến chúng ta “trắng tay” – nghĩa đen và nghĩa bóng, dẫn tới chốn diệt vong đời đời.

Chúa Giêsu nói rằng con mắt là đèn của thân thể, mắt sáng thì toàn thân cũng sáng, mắt xấu thì toàn thân cũng tối. (x. Mt 6:22; Lc 11:34) Quả thật, mắt là “đầu mối” của tham-sân-si. Chỉ vì nhìn không khéo mà bị người khác cho là “nhìn đểu,” thế là xảy ra cãi vã, ẩu đả, thậm chí là án mạng. Xã hội ngày nay có những vụ án mạng rất lãng nhách, từ chuyện chẳng đáng gì.

Chuyện cám dỗ cũng tương tự. Nói theo ngôn ngữ bình dân, cám dỗ là “dụ khị” hoặc lừa dối. Người cám dỗ sử dụng động thái hoặc lời đường mật khiến người khác mắc lừa mà sa ngã. Vật cám dỗ không dụ dỗ nhưng nó có ma lực khiến người ta mắc bẫy hoặc “chết” mà không biết. Tất nhiên, các chước cám dỗ cũng có những mức độ khác nhau, và lúc nào cũng có – dù ngày hay đêm. Chỉ lơ là một chút thôi sẽ “sập bẫy” ngay. Cám dỗ rất tinh vi, có khi khó nhận ra, đến khi biết thì... muộn mất rồi!

Chiến đấu với cơn cám dỗ là chiến đấu với ba thù, ma quỷ và thế gian dễ tránh hơn chính mình – “nội gián” đáng sợ, và là cuộc chiến cam go nhất. Tuy nhiên, vẫn phải cảnh giác cao độ vì ma quỷ không bao giờ nghỉ ngơi, luôn rình rập. Thánh Lê-ô Cả nói: “Tên cám dỗ lúc nào cũng tỉnh táo, khai chiến thật dữ dội để chống lại những người hắn thấy rất cẩn trọng tránh tội.” Cái gì cũng có nguyên nhân, sập bẫy cũng vậy: con chuột sập bẫy chỉ vì tham miếng ăn. Còn con người, tại sao bị sập bẫy đời?

1. THIẾU NỖ LỰC

Nỗ lực rất cần thiết, nỗ lực để vượt lên chính mình. Không nỗ lực, không thể thành công. Thánh Phaolô khuyên: “Đừng để ma quỷ thừa cơ lợi dụng!” (Ep 4:26) Ngày xưa, trên hành trình về Miền Đất Hứa ròng rã suốt 40 năm, Dân Chúa đã phải cảnh giác cao độ trước những thứ cám dỗ không ngừng. (x. Đnl 8:7-20) Và chính Chúa Giêsu cũng đã căn dặn: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ.” (Mc 14:38; Lc 22:40; Mt 26:41a) Tại sao? Lý do rất đơn giản: “Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu hèn.” (Mt 26:41b; Mc 14:38) Thật vậy, phàm nhân chỉ là bụi tro, mau tan như hạt sương, rất yếu đuối, bạc nhược và khốn nạn, ấy thế mà lại rất “chảnh,” cứ tưởng mình là “số dzách,” ngang hơn cua bò, có thể “nổi loạn” bất kỳ lúc nào. Ôi, lạy Chúa, thật là kinh khủng!

Chỉ là “ác phẩm của nghệ nhân điêu khắc mà dám chống lại người tạo nên mình. Rõ là gan cóc tía, quá sức liều! Chúng ta không chỉ có Sinh Hồn như cỏ cây (sống và động), có Giác Hồn như động vật (biết đau, biết buồn, biết yêu, biết ghét,…), mà đặc biệt hơn cả là có Linh Hồn, biết lành biết dữ. Triết học cũng phải công nhận rằng “con người là sinh vật cao cấp nhất” trong các loài. Nhờ linh hồn mà con người trở nên “cao cấp,” mà chính linh hồn đó là tặng phẩm vô giá mà Thiên Chúa trao ban cho chúng ta: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật.” (St 2:7) Ngài là Thiên Chúa duy nhất, không có thần linh nào quyền năng như vậy, mà có là thần linh thì cũng vẫn là thụ tạo của Ngài.

Thiên Chúa hoàn tất mọi thứ rồi mới tạo dựng con người, Ngài chuẩn bị mọi thứ để cho con người tận hưởng. Ngài trồng một vườn cây ở Ê-đen (Vườn Địa Đàng, Thiên Thai) ở phía Đông, rồi Ngài đặt vào đó chính con người mà Ngài tạo nên. Ngài khiến từ đất mọc lên đủ mọi thứ cây trông thì đẹp, ăn thì ngon, với cây trường sinh ở giữa vườn, là cây cho biết điều thiện và điều ác. Ngài tạo dựng con người có hai giới tính: nam và nữ. Họ không chỉ được tận hưởng mọi thứ và có quyền trên mọi loài khác, mà họ còn được tận hưởng niềm hạnh phúc do kết hợp âm dương, và đó cũng là cách cân bằng giới tính. Vậy mà con người vẫn chưa thỏa mãn, vẫn ham hố, tham lam, tranh giành, và tìm cách nổi loạn.

Loài rắn là loài xảo quyệt nhất trong mọi giống vật mà Thiên Chúa đã làm ra. Nó là hiện thân loài quỷ dữ. Nó ghen ăn tức ở với con người, thế nên nó “dụ khị” người đàn bà: “Có thật Thiên Chúa bảo các ngươi không được ăn hết mọi trái cây trong vườn không?” (St 3:1) Người đàn bà thản nhiên nói với con rắn: “Trái các cây trong vườn, thì chúng tôi được ăn. Còn trái trên cây ở giữa vườn, Thiên Chúa đã bảo: ‘Các ngươi không được ăn, không được động tới, kẻo phải chết.” (St 3:2-3) Con rắn thẳng thắn nói với người đàn bà: “Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác.” (St 3:4-5) Thật là ranh ma, quỷ quyệt! Nói ngọt như mía lùi như thế nên nghe lọt tận xương. Và điều gì sẽ xảy ra thì cũng đã xảy ra như một hệ lụy tất yếu.

Có lẽ thực sự có lý khi người ta bảo “gái tai, trai mắt.” Đàn ông là sóng cồn, còn phụ nữ là sóng ngầm nên khó tránh hơn. Cuộc đời có sự-cám-dỗ-dây-chuyền: Ma quỷ Đàn bà Đàn ông. Eva “chết” vì lời đường mật của ác quỷ, Ađam “chết giấc” vì lời năn nỉ của người đẹp Eva, (St 3) Samson “xiêu lòng” vì lời nỉ non của ác phụ Đalila. (x. Tl 16:4-21) Thật là “rợn tóc gáy” khi Kinh Thánh cho biết điều này: “Không vết thương nào sánh nổi vết thương lòng, không sự dữ nào bằng sự dữ do đàn bà gây nên, không độc ác nào bằng độc ác của người phụ nữ.” (Hc 25:13)

Nghe con rắn xúi giục rất bùi tai, lại nhìn thấy trái cây có vẻ ngon lắm, bà Eva không thể kềm lòng nên hái ăn ngay. Ăn thấy ngon, bà đưa cho chồng. Ông Ađam nghe vợ năn nỉ ỉ ôi quá nên cũng ăn cho vợ vừa lòng. Trái đó nhìn rất bắt mắt, nhưng ăn trái đó rồi thì bà “khôn ra” thật. Và rồi y như rằng, mắt cả hai người mở ra tròn vành vạnh, sáng như đèn cao áp, họ mới giật thót và bỗng dưng thấy mắc cỡ vì nhận biết mình trần truồng. Đúng là khôn hẳn ra. Cái miệng hại cái thân. Muộn mất rồi! Họ hết hồn hết vía, luýnh quýnh chạy đi lấy lá vả kết làm khố che thân. Đoạn phim thú vị thật, có lẽ đây là đoạn phim độc nhất vô nhị và hay nhất từ thuở hồng hoang cho tới kỳ tận thế chăng? Rất có thể như vậy.

Mệnh danh là “mẹ của chúng sinh,” (St 3:20) bà Eva là Bà Tổ. Bà có cái nickname đó là do chính ông Ađam đặt cho, có lẽ ông đề cao vợ quá nên mới đề cao bà xã như vậy. Chúng ta là hậu duệ nên cũng bị “di truyền” gen ác nghiệt là Tội Nguyên Tổ. Cũng đành chịu vậy thôi, bởi vì tội lỗi cũng có tính liên đới: cha mẹ phạm tội thì con cái cũng chịu hậu quả. (Ed 18:5-13) Ngoài tình trạng di truyền, hằng ngày chúng ta còn dám liều mình “coi trời bằng nắp bia” nên phạm tội cứ như tằm ăn dâu vậy. Khiếp thật! Và cũng vì thế mà chúng ta phải đêm ngày thú tội và hết lòng van xin: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy. Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm. Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài. Như vậy, Ngài thật công bình khi tuyên án, liêm chính khi xét xử.” (Tv 51:3-6) Quả thật, “lỗi tại tôi mọi đàng” chứ chẳng dính líu tới ai!

