Suy Niệm Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam (CN 33 TN_B)

16-11-2024 213 lượt xem

(2 Mc7,1.20-23.27b-29; Kn 3,1-9; Rm 8,31-39; Lc 9,23-26)

Mục Lục

HỌC HỎI PHÚC ÂM (Lc 9,23-26) – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

CHỨNG NHÂN – Jorathe Nắng Tím

Ý NGHĨA SỰ TUẪN GIÁO CỦA CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM – Lm. Phêrô Phan Văn Lợi

THOẢ HIỆP LÀ NHƯỢNG BỘ ĐỨC TIN? – Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền

THẬP GIÁ LUÔN CÓ ĐÓ TRÊN HÀNH TRÌNH KITÔ HỮU – Lm. Hoa Thập Tự

GIÁ TRỊ SỰ SỐNG – Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng

CHÚC VINH THIÊN QUỐC ANH HÙNG THÁNH NHÂN – Anna Têrêsa Thuỳ Linh

Suy Niệm Chúa Nhật 32 Thường Niên B

NGƯỜI HÀNH HƯƠNG – + ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên

HY VỌNG VÀ VỮNG TIN VÀO CHÚA – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

THỜI GIAN CUỐI CÙNG – Phêrô Phạm Văn Trung

NGÀY CHÚA ĐẾN – Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương

HÃY SỐNG XỨNG ĐÁNG LÀ CON CHÁU CÁC VỊ TỬ ĐẠO ANH HÙNG VN

+ ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm

HỌC HỎI PHÚC ÂM (Lc 9,23-26)

CÂU HỎI TÌM HIỂU:

1. So sánh Lc 9,22 và Lc 9,23-24. Số phận của Đức Giêsu và số phận của những kẻ theo Ngài có nét nào giống nhau không?

2. Đọc Lc 9,22. Trong cuộc Khổ nạn và Phục sinh của Đức Giêsu, bạn có thấy tác động của con người và của Thiên Chúa không?

3. So sánh Lc 9,23 với Mc 8,34 và Mt 16,24. Tìm một điểm khác biệt giữa Luca và hai đoạn văn sau.

4. Đọc Lc 9,23. Vào thời Đức Giêsu, ai là người phải vác thập giá? Vậy theo bạn, vác thập giá của mình mỗi ngày nghĩa là gì?

5. Đọc Lc 9,23. Đức Giêsu có ép người ta làm môn đệ của Ngài không? Ngài có mời chúng ta vác thập giá của người khác không? Người kitô hữu có cô đơn khi vác thập giá của mình không?

6. Đọc Lc 9,24. Thử tìm một định nghĩa về thánh tử đạo trong câu này.

7.Đọc Lc 9,25. Câu này cho thấy điều gì có giá trị hơn cả thế giới này? Câu này có ngược với Lc 9,23 không?

8. Đọc Lc 9,23-26. Bạn có thấy Đức Giêsu là trung tâm của đời người môn đệ không?

CÂU HỎI SUY NIỆM:

Trong thời bách hại, các thánh tử đạo đã làm chứng cho Chúa bằng cái chết. Trong thời đại hôm nay, người Công giáo làm chứng cho Chúa bằng cuộc sống như thế nào? Ở Việt Nam, đức tính nào của người Công giáo có sức thu hút mạnh mẽ những người chưa biết Chúa?

PHẦN TRẢ LỜI:

1. So sánh Lc 9,22 và Lc 9,23-26 ta thấy có những nét giống nhau giữa số phận của Đức Giêsu và số phận của bất cứ ai muốn theo Ngài làm môn đệ. Thầy “phải chịu nhiều đau khổ và bị loại trừ” (Lc 9,22), còn trò thì được mời “vác thập giá” (Lc 9,23). Thầy “bị giết chết” (Lc 9,22), còn trò thì “mất mạng sống” (Lc 9,24). Nhưng cuối cùng, Thầy “sẽ được trỗi dậy” (Lc 9,22), và trò cũng sẽ “cứu được mạng sống mình” (Lc 9,24).

2. Luca 9,22 là lời Đức Giêsu tiên báo cuộc Khổ nạn và Phục sinh của mình. Động từ phải đi với một loạt các động từ sau đó: phải chịu đau khổ, phải bị loại trừ, phải bị giết chết, và phải được trỗi dậy. Động từ phải ở đây cho thấy toàn bộ những biến cố trong câu này nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa. Tuy nhiên, vẫn có bàn tay con người trong những biến cố này, đó là các kỳ mục, thượng tế và kinh sư (Lc 9,22). Họ sẽ loại bỏ và giết Đức Giêsu. Nhưng cuối cùng bàn tay mạnh mẽ của Thiên Chúa sẽ làm cho Đức Giêsu được trỗi dậy.

3. Khi so sánh Lc 9,23 với Mc 8,34 và Mt 16,24, ta nhận thấy chỉ Luca 9,23 mới có cụm từ hàng ngày đi sau cụm từ vác thập giá. Đức Giêsu đặt từ bỏ chính mình và vác thập giá của mình hàng ngày kế bên nhau. Đó là điều kiện để theo Thầy Giêsu làm môn đệ. Vác thập giá không phải là chuyện làm một lần là xong, nhưng kéo dài mỗi ngày trong suốt cuộc đời người môn đệ.

4. Vào thời Đức Giêsu, đóng đinh vào thập giá là hình phạt nặng nhất của đế quốc Rôma dành cho những kẻ nổi loạn hay cướp của giết người. Nhà cầm quyền Rôma bắt những tử tội vác thanh ngang của thập giá đến nơi hành hình, còn thanh dọc thường đã để ở nơi đó rồi. Người vác thập giá là người sắp bị đóng đinh, sắp bị giết chết bằng một hình phạt khủng khiếp. Để đi theo làm môn đệ Chúa, cần từ bỏ chính mình, từ bỏ những suy nghĩ, ước muốn và hành động của mình, nếu chúng đi ngược với ý Chúa. Như thế phải từ bỏ mình nhiều lần trong ngày và trong đời. Bởi đó Đức Giêsu muốn so sánh việc từ bỏ mình hàng ngày với việc vác thập giá của người tử tội. Cả hai đều dẫn đến cái chết: người tử tội chịu cái chết thể lý, còn người môn đệ chấp nhận cái chết liên tục về mặt thiêng liêng.

5. Qua Lc 9, 23, ta thấy Đức Giêsu không ép ai theo Ngài làm môn đệ. Câu “Ai muốn theo Tôi” cho thấy Ngài để cho ta được tự do muốn theo Ngài hay không. Ngài không giấu ta những đòi hỏi gắt gao nếu ta muốn đi theo Ngài. Ngài đòi ta từ bỏ chính mình, chứ không chỉ buông bỏ những gì ta đang sở hữu. Từ bỏ cái tôi khó hơn từ bỏ mọi thứ mình có ở ngoài mình. Ngài đòi ta vác thập giá nhưng Ngài không đòi ta vác thập giá của người khác hay vác thập giá của Ngài, nhưng vác thập giá của mình, thập giá mà Ngài đã đẽo gọt cho riêng ta. Hơn nữa, ta không vác thập giá một mình trong cô đơn, nhưng vác thập giá đi theo Ngài, Đấng đã vác thập giá đi trước ta. Qua Lc 9,23 chúng ta thấy hình ảnh của một kitô hữu, người vác thập giá của mình hàng ngày, đi sau Đức Giêsu, Đấng vác thập giá đi trước. Và họ biết mình đi đâu…

6. Thánh tử đạo là người đã sống nửa sau của câu Lc 9,24. Đức Giêsu quả quyết một chân lý đúng cho mọi người: “Bất cứ ai mất mạng sống của mình vì Thầy, người ấy sẽ cứu được mạng sống ấy.” Mạng sống (psykhê) là điều rất cao quý do Chúa ban. Vị tử đạo đã chấp nhận mất mạng sống của mình ở đời này vì Thầy Giêsu, cuối cùng sẽ cứu được mạng sống đó, nghĩa là được sống mãi với Thầy trong đời sống vĩnh cửu.

7. Trong Lc 9,23 Đức Giêsu đòi ta phải từ bỏ chính mình để theo Ngài làm môn đệ. Chính mình ở đây là cái tôi ích kỷ, là mạng sống mình ở đời này. Còn trong Luca 9,25 Đức Giêsu lại khẳng định: được cả thế giới này mà đánh mất chính mình thì nào có lợi gì. Ở đây Ngài coi chính mình là điều quý giá hơn cả thế giới. Đức Giêsu không mâu thuẫn khi nói hai câu trên, vì chính mình ở Lc 9,25 không phải là mạng sống chóng qua ở đời này, nhưng là sự sống vĩnh cửu. Ngài khuyên ta không được đánh mất chính mình, nghĩa là không được đánh mất sự sống đời đời của mình, dù được cả thế giới hay giữ được mạng sống mình ở đời này. Như thế hai từ “chính mình” (heauton) trong hai câu 23 và 25 tuy giống nhau, nhưng có nghĩa khác nhau, nên không có mâu thuẫn giữa hai câu trên.

8. Người môn đệ là người “đi theo” Đức Giêsu, “vác thập giá của mình mà theo Ngài” (c. 23); là người dám “mất mạng sống mình vì Đức Giêsu” (c. 24); là người không được “xấu hổ vì Đức Giêsu và những lời của Ngài” (c. 26). Như thế, Đức Giêsu đóng vai trò trung tâm trong cuộc đời người môn đệ. Người môn đệ phải đặt Ngài lên trên mọi giá trị khác. Ta có được sự sống đời đời hay không dựa trên thái độ của ta đối với Đức Giêsu. Hơn nữa, Luca 9,26 còn cho thấy niềm hy vọng của chúng ta ở nơi Đức Giêsu. Ngài là “Con Người ngự đến trong vinh quang của mình, và của Chúa Cha, và của các thánh thiên thần.” Chúng ta hy vọng được chung hưởng vinh quang với Đấng đã chiến thắng cái chết. mục lục.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

CHỨNG NHÂN

Theo nguyên ngữ Hy Lạp, Tử Đạo có nghĩa là “Người Làm Chứng”. Làm chứng một điều gì, làm chứng về một người nào là thuyết phục người nghe tin điều mình nói về sự việc ấy, về con người ấy là thật, là đúng. Và để thuyết phục người nghe, người làm chứng có khi phải lấy chính mạng sống mình để minh chứng, và bảo đảm điều mình nói. Các thánh Tử Đạo là những người làm chứng Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật, vì yêu con người đã xuống thế làm người thật, đã chết để cứu độ nhân loại, và đã sống lại để mọi người được sống. Các ngài còn làm chứng  Giáo Hội Đức Giêsu  lập ra là Đạo thật, Đạo yêu thương, con đường đưa toàn thể nhân loại  về yêu thương.