Cuộc đời con người cũng như máy móc, cứ phải tân trang nhiều lần – hết tiểu tu, trung tu, rồi đại tu, thế mà vẫn xục xịch. Chúng ta cứ hứa rồi quên, quyết tâm chừa rồi lại tái phạm. Trái tim của chúng ta cứ sửa tới sửa lui, rửa bằng đủ loại thuốc tẩy mà vẫn không ổn. Chán lắm! Chỉ có Chúa mới có thể điều chỉnh nó. Do đó, chúng ta vẫn phải kiên trì mà năn nỉ Ngài: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ. Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh, đừng cất khỏi lòng con thần khí thánh của Ngài. Xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ, và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con.” (Tv 51:12-14) Chỉ có vậy mới hy vọng được cứu độ. Và chắc hẳn ai cũng chỉ mơ ước được như vậy, đó là mục đích nhắm tới mà cố gắng ‘’sửa chữa” không ngừng.

Hằng ngày, trong các giờ kinh nhật tụng, Giáo Hội vẫn cầu xin: “Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con, cho con cất tiếng ngợi khen Ngài.” (Tv 51:17) Mỗi chúng ta cũng phải cầu xin như vậy, nhất là mỗi sớm mai, thức dậy và khởi đầu một ngày mới với nhiều thứ phải chiến đấu.

2. THIẾU CAN ĐẢM

Can đảm là dám đương đầu với mọi thử thách. Rất cần can đảm. Người can đảm cũng là người tự tin, nhưng phải cậy nhờ ơn Chúa chứ không thể ỷ lại vào sức mình. Ngày xưa, Napoléon Đại Đế là người đã từng chinh Nam phạt Bắc thế mà còn phải thốt lên: “Chiến thắng một đạo quân còn dễ hơn chiến thắng chính mình.” Thánh Phaolô cũng đã thú nhận: “Tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: vì điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm.” (Rm 7:15) Thật vậy, không ai có thể nói khôn. Chưa bị cám dỗ thì chưa thể nói mình hay hoặc mạnh. Chưa có dịp phạm tội thì đừng vội tưởng mình đạo đức. Có cơn cám dỗ mà không chiều theo nó thì mới là người hay, người giỏi, đạo đức, thánh thiện – đặc biệt là khi chỉ có một mình. Đừng vội trách những người phạm tội. Chúng ta PHẢI ghét tội và cương quyết chống lại tội chứ KHÔNG GHÉT người sai lầm, tội lỗi.

Sự can đảm (dũng cảm, dũng khí) càng cần hơn trong hành trình sám hối Mùa Chay, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta về cách so sánh của Thánh Phaolô: “Vì một người duy nhất mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội. Trước khi có Lề Luật, đã có tội lỗi ở trần gian. Nhưng nếu không có Luật, thì tội không bị kể là tội. Thế mà, từ thời Ađam đến thời Môsê, sự chết đã thống trị cả những người đã không phạm tội bất tuân lệnh Thiên Chúa như Ađam đã phạm. Ađam là hình ảnh Đấng sẽ tới.” (Rm 5:12-14) Can đảm để vươn lên, trước tiên là vượt qua chính mình, chiến thắng các thói hư và tật xấu – kể cả các thói quen không tốt hằng ngày về vệ sinh, ăn uống, sinh hoạt,...

Chính khách Winston Churchill (1874-1965, thủ tướng Anh) nói: “Thành công không phải là cuối cùng, thất bại không phải là chết người, vấn đề quan trọng là can đảm tiếp tục.” Có vẻ rất ư bình thường mà lại rất khác thường.

Tuy Ông Tổ Ađam nghe vợ mà phạm tội bất tuân, nhưng ông lại là hình ảnh liên quan Đức Kitô. Thật là kỳ diệu, thế nên Giáo Hội vui mừng thốt lên trong bài Exultet: “Ôi, tội hồng phúc!” Tội lỗi mà lại hóa ơn phúc. Giả sử ông Ađam không nghe vợ “dụ khị” thì chúng ta đâu được Chúa Giêsu đến thế gian làm người để đồng lao cộng khổ với chúng ta, và làm gì chúng ta diễm phúc được ăn Thịt và uống Máu Đức Kitô qua Bí tích Thánh Thể? Thánh Ý Thiên Chúa thật quá mầu nhiệm, chúng ta không bao giờ có thể hiểu nổi. Xin tạ ơn Thiên Chúa!

Có cách so sánh tỉ mỉ nên có vẻ dài dòng một chút, Thánh Phaolô cho biết thêm: “Nhưng sự sa ngã của Ađam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người. Ơn Thiên Chúa ban cũng khác với hậu quả do một người phạm tội đã gây ra. Quả thế, vì một người duy nhất phạm tội, con người đã bị xét xử để phải mang án, còn sau nhiều lần sa ngã thì lại được Thiên Chúa ban ơn cho trở nên công chính. Nếu chỉ vì một người, một người duy nhất sa ngã, mà sự chết đã thống trị thì điều Thiên Chúa làm qua một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô, lại còn lớn lao hơn biết mấy. Quả vậy, những ai được Thiên Chúa ban ân sủng dồi dào và cho trở nên công chính thì sẽ được sống và được thống trị.” (Rm 5:15-17) Lòng Thương Xót của Thiên Chúa là tuyệt đối, bất biến, vĩnh viễn.

Trải dài và xuyên suốt lịch sử của Giáo Hội, chúng ta thấy hầu hết các thánh đều có một quãng đời tối tăm, thậm chí rất tội lỗi, nhưng sau khi “sáng mắt” thì cũng “sáng lòng,” họ quyết tâm hối cải và sửa chữa, quyết không lăn vào vết xe cũ, nhờ đó mà họ đã nên thánh ngay từ đời này. Quả thật, con-đường-tội-lỗi-và-thứ-tha là con đường mà mọi phàm nhân đều đi qua để có thể đến với Đức Kitô, Đấng-Tử-Nạn-và-Phục-Sinh. Chắc hẳn chúng ta cũng đã, đang và sẽ như thế. Nhân vô thập toàn, phạm tội là điều không tránh khỏi, ví như một “quyền” của phàm nhân vậy. Tại sao chúng ta sa ngã? Đó là để “sức mạnh của Đức Kitô được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối.” (x. 2 Cr 12:9) Thực sự là một mầu nhiệm mà chúng ta không thể hiểu hết.

Cuối cùng, Thánh Phaolô kết luận: “Tóm lại, cũng như vì một người duy nhất đã sa ngã mà mọi người bị Thiên Chúa kết án thì nhờ một người duy nhất đã thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng được Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghĩa là được sống. Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính.” (Rm 5:18-19) Chúng ta chẳng làm được gì nếu không có Đức Kitô. (x. Ga 15:5) Vì thế, chúng ta có thể nhờ Đức Kitô mà nên công chính, mà nên công chính thì được cứu độ. Thật là trên cả tuyệt vời, hoàn toàn hợp lý.

Trình thuật Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu kể về ba chước cám dỗ mà Chúa Giêsu đã chịu: Ăn uống, kiêu ngạo, và danh vọng. Đó là “tam độc” hoặc các “mối tội” như những trái phá cực mạnh, vô cùng nguy hiểm, có thể khiến người ta thất điên bát đảo, quay cuồng như chong chóng.

Hôm đó, chính Đức Giêsu đã được Thần Khí dẫn vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ. Sau bốn mươi đêm ngày ăn chay ròng rã, Ngài cũng cảm thấy đói theo nhân tính như phàm nhân chúng ta. Phàm nhân là vậy, con người chỉ thế thôi!

Trước tiên, tên cám dỗ đến gần Chúa Giêsu và nói: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi!” (Mt 4:3) Đúng là láo toét! Thế nhưng Ngài nói thẳng với nó: “Đã có lời chép: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra.” (Mt 4:4; Lc 4:4; Đnl 8:3)

Ai trong chúng ta cũng biết rằng ăn uống là thứ hàng đầu trong “tứ khoái” của con người. Khi đói, người ta có thể trộm cướp và dám sát hại người khác để mình có cái ăn. Đó là phản xạ sinh tồn. Khi đói ngấu, Thằng Bờm chẳng cần gì khác, dù là của cải quý giá, mà chỉ cần nắm xôi để giải quyết cái bụng đang “gõ lô tô” mà thôi. Miếng ăn rất thực tế. Tuy nhiên, cũng vì “cái thực tế” đó mà người ta tranh giành nhau, không ngừng tranh chấp và chiến tranh, bao nhiêu tệ nạn như cướp của, giết người, lừa đảo, áp bức,… cũng chỉ vì người ta “sợ đói” đấy thôi. Miếng ăn có thể là miếng cao quý, nhưng cũng có thể là miếng tồi tệ. Chiến thắng cái đói là vượt qua chính mình, ăn chay là để kiềm chế nhục dục, chiến thắng chính mình, không cho “cái tôi” manh động.

Tuy nhiên, có lẽ cũng nên “hiểu rõ” một chút: ăn chay không phải là để dành phần đó cho bữa khác, mà là để chia sẻ cho người nghèo hơn mình. Đó mới là cách thực thi bác ái – đặc biệt là trong Mùa Chay. Chuyện nhỏ mà là chuyện to. Có lẽ vấn đề này thường không được thực hiện đúng mức theo ý muốn của Giáo Hội.

Thua keo này bày keo khác. Quỷ mưu mô đưa Chúa Giêsu đến thành thánh, đặt Ngài trên nóc đền thờ, rồi nó dụ dỗ: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá.” (Mt 4:6) Ngài cũng “chỉnh” nó ngay lập tức: “Nhưng cũng đã có lời chép: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.” (Mt 4:7) Quỷ lại bị thua, 2–0.

Chắc chắn ai cũng yêu chính mình. Yêu mình là tự bảo vệ mình, để sinh tồn. Đó là điều tốt. Nhưng nếu yêu mình quá thì lại là xấu, vì đó là tự ái (tự yêu mình thái quá). Người ta tự ái vì đề cao “cái tôi” của mình, luôn cho mình là “cái rốn của vũ trụ,” là “bách khoa tự điển,” là “người có cả bụng chữ,” là siêu nhân thông thái,… Điều này liên quan tính kiêu ngạo (kiêu căng, ngạo mạn, tự phụ,…), đồng thời cũng liên quan tính ích kỷ – vị kỷ (vì mình) chứ không vị tha (vì người khác). Một chuỗi liên đới xấu xa, đậm chất tội, rất nguy hiểm. Kiêu ngạo là tính xấu đứng đầu trong bảy mối tội. Thật là khủng khiếp!

Chắc chắn nó cay cú lắm, nhưng chưa chịu bỏ cuộc. Nó lại đem Ngài lên một ngọn núi rất cao, chỉ cho Ngài thấy tất cả các nước thế gian và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy, nó huênh hoang nói: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi.” (Mt 4:9) Đúng là “điếc không sợ súng.” Chó mà đòi chạy trước hươu. Và Chúa Giêsu liền nghiêm giọng: “Satan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi.” (Mt 4:10) Quỷ thua trắng, 3–0. Nó đành “ngậm bồ hòn làm ngọt” và xấu hổ muốn độn thổ, rồi đành cụp đuôi bỏ người chạy lấy của. Các sứ thần tiến đến hầu hạ Ngài.

Cuộc sống luôn có nhiều thứ “bả” khiến người ta sập bẫy. Nào là vật chất, danh vọng, địa vị, chức tước, quyền bính,… Trong xã hội đời thường đã đành, trong sinh hoạt tôn giáo cũng vẫn “cám dỗ” người ta mê muội, muốn được nổi trội hơn người khác, họ tranh giành và thách thức đủ dạng. Cả trong xã hội và Giáo Hội cũng vẫn có những người dùng vật chất để lũng đoạn một cách rất tinh vi, khó có thể nhận ra. Người ta “che đậy” và “biện minh” bằng nhiều chiêu bài nghe rất kêu, và xem chừng cũng rất đậm tính bác ái. Thế nhưng, nếu can đảm xét cho cùng thì chỉ là “sáng danh con” hơn là “sáng danh Chúa,” thậm chí có khi Chúa cũng chẳng “xơ múi” được gì! Ngày xưa người ta “mua chức quyền” theo kiểu “mộc mạc” nên dễ nhận ra, ngày nay người ta “mua chức quyền” theo lối rất tinh vi nên khó có thể nhận ra. Lộng giả thành chân.

Xét theo thế gian thì thất vọng lắm. Tuy nhiên, với ơn Chúa thì chúng ta có thể chiến thắng tất cả, nhưng phải thực sự kiên trì và cố gắng chiến đấu không ngừng thì mới có thể chiến thắng 3 “mối tội” đó. Và như vậy là chúng ta chiến thắng chính mình, là “chết” cho tội, là “xé lòng,” và là giữ chay. Nhờ đó mà chúng ta có thể được công chính hóa. Ai nên công chính thì được cứu độ, tức là nên thánh: “Ai cùng chết với Đức Kitô thì cũng được sống lại với Người.” (x. Rm 6:4-5) Sống lại với Chúa để được hưởng phúc vĩnh sinh, chứ không để chịu án phạt đời đời.

Tất cả là hồng ân. Thánh LM TS Thomas Aquinas (1225-1274) cho biết: “Chúng ta không có quyền đòi hỏi, nhưng phải nài xin Thiên Chúa ban cho ơn bền đỗ, nhận ra những ai là người mà chúng ta phải tránh là một phương thế quan trọng để cứu lấy linh hồn mình.” Không có Chúa, chúng ta chẳng làm được gì đâu! (x. Ga 15:5)

Có loại “bẫy” dễ bị sập vì nó vừa ngọt ngào vừa êm đềm, rất đáng sợ, đó là loại mà Thánh Catherine Bologna đề cập: “Đôi khi ma quỷ xúi giục các linh hồn HAM HỐ một nhân đức hoặc một việc đạo đức nào đó đến lạ kỳ, để họ thực hiện việc ấy cách cuồng nhiệt; rồi nó làm họ đâm ra CHÁN NẢN đến độ chểnh mảng với mọi sự vì mỏi mệt và ngao ngán. Chúng ta cần phải thắng vượt cả chiếc bẫy này lẫn chiếc bẫy kia.”

Lạy Cha hằng hữu, xin thêm lòng can đảm để chúng con đủ sức chiến thắng mọi cám dỗ, xin canh giữ để chúng con đừng bao giờ là cám dỗ người khác hoặc làm cớ vấp phạm cho tha nhân. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen. mục lục

THỬ THÁCH VÀ LỰA CHỌN

Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, O.P.

Trình thuật về các lần cám đỗ được coi như phần mở đầu giúp người tín hữu hiểu được điều sâu kín nhất trong tâm hồn Đức Giêsu. Đó là một bản Tin Mừng thu gọn, một thứ hướng dẫn. Những ai muốn hiểu rõ về cuộc đời công khai của Đức Giêsu, cần phải để ý điều này: nếu muốn hiểu biết điều gì trong đó, hãy luôn nhớ lại 3 lựa chọn căn bản này của Đức Giêsu, những điều Người còn lựa chọn lại trong suốt cả cuộc đời.

Cuộc thử thách và lòng trung thành

Thời gian 40 đêm ngày Đức Giêsu trải qua trong sa mạc đánh dấu việc khởi đầu một cuộc phiêu lưu, cuộc phiêu lưu của Giao Ước Mới. Cuộc phiêu lưu này tái hiện quãng thời gian 40 năm dân Do-thái đã trải qua trong cuộc Xuất hành, đồng thời nhắc lại 40 ngày đêm ông Mô-sê đã ở trên núi Xi-nai.

Còn hơn thế nữa, khoảng thời gian này không chỉ là một cuộc khởi đầu, nhưng còn là một cuộc sáng tạo với những yếu tố như cuộc sáng tạo vũ trụ: sa mạc (miền đất trống rỗng, hoang vu), và sự thử thách.

Trong cuộc sáng tạo, A-đam đã phải chịu thử thách, đã đứng trước một lựa chọn, trong đó ông phải bày tỏ tự do của mình. Cũng vậy, với biến cố hôm nay, với cuộc thử thách và lựa chọn trong sa mạc, Đức Giêsu đã bày tỏ tự do của mình, đã thể hiện sự gắn bó với Thiên Chúa, và cho thấy bản tính sâu xa của Người: Con Thiên Chúa và Con Loài Người.

Thực vậy, sa mạc và thử thách luôn là những cơ hội để bày tỏ lòng trung thành hay thái độ bất trung (A-đam, sự kiện con bò vàng…). Lần đầu tiên trong suốt lịch sử cứu độ, Đức Giêsu thực hiện điều mà trước đây, cả A-đam lẫn ÍT-RA-EN không thể thực hiện: lòng trung thành với Thiên Chúa.

Nhờ sự trung thành với căn tính Con Người và Con Thiên Chúa, Đức Giêsu mở ra con đường cho Giao ước Mới, con đường đặt nền tảng trên lòng trung thành, một yếu tố mà con người có thể thực hiện được với nỗ lực và tự do của mình. Và lòng trung thành này được biểu hiện qua việc nhìn nhận Lời Chúa là của ăn, nhìn nhận thánh ý Chúa Cha có giá trị ưu tiên tuyệt đối, nhìn nhận Thiên Chúa là Chúa duy nhất.