Cũng chính vì làm chứng  Thiên Chúa và công trình cứu độ của Ngài, mà các chứng nhân của Thiên Chúa gặp nhiều chống đối giữa anh em mình, bởi thế gian không đón nhận “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và soi chiếu mọi người. Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,9-11).

Thế gian không nhận Đức Giêsu là  Ngôi Lời của Thiên Chúa,  chỉ vì thế gian “không nhận biết và chẳng chịu đón nhận”.  Lý do thật đơn giản và vô tình!

Vì thế gian không nhận biết, mà chứng nhân phải làm chứng để thế gian nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa Cứu Độ duy nhất; vì thế gian chẳng chịu đón nhận, mà chứng nhân phải thuyết phục bằng chứng cớ đời sống,  với chứng từ có giá trị để thế gian đón nhân Đức Giêsu là Đấng đã chuộc lại quyền làm con Thiên Chúa và  ban sự sống đời đời cho mọi người bằng sự chết và phục sinh của Ngài.

Được sai đến với các dân tộc, ở mọi thời để  làm chứng Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất, Thiên Chúa làm người, đã chết như con người và sống lại với quyền năng Thiên Chúa, các chứng nhân nhận một sứ vụ thánh thiêng, nhưng không thiếu cam go, thử thách, đe dọa giữa lòng thế giới muôn hình vạn trạng. Đức Giêsu đã không giấu diếm các môn đệ sự thật nguy hiểm về thế gian, nơi các vị sẽ phải đến làm chứng về Ngài:

“Thầy sai anh em vào thế gian, như chiên đi giữa bầy sói” (Mt 10,16). “Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước. Giả như anh em thuộc về thế gian, thì thế gian đã yêu thích cái gì là của nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian, và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em” (Ga 15,18-19).

Không những chứng nhân bị thế gian ghét, vì  thuộc về Thiên Chúa, nhưng còn bị thế gian bách hại:

“Người ta sẽ tra tay bắt và ngược đãi anh em, nộp anh em cho các hội đường và bỏ tù, điệu anh em đến trước mặt vua chúa quan quyền vì danh Thầy. Đó là cơ hội để anh em làm chứng cho Thầy” (Lc 21,12-13).

Tệ hơn thế nữa, các vị còn bị chính người nhà, bạn hữu, thân thuộc của mình truy lùng, ghét bỏ, ruồng rẫy: “Anh em sẽ bị chính cha mẹ, anh chị em, bà con, và bạn hữu bắt nộp. Họ sẽ giết một số người trong anh em. Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét” (Lc 21,16-17).

Quả thật, con đường trước mặt của chứng nhận là con đường đầy chông gai, cạm bẫy và hứa hẹn tù đầy, đổ máu, mất mạng. Con đường chứng nhân phải đi làm chứng không đẹp như mơ, không huy hoàng, hoành tráng, không thênh thang như đường về làng ngày “vinh quy bái tổ”.

Những đe dọa, hiểm nguy do lòng “ganh ghét vô cớ” của thế gian thì vô số kể (Ga 15,25). Vô cớ nghiã là chẳng có lý do gì, chẳng có nguyên nhân nào hợp lý . Vô cớ đến độ:  “Thế gian ghét Thầy, thì cũng ghét Cha Thầy” (Ga 15, 23), và tất nhiên “ghét cả anh em” (Ga 15,18), mặc dù thế gian đã thấy những việc tốt lành Thầy đã làm cho họ (x. Ga 15,24).

Trước bao nhiêu gian truân, thử thách giăng mắc, đe dọa,  làm  sao các chứng nhân đã  có thể mạnh dạn lên đường và kiên cường làm chứng?

Thánh Phaolô, Tông Đồ dân ngoại đã thay mặt các chứng nhân trả lời: “Vì Tình Yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi” (2 Cr 5,14), và sở dĩ chúng tôi đứng vững là  “do quyền năng phi thường của Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi”, nên “chúng tôi bị dồn ép tư bề, nhưng không bị đè bẹp ; hoang mang, nhưng không tuyệt vọng; bị ngược đãi, nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã, nhưng không bị tiêu diệt”, bởi “chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi” (2 Cr 4,7-10).

Thực vậy, các chứng nhân của Đức Giêsu từ giáo đoàn đầu tiên Giêrusalem đến tận cùng thời gian được tình yêu Đức Kitô thúc bách đã lên đường làm chứng Tin Mừng với những căn dặn của Đức Giêsu như hành trang không thể thiếu giữa thế gian luôn thù ghét.

1. “Thầy để lại Bình An cho anh em, Thầy ban cho anh em Bình An của Thầy, Bình An mà thế gian không ban được. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi.” (Ga 14,27).

a. Bình An là dấu chỉ Thiên Chúa ở với người được sai đi:

“Anh em biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em” (Ga 14,20).

Chính Đức Giêsu đã bộc lộ ý muốn ở với người được sai đi  trong lời cầu  xin với Chúa Cha: “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con” (Ga 17,24).

b. Bình An là sức mạnh của Chúa Thánh Thần liên lỷ hoạt động nơi người làm chứng:

“Thầy sẽ xin Chúa Cha, và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và trong anh em” (Ga 14,16-17).

Có Chúa Thánh Thần, chứng nhân sẽ không  sợ hãi, hay lo nghĩ phải bào chữa, biện bạch thế nào trước mặt quan quân và những kẻ chống đối, nhưng Thánh Thần sẽ chỉ bảo phải nói gì, “khiến tất cả địch thù không tài nào chống chọi hay cãi lại được” (Mc 21,15).

c. Bình An là bảo chứng quyền năng Thiên Chúa nơi người được sai đi làm chứng:

“Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó cón làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha. Và bất cứ điều gì anh em nhân danh Thầy mà xin, thì Thầy sẽ làm, để Chúa Cha được tôn vinh nơi người Con” (Ga 14,12-13).

Như thế, người làm chứng Đức Giêsu tiên vàn phải nhận  từ Đức Giêsu, Đấng sai họ, Bình An của Ngài. Không có Bình An của Đức Giêsu, không  chứng nhân nào có thể làm chứng chính xác, đầy đủ về Đức Giêsu; không mang Bình An của Đấng đã chết và Sống Lại, người làm chứng sẽ không thể  làm chứng bằng “loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại”, là sứ điệp Tin Mừng mà người được sai đi phải làm chứng.

Bình An của Đức Giêsu, vì thế, sẽ không thể thiếu trong tâm hồn chứng nhân, bởi chỉ với Bình An của Đức Giêsu sống lại, chứng nhân mới có thể kiên cường đi đến cùng hành trình làm chứng của mình  giữa phong ba bão táp của thế gian.

2. “Thầy truyền cho anh em điều răn của Thầy: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” (Ga 15,12):

Nếu Bình An của Đức Giêsu là bửu bối không thể thiếu trên đường làm chứng, thì giới răn “Anh em hãy yêu thương nhau” là chìa khóa để lời chứng của chứng nhân có giá trị và thuyết phục.

Đức Giêsu hơn ai hết biết rõ nguy cơ và sức công phá kinh khủng của hận thù, ghen ghét, bạo lực. Cũng chính vì muốn tiêu diệt hận thù, bẻ tan ghen ghét, đẩy lui bạo lực trong thế giới, mà Ngài đã đến để ban Bình An, Yêu Thương, nên  sẽ không có lý do những người thuộc về Ngài lại không yêu thương nhau; không có thể những chứng nhân làm chứng Thiên Chúa là Tình Yêu, Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ hiến mạng sống vì yêu nhân loại đến cùng lại xa lạ với tình huynh đệ; và sẽ hoàn toàn vô ích, nếu không nói là nguy hiểm, nếu người làm chứngTin Mừng là Lòng Thương Xót lại bôi nhọ, vu khống, hiềm khích, đấu đá, ăn thua đủ với nhau.

Không chỉ Đức Giêsu hay những người thuộc về Giáo Hội, mà tất cả mọi người, bất kể họ là ai, đều “dị ứng”, kinh ngạc, sợ hãi trước cảnh môn đệ cùng sư phụ ẩu đả, lên án, cắn xé nhau. Thực vậy, sẽ không còn chứng nhân, nếu không có đức ái ; không còn lời chứng, nếu ganh ghét, hận thù thống trị ; không còn người được sai đi, nếu đường đi không còn là đường lên núi Bát Phúc, nhưng sẽ chỉ còn lại những “người chứng nói dối”, “lời chứng mâu thuẫn, phi lý, không thuyết phục”, và danh xưng “người làm chứng  qủa cảm, hào hùng” bắt buộc phải đổi lại thành “người phản chứng lố bịch, dị hợm”.

“Yêu thương nhau” không còn là đồ phụ tùng,  chuyện nhỏ, phụ thuộc, nhưng là chính yếu, dấu chỉ duy nhất của môn đệ Đức Giêsu,  của người được sai đi làm chứng, nên không yêu thương nhau,  căn cước tính của người làm chứng tự động biến mất trước mặt Thiên Chúa, và dưới mắt con người, bởi cả Thiên Chúa và con người đều không thể chấp nhận người chứng của Tình Yêu lại không biết yêu thương.

Mừng kính các thánh Tử Đạo cha ông , chúng con không chỉ cảm phục các Đấng đã can đảm chấp nhận chịu đánh đòn, bá đao, voi dầy , chém đầu, thiêu sống, chết rũ tù, nhưng trên hết, chúng con ngưỡng mộ lòng yêu mến nơi các Đấng. Các Đấng đã yêu mến Thiên Chúa và được Tình Yêu Đức Kitô thúc bách, khi Bình An lên đường làm chứng, Bình An đổ máu làm chứng, Bình An dâng hiến mạng sống làm chứng. Với Bình An của Đức Giêsu phục sinh, các Đấng đã không than thở, trách móc, hận thù  vua quan, dân tộc, đồng bào đã làm khổ, bách hại, giết chết mình, nhưng luôn Bình An tha thứ, Bình An hoà giải, Bình An  cầu xin ơn phúc cho quê hương, dân tộc, vì các Đấng  luôn ở trong Thiên Chúa là Tình Yêu tuyệt đối và nguồn Bình An viên mãn. Bên cạnh đó là đời sống bác ái, huynh đệ, phục vụ của các Đấng  đã đánh động, cảm hóa anh em đồng bào, để Danh Đức Giêsu ngày càng được vinh hiển trên quê hương, và trong lòng người dân Việt.