Một cuộc chiến đấu

Con người vẫn thường nghĩ về Đức Giêsu như Đấng có uy quyền, Đấng bày tỏ các mầu nhiệm và thực hiện những điều lạ lùng. Về phần mình, Đức Giêsu lại đề ra một cuộc chiến đấu.

Quả thực, qua các cám dỗ tại sa mạc, Đức Giêsu đã thể hiện trọn vẹn tính cách con người. Mặc dù có thể, Người đã không sử dụng các phép lạ cho riêng mình để loại bỏ đi những yếu tố vẫn gắn liền với thân phận con người.

Đức Giêsu muốn uống lấy chén đắng, Người muốn cứu nhân loại chứ không cứu lấy bản thân mình. Chính ý tưởng này còn đưa đến cho Người nhiều thử thách khác, không kém phần cam go, nhưng Người đã vượt qua. Thử thách cuối cùng là cái chết, Người cũng đã đón nhận, bởi vì Người hiểu rằng, chính trong tâm tình tự hiến vì yêu thương, Người nhận lấy vinh quang của cuộc chiến đấu, đồng thời đem lại vinh quang cho tất cả những ai bền lòng vững chí.

Suốt cuộc đời của Đức Giêsu là một cuộc chiến đấu liên lỉ chống lại sự dữ, chống lại quyền lực xấu xa đang đè nặng trên cuộc sống của con người. Người muốn giải phóng họ khỏi những quan niệm, những cách sống đang làm vướng bận mối tương giao của họ với Thiên Chúa, hay làm cho mối tương giao đó không được trong sáng, không đạt tới ý nghĩa thâm sâu. Chẳng hạn như sau khi chứng kiến phép lạ hoá bánh ra nhiều, dân chúng đã muốn tôn Người làm vua, nhưng Người đã lánh đi (Ga 6,15) hoặc khi Phê-rô lên tiếng can ngăn Đức Giêsu, xin Người đừng lên Giê-ru-sa-lem, Người đã không xiêu lòng trước thử thách, nhưng đã quyết liệt khước từ và nặng lời trách móc Phê-rô (x. Mt 16,23).

Như thế, Đức Giêsu không muốn sống an toàn, trái lại, Người lao vào một cuộc đấu tranh, chấp nhận những mất mát thua thiệt về phía mình, kể cả sự sống. Người hiểu rằng, để khai sinh một nhân loại mới, một ý nghĩa mới cho cuộc sống của con người, cần phải chiến đấu, phải hi sinh, phải liều lĩnh. Nếu không có can đảm vượt lên trên cái nhìn bình thường, vượt lên trên sự an toàn cho riêng mình, thì nhân loại không thể nào được cứu vớt, được giao hoà với Thiên Chúa.

Cuối cùng, cuộc chiến đấu này đã dẫn đưa Người tới cái chết trên thập giá, và Người đã chiến thắng nhờ sự Phục sinh. Sự kiện này cho thấy rằng cuộc chiến đấu của Người không phải là vô nghĩa, và con người có thể đạt tới chiến thắng vinh quang nhờ lòng trung thành, nhờ thái độ tuân phục thánh ý Thiên Chúa.

Vì vậy, xét theo cái nhìn bình thường, Đức Giêsu đã hành động như là không yêu mến con người; Người đã mở ra một cuộc chiến và mời gọi họ dấn thân, chứ không đem đến cho họ sự an toàn. Tuy nhiên, chính cuộc chiến do Đức Giêsu khởi đầu lại là con đường duy nhất để đạt tới vinh quang đích thực. Trong cuộc chiến đấu của mình, Đức Giêsu đã liên đới với tất cả những người đau khổ, liên đới với thân phận làm người của nhân loại; Người hành động như thế vì yêu mến họ, yêu mến cách tận tình, muốn đưa họ tới sự sống chân thật. Bình an do Đức Giêsu đem đến là bình an được chiếm đoạt bàng sức mạnh, bằng sự trung tín với Lời Chúa.

Chiến dấu từng ngày và suốt đời

Ba cám dỗ, hay ba chọn lựa, vẫn thường xảy ra trong suốt dòng lịch sử. Mỗi người sẽ gặp phải những thử thách và họ sẽ ngã gục như A-đam và dân It-ra-en, nếu họ không nhìn vào Đức Giêsu, và không noi theo gương của Người.

Cuộc chiến đấu ấy, thử thách ấy vẫn diễn ra cách này cách kia theo nhiều hình thức khác nhau; mỗi thời mang một vẻ khác, mỗi giai đoạn lại có vẻ tế nhị hơn, quyết liệt hơn, nhưng bao giờ cũng vẫn là sự chọn lựa giữa Thiên Chúa và trần gian. Đó là một cuộc chiến đấu dài, rất dài, không bao giờ chấm dứt; người ta phải chiến đấu đến giây phút cuối cùng, mà không được quyền bỏ cuộc, rút lui.

Vậy, đâu là những thử thách vẫn thường xảy ra và không khi nào Đức Giêsu nhượng bộ?

Thứ nhất: Con người được dựng nên không phải chỉ vì những lương thực trần gian. Họ còn có những lương thực thiêng liêng và chính thứ lương thực này mới cần thiết.

Thứ hai: Con người được dựng nên không phải để cảm nghiệm về Thiên Chúa mà thôi. Họ cần phải hiệp thông với Người, như một đứa con, với lòng tin tưởng tuyệt đối. Đó không phải là mối tương giao đặt nền tảng trên lòng yêu mến. Họ ở trong Người, không một chút nghi ngờ, không một khoảng cách.

Thứ ba: Con người được dựng nên không phải để thống trị anh em mình, không phải để bắt người khác thần phục mình. Trái lại, mọi người đều là con một Cha; tất cả đều quy hướng về Thiên Chúa. Hơn nữa, họ không được dựng nên để phục lạy các ngẫu tượng, nhưng là để thờ phượng Thiên Chúa:

Như vậy, vấn đề được đặt ra chính là căn tính của con người. Họ được sáng tạo theo hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi và Ba Ngôi Chí Thánh không ngừng làm cho họ nên giống hình ảnh của Người. Đó là chương trình đã có từ thời sáng thế, và hôm nay vẫn đang được thực hiện. Chương trình này vẫn đang bị đe doạ vì những ham muốn chống đối của con người, và Thiên chúa không ngừng bày tỏ lòng yêu thương của Người:

Chính trong việc cử hành Thánh Thể,

Đức Kitô ban mình làm lương thực để nuôi sống con người.

Đức Kitô xoá tan mọi khoảng cách và nghi ngờ,

Ngài đến ở với chúng ta qua việc rước lễ.

Đức Kitô quỳ gối trước mặt chúng ta,

rửa chân cho chúng ta,

biến chúng ta thành một dân biết phục vụ,

sắn sàng quỳ gối để rửa chân và giúp đỡ người khác.

Con người không được dựng nên cho riêng mình. Cộng đoàn ngày Chúa Nhật là cơ hội để chúng ta thấy rõ căn tính của mình. Trong cộng đoàn này, chúng ta chia sẻ với nhau những thành quả do cuộc chiến đấu của Đức Kitô, đồng thời trở nên hình ảnh của Thiên Chúa.

Đi vào Mùa Chay

là cùng với Đức Kitô

lao vào cuộc chiến đấu.

để bày tỏ lòng trung thành

đặt nền tảng trên Lời Chúa. mục lục

HÃY CẢNH GIÁC TRƯỚC CÁM DỖ

Jos. Vinct. Ngọc Biển, SSP

Chúng ta đã cùng với toàn thể Giáo Hội bước vào Mùa Chay Thánh hôm thứ Tư lễ Tro vừa qua. Khởi đầu Mùa Chay Thánh với việc xức tro. Cử chỉ bỏ chút tro lên đầu và vị chủ sự mời gọi: “Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng”, Giáo Hội muốn mời gọi con cái của mình khiêm tốn và ý thức thân phận con người chẳng là gì cả, chỉ là bụi tro mà thôi.

Hôm nay, với Chúa Nhật I Mùa Chay, thánh Mátthêu trình thuật cho chúng ta thấy việc Đức Giêsu vào hoang địa ăn chay và sau đó bị ma quỷ cám dỗ, nhưng Ngài đã chiến thắng.

Qua đó, Giáo Hội mời gọi con cái của mình là: hãy sám hối để bắt đầu bước vào hành trình tập luyện và chiến đấu thiêng liêng. Trong hành trình ấy, mẫu gương của Đức Giêsu trong sa mạc hôm nay được hiện lên như một động lực, điểm tựa cho mỗi chúng ta.

1. Ma quỷ cám dỗ Đức Giêsu

Khi đón nhận thánh ý Thiên Chúa Cha qua việc vâng lời tuyệt đối khi nhập thể và nhập thế, Đức Giêsu đã trở nên Cứu Chúa của nhân loại. Vì thế, khởi đầu cuộc sống công khai, Ngài đã vào hoang địa ăn chay 40 đêm ngày, để tìm thánh ý Thiên Chúa Cha, hầu chu toàn ý định của Người. Sau khi chay tịnh, Đức Giêsu cảm thấy đói, vì thế, nhân cơ hội này, ma quỷ đã tiến đến và cám dỗ Ngài.

Cám dỗ đầu tiên mà ma quỷ tấn công Đức Giêsu chính là cám dỗ về của ăn nuôi thân. Lợi dụng lúc Đức Giêsu đói, hắn đã không bỏ lỡ cơ hội ngàn năm có một này, nên đã tiến lại gần và nói: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hóa bánh đi!" (Mt 4, 3). Nhưng Đức Giêsu đã chiến thắng khi nói cho chúng biết lương thực của Ngài chính là làm theo ý Thiên Chúa Cha. Ngài nói: “Ðã có lời chép rằng: ‘Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra’" (Mt 4,4).

Cơn cám dỗ thứ hai mà ma quỷ muốn tấn công chính là đề nghị Đức Giêsu sử dụng quyền lực. Vì thế, nó đã nói: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng: ‘Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá’" (Mt 4,6).

Tuy nhiên, ma quỷ đã lầm khi tưởng rằng Đức Giêsu sẽ sử dụng quyền lực theo kiểu thế gian, để trổ tài theo ý của nó bằng những cú nhảy đẹp mắt, ngoạn mục. Nhưng lại thêm một lần nữa chúng thất bại và chịu tác dụng ngược lại khi Đức Giêsu cho chúng biết rằng: “Ngươi chớ thử thách Ðức Chúa là Thiên Chúa của ngươi" (Mt 4, 7).

Thất thế lần hai, ma quỷ vẫn chưa chịu thua, chúng tấn công lần thứ ba. Lần này chúng nhắm tới danh vọng. Ma quỷ đã nịnh hót Đức Giêsu, và “đem Người lên một ngọn núi cao, và chỉ cho Người thấy tất cả các thế gian, và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy, và bảo rằng: ‘Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi’" (Mt 4, 8-9). Nhưng lần cuối cùng này chúng vẫn thất bại và chịu sự quở trách nặng nề của Đức Giêsu, đồng thời Ngài cũng xác định danh giới của chúng khi nói:  "Xatan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép rằng: ‘Ngươi phải bái lạy Ðức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi’" (Mt 4, 10).

Qua câu nói này, Đức Giêsu khẳng định thật rõ Ngài là Con Thiên Chúa, nên chỉ có bổn phận phục quyền và tôn thờ một mình Thiên Chúa mà thôi.

Như vậy, cả ba lần cám dỗ, chúng đều lãnh nhận những thất bại.

2. Ma quỷ cám dỗ chúng ta

Ngày nay, ma quỷ cũng không ngừng cám dỗ chúng ta về: cơm, áo, gạo, tiền, vinh hoa, phú quý, quyền cao, chức trọng, tự phụ, khoe khoang, kiêu ngạo…, bởi vì những thứ đó luôn theo sát mỗi người từ lúc sinh ra đến lúc nhắm mắt xuôi tay.

Khi cám dỗ con người như vậy, chúng lộ rõ sự tinh quái của hắn. Cái quỷ quyệt của chúng là đưa ra những chiêu thức rất hấp dẫn, toàn là màu hồng để quyến rũ con người. Nhưng thực ra, những điều mà chúng cám dỗ ta chỉ là nửa sự thật chứ không phải sự thật tuyệt đối.

Cách thức của chúng dùng chính là qua một trung gian, một cơ hội hay một sự vật:

Qua trung gian là con người, chúng tìm cách để người nào đó rủ rê dần dần ta phạm tội. Lúc ban đầu chỉ là những chuyện lặt vặt, nhỏ bé hằng ngày. Tuy nhiên, dần dà lâu ngày thành quen. Tội nhẹ, rồi dẫn đến tội trọng. Nay ăn cắp quả ổi là chuyện bình thường; ngày mai ăn chộm con gà cũng chẳng sao; ngày mốt lấy con trâu, rồi cuối cùng giết người cướp của.

Từ chuyện rất nhỏ, nhưng nó làm cho con người chai lỳ lương tâm và mất dần cảm thức về tội, nên chúng ta không lạ gì khi thấy nhiều người cứ nhởn nhơ trong vũng lầy tội lỗi mà vẫn tự hào mình là người tốt. Những người như thế, thường tìm mọi cách để ngụy biện cho hành vi sai trái của mình. Họ dùng những phương tiện xấu để biện minh cho mục đích tốt. Họ sẵn sàng làm từ thiện để che lấp những tội ác như tham nhũng, bóc lột và buôn gian, bán lậu. Hay nói cách khác, họ dùng hình thức rửa tiền để che đậy những việc làm mờ ám của mình.

Cơm cám dỗ thứ hai mà trước kia ma quỷ cám dỗ Đức Giêsu, thì ngày nay, nó cũng không buông tha chúng ta. Thật vậy, nó tấn công chúng ta về quền lực, vinh quang, phú quý để làm cho ta ra mê muội và tìm mọi cách để đạt được những điều ta muốn dù là bất chính.

Cám dỗ cuối cùng mà nó tấn công Đức Giêsu là tham lam, danh vọng. Ngày nay, nó vẫn thường cám dỗ chúng ta như thế. Nó đánh đúng sào huyệt tham sân si của con người, rồi sau đó, con người phải tôn thờ nó.

Như vậy, ma quỷ đã cám dỗ Đức Giêsu về 3 điểm, đó là: thú, lợi, danh. Đến lượt chúng ta, nó cũng không ngừng tấn công chúng ta về những điểm trên.

3. Cẩn trọng trước cám dỗ

Mỗi khi cám dỗ đến với chúng ta, xin hãy nhớ lại lời Đức Giêsu cảnh báo để thêm sự cẩn trọng, hầu không vì kiêu ngạo mà mắc vào cạm bẫy của chúng:  “Anh em hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ" (Mt 26, 41). Hay Đức Giêsu nói với Phêrô về sự nguy hiểm của chúng: "Simon, Simon ơi, kìa Xatan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo” (Lc 22,31). Và khi thánh Phêrô đã cảm nghiệm rõ nguy hiểm của ma quỷ, nên ngài đã cất lên lời khuyên nhủ: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1Pr 5,8). 

Bên cạnh đó, lời cầu nguyện chính là vũ khí số một để triệt hạ chúng. Điều này đã được Đức Giêsu hướng dẫn các môn đệ của mình trong kinh Lạy Cha: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”. Trong kinh Ăn Năn Tội cũng có câu: “Nhờ ơn Chúa thì con sẽ tránh xa dịp tội”. Trong dân gian, trải qua cuộc sống, người ta đúc kết thành kinh nghiệm và khuyên: nếu lượng sức mà không vượt qua được thì hãy “đào vi thượng sách”.

Thật vậy, sức con người thì giới hạn, vì thế, không thể nào chống trả được những cơn cám dỗ. Nếu muốn chiến thắng, chúng ta phải cậy dựa vào ơn Chúa. Đồng thời dùng võ khí của sự khiêm nhường, vâng phục, đơn sơ, thật thà để chống đối với ma quỷ.

Lạy Chúa Giêsu, xưa kia Chúa đã chiến đấu và chiến thắng ma quỷ. Giờ đây, xin giúp chúng con chiến thắng được Ba Thù, để thuộc trọn về Chúa như Chúa thuộc trọn về Thiên Chúa Cha. Amen. mục lục

XIN ƠN CHÚA GIÚP ĐỂ CHỐNG TRẢ TÊN CÁM DỖ

Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

Bước vào Mùa Chay Thánh, mùa tập luyện chiến đấu thiêng liêng với những việc tốt lành theo truyền thống là ăn chay, cầu nguyện và bố thí. Hôm nay Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay Thánh. Phúc âm trình bày cho chúng ta một cuộc chiến đấu làm theo ý Chúa Cha hay là theo ý của Satan. Quả thật, trước khi sứ vụ cứu thế khai mào, Chúa Giêsu đã vào hoang địa, ăn chay, cầu nguyện bốn mươi đêm ngày và ở đó chịu Satan cám dỗ.

Satan lợi dụng thời gian này để tấn công và cám dỗ Chúa đi khác đường lối của Chúa Cha, đây cũng là cám dỗ bất tuân giống như con rắn xưa đã cám dỗ Ađam. Satan muốn Chúa Giêsu là một con người hoàn toàn thuộc về thế gian, thế giới mà hắn làm chủ. Vì là con người, Chúa Giêsu đã dựa vào Lời Chúa và sức mạnh của Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần để chiến đấu. Người đã chiến thắng, ma quỷ đã phải rút lui, và các các thiên sứ đến hầu hạ Người (x. Mt 4,1-11).