Mừng kính các thánh Tử Đạo cha ông cũng là dịp chúng con ý thức ơn gọi và sứ vụ làm chứng  của mình, để luôn biết rằng hành trình làm chứng “Đức Giêsu chịu đóng đinh” luôn là đường Thánh Giá, và bất kể ở thời nào, người làm chứng vẫn được mời gọi vác Thánh Giá và chết với Đức Giêsu cho anh em mình.

Tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con các Thánh Tử Đạo là cha ông anh dũng  trong huyết thống và Đức Tin.  Cúi xin các Thánh ban cho chúng con biết đón nhận Bình An của Đức Giêsu và sống điều răn “Yêu Thương nhau” trên hành trình Làm Chứng, như các thánh Cha Ông Tử Đạo  đã  làm chứng bằng chính  đời sống  và mạng sống mình. mục lục.

Jorathe Nắng Tím

Ý NGHĨA SỰ TUẪN GIÁO CỦA CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM

1- Gian khổ, con đường làm chứng cho Chúa Ki-tô tử nạn

Trong Tin Mừng, Chúa Giê-su Ki-tô đã loan báo cho các Tông đồ và các môn đệ mọi thời rằng ai bước theo Người cách đích thật chắc chắn sẽ phải chịu bách hại: “Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau” (Mc 10,30). Chúa còn cảnh báo: “Hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết” (Mt 10,17-18). Với thói quen trình bày sự thật một cách thẳng thừng và toàn vẹn, Chúa đã chuẩn bị cho môn đệ mình đón nhận điều tồi tệ nhất: “Em sẽ nộp anh cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét.” (Mt 10,21-22).

Đó là vì các môn đệ sẽ phải làm chứng về Thiên Chúa, Đấng tạo dựng đất trời, Đấng luôn đòi hỏi nhân loại nên thánh thiện như Người, nghĩa là yêu thương đến tột độ; và làm chứng về Đức Kitô chịu đóng đinh, “sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1Cr 1,24). Nghĩa là công bố cho mọi người tình yêu vĩ đại của Thiên Chúa, thể hiện qua việc cứu rỗi thế gian nhờ Thập giá Đức Ki-tô, một mầu nhiệm lớn lao và cùng lúc không thể hiểu được đối với loài người.

Để làm được điều ấy, một điều hầu như luôn luôn kéo theo sự bắt bớ, Ki-tô hữu cần có sự khôn ngoan và sức mạnh từ trời cao. Đó là Chúa Thánh Thần: “Khi người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói gì; không phải chính anh em nói, mà là Thánh Thần của Cha anh em nói trong anh em” (Mt 10,19-20).

Điều đó đã xảy ra thời các Tông Đồ. Điều ấy cũng đã lặp lại trong các thời đại khác nhau của lịch sử, ở nhiều lúc và nhiều chỗ khác nhau, trong các cuộc bắt bớ khốc liệt, đặc biệt suốt ba thế kỷ đầu của Giáo hội bên Tây phương.

2- Các Thánh Tử đạo VN, những tay gieo của Thiên Chúa:

Giáo Hội Công Giáo Việt Nam suốt ba thế kỷ đầu của mình cũng đã chịu nhiều cuộc bách hại liên tiếp như thế, với một vài lúc ngưng nghỉ, kể từ năm 1533, nghĩa từ khởi thủy việc rao giảng Tin Mừng ở Đông Nam Á. Đã có hàng trăm ngàn Ki-tô hữu bị đưa tới pháp trường, và nhiều hơn thế là những kẻ đã chết trên núi, trong rừng, nơi những vùng đất độc hại mà họ đã bị đày đến, nơi những thôn làng Công giáo bị quan quân bủa vây, nơi những ngôi nhà thờ bị Văn Thân lùa tín hữu vào đó rồi phóng hỏa. Dù được phong thánh ngày 19-06-1988 chỉ vỏn vẹn 117 vị, trong đó có 8 Giám mục, 50 Linh mục và 59 giáo dân.

Việc sống đạo và chết vì đạo của các ngài đã xảy ra trong những tình thế rất phức tạp.

- Trước tín ngưỡng nhân gian và tam giáo Đông Phương (Khổng, Phật, Lão) thần thánh hóa đủ thứ, từ con người đến động vật và ngay cả núi sông cây cỏ, các vị tử đạo đã rao giảng một Thiên Chúa sáng tạo vạn vật, chủ tể muôn loài, và chẳng có thần linh tối cao nào ngoài Người cả.

- Trước “đạo ông bà” thờ cúng tổ tiên và các anh hùng dân tộc như thần thánh, các vị tử đạo vẫn cổ vũ lòng tôn kính tiên tổ và tiền nhân đúng đạo hiếu dân Việt, nhưng lòng tôn kính này phải đặt sau việc tôn thờ bái lạy Thiên Chúa.

- Trước quan niệm bình dân cho rằng tôn giáo nào cũng dạy ăn ngay ở lành và Công giáo là đạo của phương Tây, các vị Tử đạo cho thấy Công giáo là đạo dành cho hết mọi người và có tính cách siêu việt, mạc khải những điều cao cả từ nơi Thiên Chúa.

- Trước đầu óc phong kiến, coi nhà vua như Thiên tử (con Trời) và hết thảy con dân trong nước đều là thần dân (tôi tớ), các vị tử đạo rao giảng giáo lý: tất cả ai nấy đều là con Trời, và vì vậy đều có phẩm giá như nhau.

- Trước thói tục đa thê hoành hành trong mọi tầng lớp xã hội, từ vua quan đến thứ dân, các vị tử đạo rao giảng nền luân lý đơn hôn (một vợ một chồng) và vĩnh hôn (sống với nhau cho đến chết). Một nền luân lý cao đẹp, có sức nâng cao nhân phẩm và biến đổi xã hội mãnh liệt.

- Trước hoàn cảnh chính trị đất nước phức tạp (các triều đại tranh quyền với nhau, Thực dân Pháp xâm chiếm đất nước, giặc giã nổi lên nhiều chỗ…), các vị tử đạo nhiều lần bị nghi ngờ theo Tây, theo giặc, nhưng các ngài đã luôn chứng tỏ lòng trung thành với đất nước và trung thực với chính quyền. Ngay các vị thừa sai tử đạo cũng đã không bao giờ phục vụ cho quyền lợi của đất nước họ.

Chính đó là những thách thức đối với vua chúa lẫn xã hội đương thời, và trở nên lý do khiến các ngài bị bách hại.

Các thánh Tử Đạo Việt Nam như thế là những người gieo của Thiên Chúa mà Thánh vịnh đã 126 [125] đã ám chỉ: “Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo” (c. 5). Nước mắt và máu của các ngài đã tưới vào hạt giống Tin Mừng, hạt giống ân sủng, để ơn huệ Đức tin có thể trổ sinh dồi dào: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24).

3- Các Thánh Tử đạo VN, những thợ gặt của Nước Trời:

Và từ những đau khổ lẫn tuẫn giáo của các ngài, “mùa gặt của Chúa” đã tới. Thánh vịnh trên tiếp đến gọi các vị Tử đạo là những thợ gặt: “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 126[125], 5-6).

Mùa gặt đó, lúa vàng đó, hoa trái đó chính là sinh lực của Giáo hội VN, là khả năng và lòng kiên nhẫn của Giáo Hội VN để đương đầu với các khó khăn đủ loại và để công bố Tin Mừng suốt bao thế kỷ qua.

Máu các thánh Tử đạo đã là nguồn ân sủng để Ki-tô hữu đất Việt tiến lên trong Đức tin của tiền nhân. Đức tin ấy đã là nền tảng cho sự kiên trì của tất cả những ai đích thực cảm thấy mình là người Việt, trung thành với nước Việt, đồng thời vẫn muốn làm môn đệ chân chính của Đức Kitô.

Đức tin ấy đã kêu gọi Ki-tô hữu kính sợ Thiên Chúa, yêu thương mọi người, tuân phục chính quyền và các định chế của xã hội trong những gì chính đáng vì lòng mến Chúa.

Đức tin ấy đã kêu gọi Ki-tô hữu làm điều thiện, ứng xử như những con người tự do (x. 1Pr 2,13-17), tìm kiếm thiện ích chung của quê hương như một nghĩa vụ chân thành của công dân Ki-tô hữu, trong niềm tự do công bố sự thật của Thiên Chúa, trong sự hiệp thông với các mục tử và các đồng đạo, trong ước vọng sống an bình với mọi người khác để thành tâm xây dựng thiện ích cho tất cả.

Và đó là điều mà chúng ta đã thấy từ thời các chứng nhân Tử đạo cho đến hôm nay trên đất Việt, qua vô vàn chứng nhân Ki-tô hữu Việt Nam khác nữa.

Kết

Các Thánh Tử đạo đã trở nên những của lễ toàn thiêu, kết hợp với hy tế Thập giá của Đức Kitô khổ nạn. Các ngài đã là chứng nhân cho chiến thắng của Đức Kitô trên tử thần, cho ơn gọi của con người là được bất tử! Nhờ thế các ngài đã thông phần vào việc cứu độ trần gian do Người thực hiện, và nay đang được hạnh phúc muôn đời. Đúng như sách Khôn ngoan 3,5-9 đã nói về họ.

Là con cháu, là hoa trái của các ngài, chúng ta cũng được hứa hẹn những điều như thế nếu chúng ta tham gia vào thống khổ và thập giá của Đức Ki-tô, để thông phần vào việc cứu độ trần gian do Người thực hiện. Và như vậy, mùa gặt của các Thánh Tử đạo Việt Nam sẽ kéo dài mãi trong hân hoan qua tất cả chúng ta! mục lục.

Lm. Phê-rô Phan Văn Lợi, Tổng Giáo phận Huế.

THOẢ HIỆP LÀ NHƯỢNG BỘ ĐỨC TIN?

Ở đời người ta hay tìm cách “thoả hiệp” khi gặp khó khăn. Thoả hiệp là giải pháp an toàn cho bản thân và tập thể. Thoả hiệp thường đi kèm với nhượng bộ, nhân nhượng có khi còn đi sai nguyên tắc, quy ước đã lập ra.

Là người ky-tô hữu thì không bao giờ tìm thoả hiệp, vì không thể hy sinh những nguyên tắc trong luật của Chúa và Giáo Hội. Bởi vì, sự thỏa hiệp đòi hỏi phải từ bỏ một phần quan điểm của mình để nhượng bộ cho đối phương, mà đối phương của chúng ta lại là Satan và những người đi theo nó.