Bước vào Mùa Chay Thánh, chúng ta phải ý thức rằng, những quỉ kế mà ma quỉ dùng để cám dỗ Chúa Giêsu, cũng là những cách chúng cám dỗ chúng ta ngày hôm nay.

Satan là kẻ thù lớn nhất của chúng ta. Có người không tin có Satan, họ cho rằng, Satan là một sản phẩm do trí tưởng tượng của con người hoặc là sự dữ trừu tượng pha trộn trong con người và thế giới. Không! 

Kinh thánh nói nhiều lần về Satan như một hữu thể cụ thể và có thực. Hắn là một thiên thần sa ngã. Chúa Giêsu khẳng định khi nói : "Hắn là kẻ nói dối và là cha của sự dối trá" (Ga 8,44). Thánh Phêrô ví ma quỉ như con sử tử gầm thét : "Đối thủ của anh em là ma quỉ như sư tử rống, nó lượn rình tìm sao nuốt được một ai" (1Pr 5,8). Và Chân phước Phaolô VI, Giáo hoàng dạy chúng ta : "Ma quỉ là kẻ thù số một, nó cám dỗ rất tinh vi. Chúng ta biết rằng nhân vật tối tăm và phá rối này thực sự tồn tại và tiếp tục hành động".

Nó làm thế nào? Thưa, nó nói dối, lừa dối chúng ta. Baudelaire viết : "Chiến thắng lớn nhất của ma quỉ là làm cho chúng ta tin rằng ma quỉ không hiện hữu". Nó nói dối chúng ta thế nào?

Hắn trình bày hành động xấu như thể là tốt, hắn thúc giục chúng ta làm điều xấu, hắn gợi lên những lý do để biện minh cho tội lỗi của chúng ta. Sau khi lừa dối chúng ta rồi, hắn làm cho chúng ta lo lắng và buồn bã. Hỏi chúng ta có bao giờ cảm thấy điều đó không?

Chúa Giêsu đã bị cám dỗ bất tuân lệnh truyền của Chúa Cha, Người đã chống trả quyết liệt và đã vâng phục cho đến chết ; sự bất tuân ấy được diễn tả như thế nào ? Nội dung của sự cám dỗ ấy là gì ? 

Chúa Giêsu là con người hoàn toàn như chúng ta, giống chúng ta mọi đàng, nên những thử thách mà Người phải đương đầu, những cám dỗ Người phải chịu, cũng là những thử thách, những cám dỗ của nhân loại hôm nay. Cám dỗ ấy là cám dỗ về vật chất tư lợi, uy quyền danh vọng, và về hưởng thụ thỏa mãn các đam mê trần tục.

Của cải vật chất là một cám dỗ lớn, mãnh liệt, không trừ một ai, từ em bé mới có trí khôn cho đến người già sắp lìa cõi thế, từ người buôn bán giữa chợ cho đến vị bậc vị vọng ở nơi nhà thờ. Tự bản chất, vật cất không xấu ; xã hội phải làm ra của cải thì mới tồn tại và phát triển được; con người phải có điều kiện vật chất tối thiểu mới có thể sống. Nhưng tiền là một người đầy tớ tốt, và là một ông chủ xấu. Biết sử dùng và làm chủ của cải, chúng ta sẽ làm được rất nhiều việc, kể cả những việc ích Nước lợi Dân. Trái lại, khi nô lệ của cải, để của cải làm chủ, nó sẽ hủy hoại tất cả những giá trị đạo đức, từ tình nghĩa gia đình, vợ chồng, cho mẹ con cái, cho đến những giá trì về công bằng xã hội, về đạo đức và tôn giáo.

Danh vọng là một cám dỗ cũng mạnh không kém. Con người ngày hôm nay có khuynh hướng lẫn lộn danh dự với danh vọng. Thực ra danh dự thì ai cũng cần ; có danh dự thì mới có thể sống vui, sống xứng đáng là con người. Mất hết danh dự, con người nhiều khi không còn thiết sống nữa. Nhưng danh vọng thì khác ; danh vọng thường phát xuất từ một địa vị cao, hoặc một đời sống giầu có, hoặc từ sự thành công được nhiều người biết đến và khen ngợi. Người ham mê danh vọng là người thích được người khác vỗ tay đề cao, thích được nổi bật giữa đám đông. Có người ham mê danh vọng đến mức sẵn sàng hy sinh hạnh phúc gia đình, hy sinh cả những giá trị đạo đức, chạy theo danh vọng nhiều khi là thả mồi bắt bóng và dẫn tới những sụp đổ bi đát nhất.

Cám dỗ thứ ba là quyền lực. Ở bất cứ quốc gia nào, thời đại nào, cám dỗ về quyền lực vẫn là một cám dỗ đáng sợ nhất. Thường khi đã có tiền và danh vọng, điều mà người ta ao ước là có quyền trên những người khác, điều khiển người khác. Các tranh chấp về quyền hành làm nảy sinh những biến động xã hội rất tai hại, có khi còn phát sinh giặc giã chiến tranh và gieo rắc đau khổ tan tóc trên nhiều người. Có những người đang nắm quyền cố gắng giữ chặt quyền bính bằng mọi giá, kể cả những thủ đoạn bất chính và phi nhân.

Chúa Giêsu đã chiến thắng mọi cám dỗ của Satan ; nên Người được các thánh Giáo phụ gọi là Ađam mới, sinh ra một nhân loại mới, sống bằng sự sống và tình yêu của Thiên Chúa. Chúng ta hãy nhớ mình là con người mới được tái sinh nhờ Phép rửa, được kêu mời sống ơn gọi đó. 

Chúng ta hãy khẩn cầu xin Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ đã đập vỡ đầu con rắn độc ác, giúp chúng ta vượt qua những cám dỗ mỗi ngày và sống Mùa Chay Thánh này cho nên. Amen. mục lục

LẠY CHÚA, XIN THƯƠNG XÓT CHÚNG CON

Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD

Tất cả các bài Kinh Thánh hôm nay đều đượm vẻ buồn thảm. Các bài đọc và Thánh vịnh 51 là khúc dạo đàn mở đầu cho những đề mục lớn mà chúng ta sẽ nghe và sống trong 6 tuần lễ sắp tới.

Đọc bài đọc 1 sách Sáng Thế (St 2:7-9,3:1-7), chúng ta phải để ý đến tính thần học và nghĩa đen của những trang đầu. Giống như những câu chuyện ở 11 chương đầu, câu chuyện vườn địa đàng có thể giúp giải đáp những vấn nạn quan trọng về đời sống thực tế của chúng ta. Tại sao người đàn bà lại đẻ đau? Tại sao ruộng đất lại khô cằn, cày bừa rất khó khăn cực nhọc? Tại sao con rắn lại bò sát mặt đất?

Sách Sáng Thế đoạn 2-3 báo trước là nhờ hiểu biết người ta mới cố gắng vượt gian khổ để đạt những nhu cầu của đời sống con người. Vì vậy ngu dốt đôi khi có thể lại là điều vui, nhưng chắc chắn không phải là dấu hiệu của người trưởng thành biết tự lập. Khi con người hiểu được ý nghĩa cuộc đời là đau khổ, thì lúc đó họ mới cảm thấy đời sống nhẹ nhàng bớt dù có gặp khó khăn và phiền toái. Hiểu biết chính là ánh sáng soi đường và cũng là nỗi khổ đau. 

LẠY CHÚA, XIN THƯƠNG XÓT CHÚNG CON. 

Thánh vịnh 51 hôm nay -Xin thương xót con / Miserere- là kinh nguyện rất quen thuộc, được lặp đi lặp lại và là ca vịnh thống hối rất mãnh liệt. Đây là bài thánh ca về tội lỗi và sự tha thứ, là một bài suy niệm rất thâm uyên về tội lỗi và ân sủng. Kinh nguyện này đã có từ nhiều thế kỷ trước, do các tín hữu Do Thái Giáo và Kitô giáo, là dấu chỉ của sự thống hối và hy vọng kêu cầu lên Thiên Chúa là đấng giàu lòng thương xót.

Truyền thống Do thái cho Thánh vịnh này là của vua Đavít, là người được kêu gọi phải thống hối bằng những lời mạnh mẽ của tiên trị Nathan (1-2; II Sm 11-12), người đã trách Đavít là đã ngoại tình với Bathsheba và giết chống bà ta là Uriah. Tuy nhiên Thánh vịnh Miserere / Xin Thương Xót Con đã trở nên phong phú hơn vào những thế kỷ sau bằng lời kinh của nhiều người tội lỗi khác. Họ đã tìm được những đề tài mới về nội tâm và nhờ thần linh Thiên Chúa xâm nhập họ, khiến họ cảm nghiệm được ơn cứu độ như trong giảng huấn của Jeremiah và Ezekiel (c.12; Gr 31:31-34; Ed 11:19; 36:24-28). Khi xưng tội, vì nhờ lòng công bình cứu chuộc của Thiên Chúa sẵn sàng thanh tẩy chúng ta tận gốc rễ nên tội lỗi của chúng ta được tha. 