Các thánh tử đạo Việt Nam là những người làm chứng cho đức tin giữa thế gian nên không thể nhượng bộ những cám dỗ danh lợi thú của thế gian và những đe doạ tính mạng từ vua chúa trần gian. Một nghĩa nào đó thì tử đạo tức là từ chối thoả hiệp để trung kiên với niềm tin của mình. Như Thánh Phaolô Lê Bảo Tịnh đã nhiều lần bị bắt giam vì hoạt động tôn giáo và giảng đạo . Ngài bị tra khảo và bị ép buộc phải chối bỏ niềm tin Kitô giáo. Theo luật lệ thời đó, những ai chấp nhận bước qua Thánh Giá - một biểu tượng của Kitô giáo - sẽ được tha tội và không bị hành quyết. Tuy nhiên, Lê Bảo Tịnh, dù bị đe dọa và đánh đập dã man, đã từ chối bước qua Thánh Giá, từ chối thỏa hiệp với yêu cầu của chính quyền. Ngài kiên quyết giữ vững đức tin và không bao giờ chối bỏ Thiên Chúa. Ngài từng nói: “Tôi sẽ không bao giờ chối bỏ Chúa của tôi. Nếu cần, tôi sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho đức tin Kitô giáo mà tôi tin tưởng.” Sau đó, ngài bị kết án tử hình bằng hình phạt chém đầu vào ngày 6 tháng 4 năm 1857.

Với thánh Anrê Dũng lạc, dù quan quân mở lối thoát bằng việc cho giáo dân đem tiền chuộc, nhưng ngài vẫn cương quyết chối từ. Các giáo dân đã tới trại giam khuyên nhủ cha rằng: "Thưa cha, cha chịu chết thì một mình cha lên thiên đàng, mà nếu cha còn ở lại thì bổn đạo chúng con được nhờ, vậy xin cha nghĩ lại". Nhưng cha Lạc đã cấm họ đem tiền chuộc, cha nói: "Tôi bị bắt lần này là lần thứ ba, thì đó đúng là thánh ý Chúa định cho tôi như vậy, anh chị em đừng mất tiền chuộc tôi làm gì. Tôi cũng như Thánh Phêrô, khi phải bắt lần trước được giáo dân cầu nguyện cho và được về, lần thứ hai giáo dân cũng lo liệu cho được thoát khỏi, nhưng ý Chúa đã định cho tôi phải chết vì Người như thánh Phêrô, thì xin anh em đừng chuộc tôi nữa".

Là con cháu các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta luôn tự hào vì có các vị tiền nhân đã quả cảm để sống niềm tin, nhưng liệu rằng chúng ta hôm nay còn mấy ai dám khước từ những thoả hiệp trần gian để trung kiên với đức tin của cha ông để lại? Vì đâu đó, vẫn còn những con người vì chút bổng lộc trần gian đã bỏ đạo, đã chống đối đạo. Vẫn còn đó những con người vì miếng cơm manh áo, vì tương lai của con cái đã không tuân giữ luật Chúa nên gây gương mù gương xấu cho anh em. Vẫn còn đó những con người vì tiền mà bán mình, bán con để kiếm đồng đola bất chính. Họ thà rằng lỗi luật Chúa còn hơn là bỏ lỡ cơ hội lấy tiền, lấy bạc. Họ thà rằng mất mặt với bà con xóm làng còn hơn là mất túi ba gang mà “quạ đen ban tặng”. Vẫn còn đó những con người bỏ Chúa chứ không bỏ tiền, bỏ Chúa chứ không bỏ tình, bỏ giáo hội chứ không bỏ danh vọng trần gian.

Các Thánh Tử Đạo Việt Nam hay Các Thánh Tử Đạo Tại Việt Nam?

Theo cách dùng chính thức và truyền thống trong Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, danh hiệu đúng cho ngày lễ kính các vị tử đạo là "Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam". Cụm từ này nhấn mạnh danh xưng tôn kính dành cho các vị thánh tử đạo là người Việt Nam, tức những tín hữu đã hy sinh mạng sống vì đức tin tại Việt Nam.

Tuy nhiên, cách gọi "Lễ Các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam" cũng thường được sử dụng, dù ít phổ biến hơn. Cách gọi này nhấn mạnh về địa điểm nơi các vị thánh chịu tử đạo (tại Việt Nam), nhưng có thể khiến một số người hiểu nhầm rằng các vị thánh có thể không phải là người Việt Nam.

Vì vậy, "Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam" được xem là danh xưng chính thức và chuẩn xác hơn, phù hợp với ý nghĩa và tinh thần của ngày lễ trong truyền thống Công Giáo Việt Nam.

Vào ngày 19 tháng 6 năm 1988, trong lễ tuyên thánh cho 117 vị tử đạo Việt Nam, các ngôn ngữ phụng vụ bao gồm tiếng Latinh được sử dụng, đặc biệt là trong các phần quan trọng của Thánh Lễ như công bố sắc tuyên thánh. Tiếng Latinh thường được chọn trong các nghi thức quan trọng của Giáo Hội để duy trì tính truyền thống và tính phổ quát trong các sự kiện tôn giáo long trọng như lễ tuyên thánh.

Trong Thánh Lễ này, các vị tử đạo Việt Nam được tuyênn bố với danh hiệu Sancti Martyrēs Vietnamēnsēs (được dịch là: Các Thánh Tử Đạo Việt Nam), biểu thị lòng tôn kính dành cho những tín hữu đã hy sinh mạng sống vì đức tin tại Việt Nam.

Tiếng Pháp là: The Holy Martyrs of Vietnam, Les Saints Martyrs du Vietnam

Trong tiếng Pháp, từ "du" là dạng rút gọn của "de le" (của + le), mang nghĩa là "của" hoặc "thuộc về". Vì vậy, "Les Saints Martyrs du Vietnam" có nghĩa là "Các Thánh Tử Đạo của Việt Nam" hoặc "Các Thánh Tử Đạo Việt Nam.

Do đó, theo tiếng La-tinh và Tiếng Pháp thì không dùng chữ tại Việt Nam. Dù có những vị không phải gốc Việt nhưng các ngài đã mang tâm tình của Giáo hội Việt Nam và làm chứng cho tin mừng trên quê hương đất nước Việt Nam.

Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam là cha ông của chúng con, xưa các ngài đã dùng máu đào để bảo vệ đức tin xin gìn giữ chúng con luôn trung kiên theo Chúa, dám khước từ danh lợi thú trần gian để nên chứng nhân cho Nước Trời trong cuộc sống hôm nay. mục lục.

Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền

THẬP GIÁ LUÔN CÓ ĐÓ TRÊN HÀNH TRÌNH KITÔ HỮU 

Trong ngày lễ mừng các vị anh hùng đức tin của chúng ta hôm nay, chúng ta cũng dâng lên Chúa lời tri ân vì những tiên nhân bất khất đã chịu mục nát cho hát giống Tin Mừng được gieo vãi và lớn lên sinh nhiều hoa trái trên quê hương Đất Việt, đồng thời cũng là dịp để chúng ta cũng suy chiêm về sứ mạng làm chứng cho đức tin trong thời đại hôm nay. Với ý hướng đó, dựa trên sứ điệp Lời Chúa hôm nay, tôi xin gợi lên mấy điểm để cùng suy niệm:

“Máu các thánh tử đạo làm nảy sinh các kitô hữu” (Tertuliano)

Đức tin của các tín hữu nói chung, của các con dân đất Việt nói riêng, được kết dệt nên bởi mồ hôi và nước mắt và máu của các chứng nhân, những người đã chấp nhận mục nát trong lòng đất, để hạt giống Tin Mừng gieo vãi và sinh nhiều hoa trái. Dòng chảy này đươc khởi nguồn từ Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời của Thiên Chúa, Đấng đã tự mục nát trong thân phận con người để làm chứng cho sự thật về Thiên Chúa, về cội nguồn và cùng đích của con người, và của toàn thể vũ trụ.

Tiếp bước chân của Đấng là yêu cho đến cùng, các chứng nhân đức tin đã nối gót nhau minh chứng cho sự thật, cho Tình Yêu cứu thế được nhập thể trong mọi cảnh huống của nhận loại, trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau, những vùng niềm văn hóa khác nhau. Ở đâu có ánh sáng Tin Mừng chiếu rọi, ở đó có sự phân rẽ, phân rẽ giữa bóng tối của ác thần và nguồn sáng chân lý Phúc âm soi chiếu. Điều này có nghĩa ở đâu có Tin Mừng, có hạt giống đức tin được gieo vãi, ở đó có bình an đích thực, có sự giải phóng đúng nghĩa. Tuy nhiên để ánh sáng đươc giải chiếu, để hạt giống được gieo vãi và cắm rễ đâm bông sinh trái, máu của biết chứng nhân đã phải đổ xuống. Điều kì diệu là càng bị bách hại, Kitô giáo càng phát triển. Đúng là “máu các thánh tử đạo làm nảy sinh các kitô hữu”.

Giáo Hội luôn bước đi trong sự bach hại của thế gian và sự ủi an của Thiên Chúa (St. Augustinô)

Bao lâu trong cuộc hành trình dương thế, Giáo Hội, các môn đệ Đức Kitô, đang phải đối diến với sức mạnh của ác thần, đang trong tiến trính quằn quại, rên siết.  Tuy nhiên, chiến thắng chúng cuộc luôn thuộc về Giáo Hội, Thân Thể Đức Kitô, Đấng đã “toàn thắng tử thần” (x. Ga 16,32).

“Giáo hội luôn bước đi trong sự bách hại của thế gian”

Câu chuyện bà mẹ của 7 người con trong bài đọc thứ nhất cho thấy chân lý ấy. Đó là cuộc chiến giữa việc trung thành sống với Lề Luật của Chúa và trao lưu tục hóa, giữa việc tín trung với Thiên Chúa hay chạy theo tiếng gọi của thế tục. Câu chuyện của thời Macabe cũng là câu chuyện của Giao hội trong dọc dại lịch sử và của thời đại chúng ta hôm nay. Quả vậy, Giao hội lúc này đây ở khắp mọi nơi đang bị bách hại nặng nề đến từ bên ngoài và cả từ bên trong:

Bách hại từ bên ngoài bởi hằn thu, bởi khác biệt, bởi sự phá hoại của ác thần. “Bị bách hại hơn bao giờ hết. Tập trung vào cuộc đàn áp chống Kitô giáo giữa các năm 2017 và 2019”, là tên tài liệu nghiên cứu của tổ chức “Trợ giúp các Giáo hội đau khổ”, được trình bày ngay 24/10/2019, tại nhà thờ thánh Bartolomeo ở Roma, là nơi mà thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II muốn là nơi tưởng niệm các vị tử đạo mới của thế kỷ XX và XXI. Theo báo cá thì cứ 7 Kitô hữu thì có một người bị bách hại vì đức tin. Gần 300 triệu Kitô hữu sống tại các miền đất bị bách hại. Đức Hồng Y Mauricio Piacenza cho biết, tự do tôn giáo đang có theo chiều hướng giảm sút. Rằng: “Sự bách hại luôn đe dọa các Kitô hữu, nhưng điều này không có nghĩa chúng ta có thái độ bi quan hay không làm gì hết.”

Cuộc điều tra tiến hành trên 196 quốc gia. Trong đó, có 38 quốc gia có các cộng đoàn Kitô hữu đang bị xúc phạm nghiêm trọng. Trong số này, có 23 quốc gia bị bách hại Kitô giáo nặng nề, và 15 quốc gia có tình trạng phân biệt đối xử.

Và bách hại từ bên trong, từ sự xao lãng giáo lý Tin Mừng, khủng hoảng căn tính Kitô (Đức Phanxicô nói có hai thứ làm cho Giáo Hội bị heon ố: tiền và phân rẽ). Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay nói lên khía cạnh này của đời sống Kitô hữu: “Ai muốn theo tôi phải vác thập giá mình mỗi ngày mà theo”. Theo Chúa là theo con đường tư hủy của “Đức Giêsu Kitô, trút bỏ vinh quang, trở nên phàm nhân, chân nhận thân nô lên, hạ mình cho đến chết, chết trên cây thập giá” (x. Pl 2,6-9). Đó là con đường hẹp, con đường chịu mục nát cho tình yêu lên ngôi, cho chân lý được tỏ bày và công bình được thực thi.

“Thập giá luôn nằm trên con đường của mỗi kitô hữu”. Chỉ vì chúng ta mang trên minh danh xưng kitô, chúng ta chịu bách hại, bị người đời khai trừ. Tử đạo, chúng ta tưởng rằng đó là câu chuyện của những thế kỉ trước, không còn là chuyện của hôm nay. Đức Phanxicô nói: “Thập giá luôn luôn nằm trên con đường của mọi Kitô hữu. Ngày nay có nhiều vì tử đạo hơn thuở sơ khai của Giáo Hội”. Ở những nơi không có sự bách hại về mặt thể lý thì cuộc tân công của làn sống thế tục, của cuộc khủng hoàng về lạm dụng tính dục, của sự dưng dửng, của các học thuyết tàn phá đời sống đức tin ghê gớm hơn bất cứ cuộc bách hại nào. Tuy nhiên, giữa ba đào sóng vỗ của thế sự và ác thần, chúng ta vẫn luôn tin tưởng Giáo hội luôn …

… “bước đi trong sự quan phòng an ủi của Thiên Chúa”

Đó là niềm an ủi mà Thánh Phaolo trong bài đọc thứ hai gửi tới chúng ta trong cuộc lữ hành đức tin. Cuộc lữ hành trong gian lao, nhưng không có cái gì, bất cứ ai có thể tách biệt, khai trừ chúng ta ra khỏi tình mến với Thiên Chúa trong Đức Kitô:

“Vì tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, hay bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 8, 35-39).

Chúng ta thâm tín rằng, không một ai, một sức mạnh nào có thể tách biệt tình mến của chúng ta với Thiên Chúa trong Đức Kitô và Thần Khí của Người. Nếu chúng ta có tình yêu, nếu chúng ta xác tín vào tình yêu ấy, chúng ta sẽ hiên ngang tiến bước giữa những cảm bẩy, mánh lới và cả sự quyến rũ của thế tục, của những trào lưu nhân danh nhân bản mới, chúng ta sẽ đạt tới vòng hoa thiên tuế dành cho những ai đã kiên trì trong cuộc chạy đua tiến về đỉnh cao hoàn thiện.

Lạy các Thánh tử đạo Việt Nam, giữa thế giới vắng bóng Chúa, xin dạy cho chúng con là con cháu, biết can trường sống đức tin, nhiệt thành làm chứng cho tình yêu bằng đời sống hiến thân phục vụ. Ước gì ngọn lửa đức tin mà các Ngài đã thắp lên lan tòa và bừng cháy trong nhân tâm và cuộc sống dân Việt chúng ta. mục lục.

Lm. Hoa Thập Tự

GIÁ TRỊ SỰ SỐNG

Đọc hạnh các thánh Tử Đạo Việt Nam, tôi không tưởng tượng nổi, người ViệT bình thường đôn hậu, chân chất, mến khách là thế, lại nổi loạn đến mức độc ác không thể diễn tả hết. Nhất là những người cầm quyền trị quốc lại có thể nhẫn tâm vô cùng đến vậy. 

Bằng đủ mọi kiểu, đủ mọi cách, và biết bao nhiêu hình thức quỹ quyệt nhất (treo cổ, thiêu sống, róc thịt đến trăm mảnh, chặt tay chân trước khi chặt đầu, phanh thây, tra tấn đến chết…) vượt ra ngoài lương tâm của một người bình thường để trở thành dã man nhất, mất tính người nhất..., mà người ta sử dụng để đe dọa, sát hại, trấn áp các Kirtô hữu. 

Càng không thể tưởng tượng trước sự tàn khốc của bạo quyền, ta càng cảm nhận một sức mạnh vô cùng lạ lùng, vô cùng kỳ diệu của từng chiến sĩ Chúa Kitô. Các ngài chấp nhận đi đến tận cùng của cái chết, dù biết rõ chết là phải nếm trải tất cả những trò độc ác đến kinh hoàng của lòng người dành cho mình.

Tưởng chừng sức mạnh của sự thâm độc, của bạo quyền sẽ thắng, có ai ngờ, các tín hữu Việt Nam, những con người rất đỗi bình thường, chỉ với sức mạnh tinh thần vì đức tin và cho đức tin mà lại cứ chiến thắng hiển vang, cứ hiên ngang, cứ ngẩng đầu cao, cứ thẳng đứng như đang ôm cả trời cao đất rộng.

Ngược lại, thế gian càng ra sức triệt tiêu đức tin, nó càng khiếp sợ, càng run rẫy, càng bị ám ảnh trước tất cả mọi thái độ bình an, thanh thoát, cao thượng đáng cảm phục đến vô vàn lần của cha ông chúng ta, những người Việt Nam Công giáo hào hùng, quật khởi trong một tinh thần đức tin dữ dội.

Nhìn hình ảnh các thánh Tử Đạo Việt Nam quá đỗi kiên trung trước mọi sức mạnh bạo quyền, tôi lại thấy lời Chúa Giêsu dạy thật thấm thía, thật sâu lắng. Hơn ai hết các thánh Tử Đạo đã sống lời ấy: “Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, các con chẳng làm được gì” (Ga 15,5).

Sức mạnh phi thường mà các thánh Tử Đạo Việt Nam có được, chắc chắn không phải của riêng các ngài, nhưng là của chung ơn Chúa ban và sự gắn kết cả cuộc đời các ngài với Chúa. 

Dù ở bất kỳ nơi đâu, trong lao tù, giữa lúc bị mang đi bêu xấu, bị xúc phạm danh dự nặng nề, bị tra tấn đến chết đi sống lại, hay phải đối mặt từng giờ với những kẻ khát máu, các thánh Tử Đạo luôn sống tinh thần đức tin trong Chúa. Các ngài tự nguyện sống tinh thần của cành nho để luôn tháp nhập vào cây nho là chính Chúa Kitô. Các ngài nhận được sức mạnh thần linh từ chính Chúa Kitô, từ chính thánh giá Chúa Kitô như ánh sáng soi rọi giúp các ngài lao tới.

Cái chết tự nó chẳng có giá trị gì. Chính Sự Sống mới kỳ diệu. Sự Sống ấy phát xuất và vượt thắng từ Chúa Kitô, nhờ Chúa Kitô, thân cây đích thực, để các ngài, một khi gắn chặt mình với Chúa Kitô đã làm dấy lên tình yêu, dấy lên sự sống tuôn trào từ tình yêu ấy. 

Tin vào Sự Sống, các thánh Tử Đạo càng yêu. Các thánh yêu mến Chúa, yêu mến con người, tha thứ cho những kẻ bách hại mình. 

Càng yêu bao nhiêu, các thánh Tử Đạo càng can đảm nhận lấy cái chết bấy nhiêu. Chết là vì yêu, yêu đến cùng. Chết là để chứng tỏ tình yêu, các thánh Tử Đạo không lùi bước trước cái chết đang tấn công mình, dù kinh khủng nhất, tàn khốc nhất. 

Như vậy, nơi các thánh Tử Đạo có ba chiều kích bổ sung cho nhau, giúp các ngài đi đến cùng của sự dâng hiến. Ba chiều kích đó là: Chết để đại tới niềm hy vọng Sự Sống. Và chính Sự Sống đã thúc đẩy tình yêu. Rồi chính tình yêu đã cho các ngài lòng can đảm để để đón nhận cái chết.

Bài học về tình yêu và Sự Sống trong cái chết của các thánh Tử Đạo dạy ta biết sống tinh thần tử đạo trong chính cuộc đời mình. Đó là hiến dâng từng giây phút của đời chúng ta để phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân. 

Tấm gương của các thánh Tử Đạo kêu mời chúng ta, mỗi ngày chết đi những yếu đuối tầm thường, để can đảm làm chứng và đấu tranh đến cùng cho chân lý Sự Sống. 

Hội Thánh thời nào cũng cần những người dám sống vì đức tin, dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời. 

Tin vào Sự Sống là tin vào ơn được mặc lấy sự phục sinh của Chúa Kitô. 

Niềm tin Sự Sống sẽ thúc đẩy chúng ta nỗ lực sống tinh thần tử đạo một cách trung thành suốt đời ta. 

Sống tinh thần tử đạo không đổ máu, không hy sinh mạng sống, nhưng đòi phải chấp nhận mọi nghịch cảnh, mọi dồn ép, mọi khó khăn, lắm lúc phải hy sinh cả tương lai cuộc đời trần thế của mình.

Tin vào Sự Sống: đó là một hứa hẹn  cho ta về một ngày rạng rỡ, ngày đoàn tụ trong cõi đời đời với cha anh, những bậc anh hùng của chúng ta.

Ước gì chúng ta không để mất đức tin được đổi bằng giá máu của biết bao nhiêu vị Tử đạo. 

Ước gì chúng ta không ngừng làm chứng tá đức tin ấy cho từng con người trên quê hương thân yêu này. mục lục.

Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng

CHÚC VINH THIÊN QUỐC ANH HÙNG THÁNH NHÂN

Anh hùng tử đạo Việt Nam
Cũng mang thân phận thế gian mỏng giòn
Phong ba bão tố dập dồn
Kiên cường tin cậy một lòng mến yêu.
Gian nan thách thức ngặt nghèo
Đầu rơi, máu chảy… đã nhiều đau thương
Trọn thờ kính Chúa, can trường
Yêu thương người thế, rộng đường về quê.
Gương Thầy, thập giá Can-vê
Hiến chương Tám mối, nguyện thề tín trung
Vinh hoa, phú quý dửng dưng
Uy quyền, chức tước, cũng không bận lòng…
Ngục tù, xiềng xích, cùm gông
Khổ hình lăng nhục, tận cùng dã man
Máu đào thân xác đẫm loang
Nhục hình muôn cách, vững vàng hiên ngang.
Đến như mạng sống không màng
Trung kiên vững tiến, thênh thang Nước Trời
Lắng nghe, tín thác, sống Lời
Huyền siêu tình Chúa, trọn đời sắt son.
Pháp trường chiêng trống vang dồn
Đầu rơi. Con phó linh hồn tay Cha
Mến yêu, cảm tạ thiết tha
Đáp đền, sự sống. Tình Cha khôn cùng.
Đất trời vang khúc: “Ngàn trùng”
Ca khen Tử đạo anh hùng Thánh nhân
Cao quang hưởng phúc thanh nhàn
Cầu bầu, thông chuyển muôn vàn ơn thiêng.
Trầm luân dâu bể ưu phiền
Đoàn con lữ thứ, vững niềm cậy trông
Biển đời sóng gió bão dông
Đoàn con kiên vững nối dòng hùng anh.
Trổ sinh hoa trái thơm lành
Nước Cha hiển trị, sáng danh muôn đời. mục lục

Anna Têrêsa Thuỳ Linh

Suy Niệm Chúa Nhật 32 Thường Niên B

[Đn 12,1-3; Hr 10,11-14.18; Mc 13,24-32]

NGƯỜI HÀNH HƯƠNG

Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã chọn chủ đề Năm Thánh 2025 là: “Những người hành hương của hy vọng”. Chủ đề này được gợi hứng từ thư của thánh Phao-lô gửi tín hữu Rô-ma: “Đức Trông cậy không làm thất vọng” (Rm 5,5). Vị Mục tử của Giáo hội Công giáo Hoàn vũ mời gọi các tín hữu ý thức thân phận hành hương của mình, đồng thời cố gắng sống thánh thiện, nên giống Đức Giê-su, Đấng là niềm hy vọng cho thế giới.

Sống trên đời, mỗi chúng ta là người hành hương, hay là lữ khách. Người hành hương là người đang trên đường và, hướng tới một đích điểm. Điểm đến của những cuộc hành hương thường là những nơi thánh, gắn bó với Chúa, với Đức Mẹ và với các thánh. Khi ý thức mình chỉ là phận hành hương hay phận lữ khách, Ki-tô hữu hướng về Thiên Chúa và mục đích tối hậu của đời người, hướng về Quê Trời là quê hương vĩnh cửu. Vì luôn hướng về Thiên Chúa và về Quê Trời, nên Ki-tô hữu coi những gì ở trần gian chỉ là tạm thời. Như người lữ hành bỏ lại những gì mình gặp gỡ hai bên đường, để chú tâm tiến về phía trước, Ki-tô hữu sống giữa thế gian, mà không dính bén thế gian, nhưng luôn coi thế gian chỉ là cõi tạm.

Các Bài đọc Lời Chúa hôm nay nói với chúng ta một chủ đề chính: trần gian này sẽ qua đi. Vũ trụ sẽ có ngày bị tận diệt. Ki-tô hữu tin đó là ngày tận thế. Thi thoảng chúng ta thấy có những bộ phim nói về ngày tận thế, với những tai họa hủy diệt làm cho cả một thành phố tan tành trong mây khói. Đó cũng chỉ là những giả tưởng. Trong Kinh Thánh, Cựu ước cũng như Tân ước, có một thể loại văn chương được gọi là “khải huyền”. Thể loại văn chương này thường dùng những hình ảnh hiện tại để nói về tương lai, và thường đi kèm những tai ương và thảm họa, làm cho con người lâm vào cảnh quẫn bách đau thương.

Giáo lý về “Tận thế” hay “Cánh chung” là một tín điều của Giáo hội Công giáo. Từ điển Công giáo giải thích như sau: “Tận thế là thuật ngữ chỉ sự kết thúc của thế giới – bao hàm vũ trụ vật chất, không gian và thời gian – vào ngày Chúa quang lâm”. Chúa Giê-su loan báo sẽ có ngày tận thế (x. Mt 13,49) và ngày ấy đến lúc nào thì chỉ mình Chúa Cha biết (x. Mt 24,34-36). Người cũng hứa ở lại với các môn đệ cho đến ngày tận thế (x. Mt 28,20).

Ngày tận thế đã đến chưa? thưa, chưa đến. Vậy phải hiểu thế nào về lời loan báo của Giáo hội Ki-tô từ hai ngàn năm nay? Giáo hội dựa vào giáo huấn của Chúa Giê-su để mời gọi chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng, vì không biết giờ nào Chúa đến. Lời mời gọi tỉnh thức được nhắc đến nhiều lần trong các Tin Mừng. Tỉnh thức để nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời; tỉnh thức để nhận ra phẩm giá của anh chị em đồng loại; tỉnh thức để nhận thấy thời gian là món quà quý giá Chúa ban; tỉnh thức để chiêm ngưỡng vinh quang Thiên Chúa thể hiện qua vẻ huy hoàng của vũ trụ, để tôn trọng và chăm sóc trái đất là ngôi nhà chung của chúng ta. Hơn nữa, nếu ngày tận thế chưa xảy đến theo nghĩa ngũ hành bị thiêu rụi, thì ngày ấy lại đến với mỗi người vào lúc cuối đời. Đó là lúc họ phải trình diện trước nhan Chúa để tường trình với Ngài về cuộc sống dương thế, với những thành công và thất bại; những công phúc và tội lỗi. Ngày đó còn được gọi là “ngày phán xét riêng”. Chẳng ai thoát được ngày phán xét này.

Nhờ đâu mà chúng ta được tha thứ và được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu? Thư gửi tín hữu Híp-ri trả lời: nhờ Đức Giê-su, Đấng đã dâng mình trên thập giá để làm của lễ xin ơn tha tội cho trần gian (Bài đọc II). Kể từ hy tế thập giá của Đức Giê-su, phụng vụ của Cựu ước không còn cần thiết nữa, vì nghi thức phụng vụ xưa chỉ là hình bóng.

Công đồng Vatican II đã trình bày Giáo hội như dân Chúa đang trên đường lữ hành. Như dân Ít-ra-en xưa đã đi qua sa mạc để về Đất hứa, Giáo Hội – tức là Ít-ra-en mới – đang tiến bước trong thời đại này tìm về thành đô tương lai bất diệt (x. LG 9). Dân này ở vào “thời cuối cùng,” đang tiến bước giữa lòng lịch sử loài người với sứ mạng của Đức Ki-tô cũng như đang sống thân phận lữ hành hướng tới thời hoàn tất cánh chung. Ki-tô hữu là người lữ hành trong đoàn người lữ hành là Giáo hội. Đích điểm của cuộc lữ hành này là gặp gỡ Chúa cách huyền nhiệm ngay ở đời này, như bảo đảm cho việc thấy Chúa “mặt giáp mặt” ở đời sau.

Chúng ta đang cùng với Giáo hội tưởng nhớ những người đã qua đời. Đứng trước ngôi mộ của người thân, chúng ta càng cảm nhận sự mỏng giòn của kiếp nhân sinh. Cây thập giá trên mộ Ki-tô hữu báo trước sự phục sinh, như chúng ta tuyên xưng: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Những người nằm dưới ngôi mộ đang thầm thì nhắc chúng ta về kinh nghiệm cuộc đời, nhất là kinh nghiệm về sự chết. Hãy thinh lặng để lắng nghe thông điệp của họ.

Chúa nhật hôm nay cũng là ngày Thế giới người nghèo do Đức Thánh Cha Phan-xi-cô thiết lập. Đức Bác ái Ki-tô giáo và truyền thống tương thân tương ái của dân tộc Việt gặp gỡ nhau trong đức tin của người tín hữu. Một tác giả đã viết: “không ai nghèo đến mức không có gì để cho đi, và không ai giàu đến mức không cần nhận một thứ gì đó”. Khi cho đi là khi ta nhận lãnh. Kinh nghiệm thực tế cho chúng ta thấy điều này. Xin Chúa chúc phúc cho lòng quảng đại của chúng ta đối với anh chị em nghèo khó. mục lục.

+ ĐTGM. Giu-se Vũ Văn Thiên

HY VỌNG VÀ VỮNG TIN VÀO CHÚA

Chu kỳ Năm Phụng vụ mở ra với ngày tháng dần trôi đang từ từ khép lại. Vì thế không có gì ngạc nhiên, khi thấy Lời Chúa hôm nay hướng chúng ta về thời gian sau hết cũng gọi là cánh chung hay thời tận thế.

Khởi đầu Năm Phụng Vụ, với Chúa Nhật Mùa Vọng, Giáo hội kêu gọi con cái mình chuẩn bị tâm hồn đón Chúa Kitô đến lần thứ nhất mang ơn cứu độ là chính Người đến cho nhân loại. Chúa Nhật áp chót Năm hôm nay, Giáo hội lấy lại lời Chúa Giêsu loan báo về sự chung cuộc, mời gọi con cái mình chuẩn bị tâm hồn đón Chúa đến lần thứ hai (x. Mc 13,24-32).

Vậy, phụng vụ hôm nay cho chúng ta biết những gì về cánh chung, hay là tận thế, cụ thể hơn là ngày Chúa đến lần thứ hai?

Hy vọng và vững tin vào Chúa

Dưới thời Antiôchô, Dân Chúa hết bị bách hại, đến Ba tư cai trị, Hylạp thôn tính, Ðền thờ bị biến thành nơi thờ thần dân ngoại, tiếng người Tử đạo vang lên tới Chúa. Giữa cảnh nươc mất, nhà tan, đau thương đẫm nước mắt, sự dữ gia tăng. Đaniel xuất hiện loan báo một thời với viễn tượng đầy tươi sáng. Ông loan báo, Thiên Chúa sẽ can thiệp, Ngài sẽ sai Sứ thần đến giao tranh với thần dữ, cứu vớt những người lành, phục hồi các thánh nhân. Người thánh sẽ được sống đời đời, bậc lãnh đạo dân Chúa sẽ chói sáng; và kẻ khuyên dạy người khác trở về đàng công chính, sẽ nên như những tinh sao tồn tại muôn đời (x.Đn 12,1-3).