Chúa không chỉ hành động tiêu cực là hủy bỏ tội lỗi, nhưng còn tái tạo bản tính con người mới nhờ Thần Linh phấn kích để Thiên Chúa thấm nhập vào tâm hồn, lương tâm tinh tuyền mới và mở cửa đi vào một niềm tin trong sáng và lòng tôn thờ Thiên Chúa khả dĩ làm đẹp lòng đấng Tạo Hóa.. Kinh Xin Chúa Thương Xót tự nó đã tiềm ẩn lòng Thiên Chúa tha thứ là “hủy bỏ, rửa sạch” tội lỗi (c.3-4), và sau cùng biến đổi hắn thành một tạo vật mới có một tâm hồn mới, thần tính mới, miệng lưỡi mới và một trái tim mới (c.14-19). Lòng Chúa thương xót quả thật to lớn hơn nỗi khốn khổ của chúng ta rất nhiều.  

ÂN SỦNG VƯỢT THẮNG MỌI TỘI LỖI TẬN NGUỒN GỐC 

Trong bài đọc 2, thánh Phaolô nói về tội tổ tông của Adam (St 3:1-13) và ánh sáng cứu chuộc của Đức Kitô. Danh từ “Tội” được thánh Phaolô dùng ở số ít là ám chỉ tử thần đã xâm nhập loài người để chống lại tạo hóa hầu thỏa mãn ham muốn tư lợi bất kể Thiên Chúa. Nhưng không ai có quyền nói: “Ông Adam khiến tôi hành động như vậy”, bởi lẽ tất cả mọi người đều có tội (Rm 5:12). Dân ngoại hành động theo luật của lương tâm (Rm 2:14-15), còn Đức Giêsu thực hành theo giao ước Môsê. Theo Cựu Ước, tội lỗi loài người hoành hành từ lúc khởi đầu (Rm 5:13) đã là căn nguyên nảy sinh ra tội ngày càng nhiều. Theo thánh Phaolô (Rm 5:15-21), Thiên Chúa hành động trong Đức Kitô trái ngược với vi trùng tội đã xâm nhập con người qua Adam và Eva. Điều an ủi là bài đọc 2 Phaolô nói về ân sủng. Chỗ nào mà tội lỗi gia tăng thì ở đó ân sủng Chúa tràn ngập nhiều hơn. Ông tuyên bố: Ân sủng Thiên Chúa vượt thắng mọi tội lỗi tận nguồn gốc. 

MA QUỈ CÁM DỖ ĐỨC GIÊSU 

Đức Giêsu, được tuyên xưng là Con Thiên Chúa khi chịu phép Thanh Tẩy, thì hôm nay, trong bài Tin Mừng Mátthêu (Mt 4:1-11) Người phải chịu 3 cơn cám dỗ khi khởi đầu Mùa Chay Thánh. Đức Giêsu ăn chay 40 ngày 40 đêm (c.2) khiến ta nhớ lại ông Môisê cũng ăn chay 40 ngày đêm (Xh 34:28; Đnl 9:9), dân Do thái cũng phải lưu lạc trong sa mạc 40 năm. Đức Giêsu chống trả những cơn cám dỗ, tất cả đều lấy ra từ sách thứ luật (6:3; 6:16; 13). Ba cơn cám dỗ của Chúa trong câu chuyện Mátthêu phản ảnh thứ tự thời gian cùng với ba thử thách mà dân Israel phải chịu.

Tuy nhiên, dân Israel được Thiên Chúa gọi là “con” (Hs 11:1; Đnl 8:5) thì lần lượt thất bại trước mọi cám dỗ. Đức Giêsu lại cương quyết và kiên trì, chứng tỏ xứng đáng là Con Thiên Chúa bằng cách đáp trả những cám dỗ với một trái tim nồng cháy, một niềm tin vững chắc và một lòng trung sắt son với Thiên Chúa Cha. Việc ma quỉ cám dỗ Đức Giêsu sau 40 ngày đêm trong sa mạc ám chỉ hai mục đích.

Thứ nhất, một phần nào nó nương theo những thử thách mà Đức Giesu đã gặp phải trong hành trình mục vụ của người, khiến cho đường lối mà Người tuyên bố về vương quốc Thiên Chúa sẽ bị chệch hướng thành một vương quốc trần thế.

Thứ hai, những cám dỗ đó khuyến khích chúng ta cùng với Satan chống đối những tuyên xưng của Đức Giesu về vương quốc Thiên Chúa vì nó có hại và đe dọa quyền lực và vương quốc ma quỉ. 

Thần Linh Thiên Chúa đã ngự trên Đức Giêsu ở sông Jordan lúc Người chịu phép Thanh Tẩy thì nay dẫn Người vào hoang địa với một mục đích đặc biệt để người đối diện với ma quỉ. Máccô cũng diễn tả cuộc vật lộn của Đức Giêsu với Satan, một mình và thầm lặng trong hoang địa. Trong Mátthêu và Luca thì cuộc đối thoại vẫn tiếp diễn khi thằng quỷ cố tình làm lung lay lòng tin và trọng tâm của sứ mệnh thiên sai của Đức Giêsu. Những cơn cám dỗ đã cho thấy trước là sau cùng Chúa sẽ toàn thắng, vì khi Đức Giêsu chứng tỏ Người là Con Thiên Chúa thì tên quỉ liền bỏ đi ngay và các thiên thần đến phục vụ Chúa (4:11). Dân Israel đã thất bại trong sa mạc, nhưng Đức Giêsu thì không. Sợi dây vương quyền liên kết giũa Người và Thiên Chúa Cha đã quá vững mạnh đến nỗi ma quỉ hỏa ngục có bày mưu phục kích đánh phá cũng không tài nào thắng được. 

SỐNG KHÔNG PHẢI CHỈ BẰNG CƠM GẠO…. 

Cám dỗ đầu tiên trong Mátthêu tương tự câu chuyện dân Israel bị đói trước khi nhận bánh manna Chúa ban (Xh 1:1-4). Trong khi ân sủng của Chúa giúp giữ luật lệ một cách nghiêm ngặt mới được hưởng quà tặng manna từ trời thì tiếng than van, càu nhàu của dân Israel (Xh 16:3) biểu lộ mất niềm tin hoàn toàn. Dân Israel không tin tưởng vào Thiên Chúa có thể ban cho họ đầy đủ mọi sự, đã phản bội giao ước với Chúa là đấng có khả năng hoàn thành mọi đòi hỏi của giao ước (Kn 15:6). Ngược lại, Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đã không nghe lời tên quỉ dùng quyền năng Chúa Thánh Thần để biến đá thành bánh, trái lại Chúa hoàn toàn tin tưởng chờ mong bánh hàng sống từ trời (c.11). Đức Giêsu đã hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa Cha. Sống không phải chỉ nhờ cơm gạo nhưng còn vì lời Thiên Chúa. Những ai theo Chúa Giêsu thì không lệ thuộc vào của cải vật chất trần thế. Nhưng một khi bị lệ thuộc như vậy là chúng ta đã sa ngã phạm tội rồi! 

THỬ THÁCH THIÊN CHÚA 

Cám dỗ thứ hai là trọng tâm câu chuyện trong sách Thứ Luật (Tl 6:16): “Các ngươi không được thử Thiên Chúa là Chúa ngươi như đã thử ở Massah.” Dân chúng phản loạn vì thiếu niềm tin nên đã thách thức Chúa chu toàn những đòi hỏi của giao ước. Chúa Giêsu, trái lại đã từ chối chứng minh sự hiện diện của Thiên Chúa bằng cách nhảy từ tháp đền thờ xuống đất. Từ chối nhảy bởi vì Người kính trọng Thiên Chúa Cha, không muốn ai điều khiển, thử thách Thiên Chúa. Kết thúc câu chuyện Phúc Âm, chúa Giêsu Con Thiên Chúa đã thực sự nhảy vào hố sâu tử thần, bởi vì Người tuyệt đối tin đó là ý của Thiên Chúa Cha muốn Người làm như vậy (Mt 26:39; 53; 27:46). 

LÒNG TRUNG TÍN CỦA ĐỨC GIÊSU  

Cám dỗ thứ ba là những gì nhảm nhí, dị đoan: thờ ngẫu tượng. Một lần nữa, chuyện này giống như chuyện trong sách Thứ Luật: “Ngươi phải kính sợ Thiên Chúa là Chúa ngươi, phải phụng thờ Người, phải nhân danh Người mà thề. Các ngươi không được đi theo những thần khác, thần của những kẻ ở chung quanh ngươi” (Tl 6:13-14). Nhưng dân Israel đã không thèm để ý đến những lời đó mà lại “đi hoang, làm đĩ” (*) với tà thần. 