Dân Chúa đang trong cơn bắt đạo, máu người lành đổ ra. Họ tự hỏi về số phận của các thánh nhân; và đồng thời cũng nêu lên nghi vấn: có nên tiếp tục đi đàng ngay chính để có ngày bị bắt và bị giết không? Nghe những lời trên của Đaniel Dân Chúa đã được an ủi phân nào. Theo Đaniel : Thiên Chúa mới có tiếng nói cuối cùng; Ngài sẽ can thiệp, lúc đó người lành được gìn giữ, còn kẻ dữ sẽ bị tiêu diệt. Sẽ có sự sống lại cho người thánh đã chết; còn kẻ dữ cứ tiếp tục bị trừng phạt. Trong ngày của Chúa, ai lành thánh sẽ không phải chết, và cho dù đã chết, cũng sẽ sống lại; còn kẻ tội lỗi cho dù đang sống cũng sẽ chết, phương chi là khi những kẻ ấy đã chết rồi.

Đaniel đã thổi một luồng gió tin tưởng mạnh mẽ vào trong tâm hồn nhiều người, giúp họ cương quyết trung thành với đức tin và phó thác định mệnh cuối cùng của mình trong tay Chúa hơn.

Hãy sẵn sàng và bền chí

Sống trong thời đại không thiếu những thiên tai và rất tiếc cả những nhân tai như chiến tranh và bạo lực, làm cho cuộc sống con người bị đảo lộn, cộng thêm sự xâm nhập của chủ nghĩa tương đối khiến lòng người khó tin và thất vọng. Thêm vào đó là những quan niệm lệch lạc về sự chung cuộc của thế giới. Quả thật, chúng ta không thể nói về sự sống lại mà không nghĩ rằng chúng ta phải chết. Ngày chung cuộc của thế giới bắt đầu với mỗi người chúng ta ngay ngày chúng ta chết, thời giờ thật cấp bách để chúng ta lựa chọn.

Nếu như thời Cựu Ước Đaniel đã loan báo: “Thời kỳ khốn khổ chưa từng xảy đến từ khi có các dân tộc cho tới bây giờ” (Đn 12, 1-3 ). Lúc Tinh thần của Dân Chúa đang khủng hoảng trầm trọng, thì Thiên Chúa chính là chỗ dựa tinh thần vững chắc của họ. Họ thưa cùng Chúa rằng: “Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa” (Tv 15,5).

Đến thời Chúa Giêsu đã xảy ra những biến động về thế giới và vũ trụ : “Mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng sẽ mất sáng, các ngôi sao sẽ từ trời rơi xuống và các sức mạnh trên trời sẽ bị lay chuyển” (Mc 13, 25), làm cho người ta xao xuyến. Nhưng nếu họ tin tưởng và cậy trông vào Chúa, họ  sẽ được cứu thoát. Thiên Chúa là Cha nhân từ, là niềm vui và là chỗ dựa vững chắc của mỗi chúng ta. Vị Thiên Chúa ấy hiện thân nơi con người Đức Giêsu Kitô. Người là Đấng nối liền hiện tại với tương lai, chính Người là biến cố đích thật, là điểm chắc chắn và ổn định giữa các chao đảo của thế giới. Chính Chúa Giêsu khẳng định: "Trời đất sẽ qua đi, nhưng các lời của Ta sẽ không qua đi" (Mc 13, 31). Chúa mời gọi chúng ta hãy sẵn sàng và bền chí.

Chúa vẫn chờ ta

Giáo hội tiếp tục loan báo cho chúng ta một Đấng Cứu Thế là Chúa Giêsu Kitô. Giáo hội không chỉ dạy chúng ta cách chết thế nào, mà còn dạy chúng ta về cách sống ra sao sau phục sinh. Bởi vì những gì Giáo hội dạy không phải là sứ điệp của riêng mình, nhưng sứ điệp của Đấng là nguồn mạch sự sống. Chỉ trong niềm hy vọng này mà chúng ta có thể thanh thản diện đối diện với Chúa, Đấng đang chờ đợi ta. Và trong khi chờ Người đến trong vinh quang, để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Chúng ta tin Người đang đến trong Thánh Thể để qui tụ chúng ta vào sự thánh thiện của Người. Một cảnh sống mới, làm ra một trời mới và một đất mới, tức là xây dựng một quê hương mới và một dân tộc mới.

Lạy Chúa, chúng con tin và hy vọng vào Lời Chúa, Lời Chúa là ngọn Đèn soi cho chúng con bước, là Ánh Sánh chỉ đường cho chúng con đi, Lời ấy tồn tại mãi cho dù mọi sự qua đi. mục lục.

Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

THỜI GIAN CUỐI CÙNG

Khi xưa cũng như ngày nay, dựa trên các thảm họa thiên nhiên như bão tố, lũ lụt, động đất, cháy rừng… các thảm kịch tang thương: hạn hán, mất mùa, đói kém, dịch bệnh… các cuộc chiến tranh gây chết chóc kinh hoàng…, nhiều người lo lắng và đoán non đoán già về những việc sắp xảy ra trong tương lai. Thậm chí có người kết luận rằng đây là những dấu hiệu về tận thế, vì Chúa Giêsu đã nói: “Khi anh em nghe có giặc giã và tin đồn giặc giã, thì đừng khiếp sợ. Những việc đó phải xảy ra, nhưng chưa phải là chung cục. Quả thế, dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống nước nọ. Sẽ có động đất ở nhiều nơi, sẽ có những cơn đói kém. Những sự việc ấy là khởi đầu các cơn đau đớn” (Mc 13: 7-8). Ngay cả họ cho rằng Chúa Giêsu sắp trở lại! Thật đáng tiếc, đây chỉ là những suy đoán chủ quan cá nhân. Không ai biết giờ nào Chúa Kitô sẽ trở lại! Chính Chúa nói với các môn đệ: “Nếu có ai bảo anh em: Này, Đấng Kitô ở đây! Kìa, Đấng Kitô ở đó!, anh em đừng có tin” (Mc 13: 21). Vậy thì, điều khiến chúng ta lo lắng thực sự là gì? Phải chăng đó là liệu chúng ta có được cứu độ hay không, và chúng ta cần phải làm gì để được cứu độ? Đó mới là điều chính yếu.

1. Nhận ra sự hiện diện của Chúa Kitô trong trần thế. 

Chúa Kitô tiên báo: “Trong những ngày đó, sau cơn gian nan ấy, thì mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng” (Mc 13:24). Đây là kiểu nói “khải huyền” theo truyền thống, với những hình ảnh phóng đại được khuôn đúc sẵn, rất thông dụng trong Cựu Ước. Thực ra, những chuyện này không phải là điểm chính yếu trong diễn từ này của Chúa Giêsu về ngày tận thế. Trọng tâm sứ điệp của Chúa Kitô là chính Ngài, con người của Ngài, cuộc sống tạm thời của Ngài trong thế gian, mầu nhiệm vượt qua của Ngài, và sự trở lại của Ngài vào thời sau hết: “Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến. Lúc đó, Ngài sẽ sai các thiên sứ đi, và Ngài sẽ tập họp những kẻ được Ngài tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời” (Mc 13; 26-27).

Chúng ta không cần phải tự hỏi tất cả những điều này sẽ xảy ra khi nào và như thế nào. Tuy nhiên chúng ta cần nhận thức lại rằng đời sống đức tin của chúng ta trên trần gian này chính là đi tìm gặp Đấng đang tìm đến với chúng ta, trong một cuộc gặp gỡ ngày càng rõ ràng hơn. Mỗi ngày trôi qua chúng ta lại đến gần với Chúa Giêsu Kitô hơn. Chúng ta không cần chờ đợi một thời điểm, một địa điểm hoặc một hoàn cảnh cụ thể nào đó trong tương lai thì mới có thể gặp được Ngài. Chúng ta có thể gặp Chúa Giêsu Kitô mọi nơi, mọi lúc, trong mọi hoàn cảnh cuộc đời, vì Ngài là Đấng Phục Sinh không lệ thuộc vào bất cứ qui luật vật lý nào của trời đất. Chính vì thế Chúa Kitô Phục sinh có thể đem lại cho con người chúng ta niềm hy vọng vô hạn, vượt qua mọi giới hạn không gian và thời gian vốn trói buộc thân phận phàm nhân hữu hạn của chúng ta. 

Điều này không có nghĩa là chúng ta quay lưng lại với cuộc sống hiện tại, nhưng ngược lại: chúng ta suy gẫm những biến chuyển thất thường trong trời đất, vũ trụ, trong các mối tương quan cá nhân của chúng ta, trong cuộc sống hiện tại hàng ngày, để học cách nhận ra sự hiện diện của Chúa Kitô giữa chúng ta và phó thác mọi việc vào quyền năng yêu thương của Ngài. Ngay cả khi thời tiết thay đổi, mặt trời tối dần, và cả khi cuộc sống trở nên tối tăm hoặc chúng ta cảm thấy như đang bước vào một đêm không trăng sáng, chúng ta không nên tin vào những cách suy đoán đầy huyễn hoặc làm tổn hại đến cuộc sống và chất lượng mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa và với những người khác. Chúng ta không cần nghe những bài phát biểu vô ích về dự báo các ngôi sao dường như sắp từ trên trời rơi xuống, nhưng chỉ cần có cái nhìn đức tin, hy vọng và bác ái, vốn là đặc điểm của đời sống Kitô hữu của chúng ta.

Viễn cảnh về ngày tận thế không làm chúng ta xao lãng cuộc sống hiện tại, nhưng mời gọi chúng ta xem xét tương lai của mình bằng niềm hy vọng; niềm trông cậy này cho phép chúng ta học hỏi, hiểu biết, nhận ra những gì đang có, những gì đang xảy ra, công việc và ý muốn của Thiên Chúa là gì. Niềm hy vọng của chúng ta chính là khuôn mặt của Chúa Kitô Phục Sinh, Đấng sẽ cho “thiên hạ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến” (Mc 13:26). 