Liên hệ giữa cám dỗ thứ ba với chuyện thờ ngẫu tượng có thể khó hiểu đối với chúng ta. Trước tiên vì đền miếu thờ các thần Hy-La (Hy Lap-La Mã) bị dân Do Thái coi như ma quỉ (1Cr 10:20) và thần của Satan này tạo được sức mạnh! Chuyện thờ ngẫu tượng lần hai là một cám dỗ thực sự đối với nhiều tên giả hình Giêsu đã mong muốn được tham dự đầy đủ vào chiến lược kinh tế chính trị của guồng máy Hy-La, trong khi Đức Giêsu không màng tới những chuyện đó. Những ai mới nghe và đọc Tin Mừng Mátthêu hẳn phải biết những thỏa hiệp cần phải có để tìm kiếm hay nắm giữ một chức vụ công quyền nào, kể cả những người chỉ muốn làm những việc thiện.

Cám dỗ thứ ba cho chúng ta thấy lòng trung tín của Đức Giêsu rất bền vững không hề lay chuyển. Ngay cả từ lúc sinh ra cho loài người và mỗi người chúng ta, Con Thiên Chúa đã phải đối đầu với kẻ thù. Người bắt đầu cuộc chiến của người bằng cách dùng sức mạnh của Kinh Thánh trong một đêm nghi hoặc bối rối và bị cám dỗ. Đừng quên gương Đức Giêsu, để chúng ta khỏi bị mê hoặc, sa ngã bởi những dụ dỗ của ma quỉ. 

ĐÔI LỜI KẾT: SỐNG MÙA CHAY 

Chúng ta mỗi người thử làm những điều sau: 

1- Cầu nguyện theo Thánh vịnh 51 thật chậm rãi và cẩn thận trong tuần này. Kiếm một chữ hoặc một câu thích hợp nhất với ban, rồi nhắm mắt suy niệm nhiều lần. Dùng chữ đó/câu đó chuyển cầu hay chúc cho cộng đồng, giáo hội của bạn hoặc một ai mà bạn yêu thích.

- Trong quá khứ có vấn đề gì vẫn còn tiếp tục làm phiền bạn không?

- Bài Xin Chúa Thương xót / Miserere có thể giúp bạn bước tới tương lai với hy vọng an bình không?

- Bạn có bao giờ cảm thấy chỉ muốn trốn chạy khỏi những thực tế cuộc sống của bạn trong năm vừa qua không? Tại sao?

- Bạn có bao giờ cảm thấy Chúa bỏ rơi bạn không?

- Bạn có bao giờ kêu cầu Thiên Chúa, trong lúc buồn nản, xin Ngài thương xót không? 

2- Hãy đọc câu chuyện Đức Giêsu chiến đấu và toàn thắng cám dỗ và đêm tối trong thư thánh Phaolô gửi cộng đồng Do Thái (Dt 4:14-15; 5:10). Ở đây, Giáo Hội sơ khai cho chúng ta môt mẫu sống là Đức Giêsu, một thầy cả thượng tế đầy lòng trắc ẩn và thương sót, đấng có thể giúp chúng ta giữa những vật lộn của cuộc đời. 

3- Hãy đọc thông điệp mùa Chay tuần này của đức Phanxicô dưới đề tài: “Người trở nên nghèo, nên nhờ cái nghèo của Người mà chúng ta trở nên giàu / He became poor, so that by his poverty you might become rich” (2Cr 8:9). 

4- Hãy suy niệm về sự trung thành của chính bạn trong tuần này. Đừng kể bạn tìm ra được một loại trung thành nào khác, bạn không thể tìm ra được hiệp nhất và bình an trong trong cuộc sống của chúng ta. Trung thành thực sự thì chắc chắn và bảo đảm, sẵn sàng xả thân mình cho những người, những việc mình thích, vượt quá cả lòng vị kỷ riêng tư của mình. Nó vĩ đại hơn chúng ta nhiều và, không ai có thể thực sự thành công hay hạnh phúc nếu chỉ muốn sống cho riêng mình. Bạn trung thành thế nào? Đây là một thử nghiệm đơn giản: Làm môt danh sách những thứ mà hầu như mọi người đều tin – gia đình, cộng đồng, giáo hội, quốc gia, chủ nhân. Hãy tự hỏi xem từ khi làm danh sách này, bạn có sống để cho 5 điều trên trở nên mạnh hơn, tốt hơn, tươi đẹp hơn vì bạn không? Nếu bạn thành thật trả lời “có”, bạn biết là bạn hiểu trọn vẹn ý nghĩa của tiếng “Trung Thành” – và, vì vậy bí quyết của hạnh phúc. Đó cũng là đường dẫn đưa tới  sự thánh.

(*) Danh từ Do Thái dùng trong Cựu Ước. mục lục

CƠN CÁM DỖ

(Thi hóa Mt 4:1-11)

Bấy giờ Đức Giêsu

Được Thần Khí Thiên Chúa

Dẫn vào hoang địa kia

Chịu ma quỷ cám dỗ

Người ăn chay ròng rã

Suốt bốn mươi ngày đêm

Và rồi sau khi đó

Người thấy đói, muốn ăn.

Bấy giờ tên cám dỗ

Đến gần Người, thầm thì:

“Nếu là Con Thiên Chúa

Làm đá thành bánh đi!”

Người nói: “Có lời chép

Rằng người ta sinh tồn

Đâu chỉ nhờ cơm bánh

Mà còn bởi Lời Thiêng”.

Quỷ đưa Người đi nữa

Đặt trên nóc Đền Thờ

Nói: “Nếu là Con Chúa

Hãy gieo mình xuống đi!

Vì đã có lời chép

Chúa truyền cho thiên thần

Đưa tay ra nâng đỡ

Cho bạn khỏi vấp chân”.

Đức Giêsu đáp lại:

“Cũng có lời chép rằng

Chớ thử thách Đức Chúa

Là Thiên Chúa muôn dân”

Quỷ đem Người lên núi

Thấy rõ cả thế gian

Bao vinh hoa lợi lộc

Rồi quỷ liền nói rằng:

“Tôi cho ông tất cả

Nếu ông bái lạy tôi”.

Đức Giêsu liền nói:

“Satan kia, xéo đi!

Vì đã có lời chép

Rạch ròi, rõ mười mươi

Rằng ngươi phải bái lạy

Chính Thiên Chúa của ngươi

Và chỉ phải thờ phượng

Một mình Người mà thôi”.

Thế rồi quỷ nản chí

Vội bỏ Người mà đi

Các sứ thần tiến đến

Hầu hạ, phụng mệnh Người.

Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa

Từng ngày tháng cuộc đời

Có biết bao cám dỗ

Mà con yếu lắm thôi

Cúi xin Ngài nâng đỡ

Cuộc đời dẫu ngắn, dài

Vẫn trọn tin yêu Chúa

Cương quyết không đổi thay. mục lục

Viễn Dzu Tử

ĂN CHAY VÀ CẦU NGUYỆN

(Suy niệm và cầu nguyện từ Mt 4.1-11)

Gương cực thánh 40 ngày trong hoang địa

Đấng Thiên Sai Cứu Thế đã dạy con:

Biết vững tin, can đảm giữ xác hồn,

Luôn lướt thắng hết mọi cơn cám dỗ.

Trong chiến đấu, Chúa ban ơn sức mạnh

Chúa cho con luôn tỉnh thức, khiêm nhường

Đủ  khôn ngoan, phó thác Chúa tình thương

Năng cầu nguyện để được ơn phù trợ. 

Để tỉnh thức, con siêng đọc Lời Chúa

Chính Tin Mừng là ánh sáng cực linh

Là ngôi sao Bắc đẩu giữa đêm thanh

Con tin cậy ơn quan phòng của Chúa.

Mùa Chay Thánh, bốn mươi ngày sắp tới

Chúa cho con dọn mình xưng tội nên

Để dọn lòng mừng lễ Chúa uy quyền

Dù ma quỷ cũng phải thờ lạy Chúa. mục lục

(Thế Kiên Dominic)

Với mục đích để Lời Chúa được loan truyền và thông tin Giáo hội được lan tỏa, Legio Mariæ sẵn lòng để các tổ chức và cá nhân sử dụng lại tin bài đã đăng trên báo giấy và báo mạng legiomariævn.com của mình.

Tuy nhiên, vì đức công bằng và sự bác ái, xin quý vị vui lòng ghi đầy đủ nguồn như sau: “Theo Đạo Binh Đức Mẹ, website: legiomariævn.com”.

Ngoài ra, nếu chia sẻ bài lên mạng xã hội (Facebook, Twitter…), đề nghị dùng đường dẫn gốc trên website của Đạo Binh Đức Mẹ.

Tin liên quan