2. Chuẩn bị cho sự trở lại của Chúa Kitô. 

Trọng tâm của sứ điệp Tin Mừng hôm nay là sự xuất hiện của Chúa Kitô, Đấng sẽ “tập họp những kẻ được Ngài tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời” (Mc 13: 27). Dù cuộc sống của chúng ta có mang màu sắc khải huyền nào, chúng ta cũng đừng lãng phí thời gian tìm cách giải thích lá số tử vi của mình, nhưng thay vào đó, hãy tự hỏi mình mỗi sáng, hôm nay tôi sẽ nói những lời nào đem lại sự bình tâm, sẽ thực hiện những cử chỉ ủi an nào. Chúa Giêsu muốn chúng ta thực hiện những việc đó, trong cuộc sống hằng ngày, hơn là chạy theo thói hiếu kỳ nghe ngóng và tìm xem “các ngôi sao từ trời sa xuống, và các quyền lực trên trời bị lay chuyển” (Mc 13:25) khi nào và bằng cách nào, vì “Ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi” (Mc 13:32). Mọi sự việc xảy ra đời này đều là dấu chỉ kêu mời chúng ta nhận ra Thiên Chúa đang đến: “Anh em cứ lấy thí dụ cây vả mà học hỏi. Khi cành nó xanh tươi và đâm chồi nảy lộc, thì anh em biết là mùa hè đã đến gần. Cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra, anh em hãy biết là Con Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi” (Mc 13: 28-29). 

Hẳn nhiên Chúa Giêsu đã chết trên thập giá và sống lại để ban ơn cứu độ cho tất cả mọi người, đó chính là ân huệ mà Ngài ban cho chúng ta, nhưng phần chúng ta vẫn cần phải đón nhận và sử dụng ân huệ này. Điều quan trọng là tin vào Thiên Chúa, vào lời của Ngài: “Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu” (Mc 13: 31). Không phải vào ngày cuối cùng của cuộc đời, chúng ta mới lo lắng về điều đó, bởi vì ai biết được mình sẽ chết ngày nào, giờ nào: “Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến” (Mc13: 33).  

Chúa Giêsu sẽ hỏi chúng ta về đức tin đích thực của chúng ta, về cuộc sống của chúng ta với Ngài. Ngài mời gọi chúng ta hãy chuẩn bị để gặp Ngài, nghĩa là gặp Ngài trong cõi lòng của chúng ta ngay từ hôm nay như thể là ngày cuối cùng.

Điều này không có nghĩa là không hoạch định gì cho tương lai, hoặc từ bỏ mọi thứ, nhưng đúng hơn là phải sẵn sàng ra trước mặt Ngài ngay bây giờ nếu Ngài muốn chúng ta như vậy. Liệu chúng ta đã sẵn sàng ngay bây giờ chưa? Chắc chắn thế gian này sẽ có lúc kết thúc, và trong ngày cuối cùng đó, chúng ta sẽ là loại người nào, như trong bài đọc thứ nhất, ngôn sứ Đaniel tiên báo: “Nhiều người sẽ trỗi dậy: người thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời. Các hiền sĩ sẽ chói lọi như bầu trời rực rỡ, những ai làm cho người người nên công chính, sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao” (Đn 12:2-3).

3. Chúa sẽ đến

Chúa Giêsu khẳng định Ngài sẽ quang lâm: “Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến” (Mc 13: 26). Vì thế, Ngài nhấn mạnh đến sự cần thiết phải canh thức khi Ngài trở lại, như một “người kia trẩy phương xa, để nhà lại, trao quyền cho các đầy tớ của mình, chỉ định cho mỗi người một việc, và ra lệnh cho người giữ cửa phải canh thức” (Mc13:34). Các môn đệ của Chúa được nhắc nhở phải cảnh giác và sẵn sàng, vì họ không thể xác định chính xác ngày giờ Ngài trở lại. Lời dạy này không chỉ liên quan đến việc chuẩn bị cho Chúa Kitô trở lại, mà còn nhấn mạnh đến thực tế Ngài đến bất ngờ: “Vậy anh em phải canh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến: Lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng. Anh em phải canh thức, kẻo lỡ ra ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ” (Mc 13: 35). Nhiệm vụ của các môn đệ của Chúa là nhiệm vụ của người giữ cửa, luôn cảnh giác và chuẩn bị.

Chúa Giêsu thông báo cho những người theo Ngài rằng sự trở lại của Ngài có thể xảy ra vào nhiều thời điểm khác nhau trong đêm tối “lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng” – hàm ý rằng cuộc sống đầy rẫy những điều không chắc chắn. Do đó, sự tỉnh thức rất quan trọng đối với các môn đệ, vì nó nuôi dưỡng một tâm thế phù hợp với cả nhiệm vụ hiện tại và trách nhiệm tính sổ với Ngài trong tương lai: “Sau một thời gian lâu dài, ông chủ đến tính sổ với các đầy tớ và thanh toán sổ sách với họ” (Mt 25: 19). Việc tỉnh thức tâm linh, vốn là nhiệm vụ của mỗi tín hữu, thúc giục chúng ta phải luôn cảnh giác và trung thành trong hành trình hằng ngày với Chúa Kitô. Chúa sẽ trở lại bất ngờ, nhưng nếu chúng ta ghi nhớ lời Ngài và lòng trí chúng ta luôn gần gũi Ngài thì chúng ta không có gì phải quá lo lắng. Vì chính Ngài vẫn đang hiện diện với chúng ta trong các bí tích, nhất là trong bí tích Thánh Thể, trong Hội Thánh, trong Lời Ngài…cho đến tận thế: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 29:20). Ngay cả trong giờ phút đen tối nhất của chúng ta, Chúa vẫn không bỏ rơi chúng ta. Ngài luôn dõi theo và bảo vệ chúng ta ngày đêm. Bất kể mọi thứ trên thế giới có vẻ tồi tệ và đen tối thế nào, Chúa vẫn đang kiểm soát. “Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến” (Mc 13:26). “Trong đám mây” là một biểu tượng cho thấy Chúa ngự trên tất cả chúng ta và Ngài đang cai quản thế giới, cai quản cuộc sống của chúng ta. Chúa Giêsu đảm bảo với các môn đệ của mình: “kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” (Mc 13:13) dù họ đang phải đối mặt với những gì có vẻ như là kết thúc đối với họ, “mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống, và các quyền lực trên trời bị lay chuyển” (Mc 13:24-25). Vào ngày cuối cùng, Chúa “sẽ sai các thiên sứ đi, và Ngài sẽ tập họp những kẻ được Ngài tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời” (Mc 13: 27). Chúng ta cần phải làm gì để được xếp vào hàng ngũ “những kẻ được Ngài tuyển chọn từ bốn phương”? mục lục.

Phêrô Phạm Văn Trung

NGÀY CHÚA ĐẾN

Tôi còn nhớ vào năm 1994 cha quản xứ của tôi đọc một bài báo nói về ngày tận thế sẽ xảy ra vào ngày 5 tháng 5 năm đó, và sẽ có tối ba ngày ba đêm, nên cha kêu gọi mọi người phải mua đủ nến và mang đến nhà thờ để cha làm phép. Ai cũng đợi đến ngày đó, nhưng rút cuộc không có gì xảy ra.

Sau đó, có tin đồn tận thế sẽ xảy ra vào năm 2000, nhưng rồi cũng không xảy ra. Nhưng chưa hết, tiếp sau tin này, một tờ báo cho rằng ngày tận thế được xác định theo lịch của người Maya rơi vào ngày 15/5/2015. Những lời đồn đoán này đã gây hoang mang cho biết bao người. Ở Brazil, cảnh sát phải đối phó với nguy cơ tự tử tập thể khi chờ ngày tận thế. Nhưng tất cả chỉ dừng lại ở tin đồn.

Sự kiện này cho thấy rằng con người thời nào cũng muốn biết những gì sẽ xảy ra trong tương lai: Có ngày tận thế không? Số phận của chúng ta sẽ ra sao trong và sau ngày đó? Chúng ta tìm được câu trả lời cho những vấn nạn đó từ phụng vụ Lời Chúa hôm nay.

1. Thế giới và thế hệ này sẽ qua đi

Trước hết, Lời Chúa hôm nay mạc khải cho chúng ta biết rằng: thế giới này sẽ có ngày kết thúc. Chúa Giêsu quả quyết rằng thế giới này không vĩnh cửu: “Thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu” (Mc 13,30). Đồng thời Chúa Giêsu loan báo về ngày quang lâm của Người. “Ngày quang lâm” trong tiếng Hy lạp là parusia. Có nghĩa là sự trở lại trần gian lần thứ hai của Chúa Giêsu vào ngày thế mạt.

Nếu lần thứ nhất Chúa Kitô đến với nhân loại trong sự khiêm tốn và thấp hèn của người tôi tớ, thì lần thứ hai Chúa ngự đến trong vinh quang và quyền năng của vị thẩm phán. Người là vị thẩm phán chí công xét xử nhân loại dựa trên công lý và tình yêu, theo những gì mà chúng ta đã sống trên thế gian.

Bấy giờ số phận của những người công chính sẽ được hưởng hạnh phúc đời đời, sẽ được chiếu tỏa như những vì sao. Còn những người tội lỗi thì phải chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời (x. Đn 12,3).

Vì thế, “ngày quang lâm” sẽ trở thành ngày của sợ hãi, thất vọng đối với những người tội lỗi vì án phạt đời đời. Nhưng đó là ngày của hy vọng và cứu độ đối với những người công chính; ngày Thiên Chúa hoàn tất cách viên mãn chương trình cứu độ con người; đó là “trời mới đất mới” (Kh 21,1), thời đại của công lý, hạnh phúc và tình yêu ngự trị mãi mãi (x. 2 Cr 5,17).

2. Những dấu chỉ cánh chung

Như thế, điều chắc chắn là thế giới này sẽ có ngày kết thúc. Nhưng chuyện đó xảy ra lúc nào? Tin Mừng hôm nay khẳng định: “Về ngày giờ đó thì không ai biết được ngay cả Thiên sứ trên trời, và Người Con cũng không thể biết, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi” (Mc 13,32). Thánh Augustinô còn xác quyết: “Việc này hoàn toàn nằm trong quyền năng của Chúa Cha.”

Tuy nhiên, trong Tin Mừng Máccô, Chúa Giêsu loan báo về những dấu chỉ xảy ra để báo trước về ngày đó:

1) Những ngôn sứ giả, những Mêsia giả sẽ phỉnh gạt nhiều người (Mc 13,5-6);

2) Những cuộc bách hại chống lại các môn đệ của Đức Giêsu (Mc 13,9-13);

3) Những tai ương, chiến tranh động đất, đói kém và những hiện tượng lạ lùng (Mc 13,7-8).

Trong khi đó, Tin Mừng Mátthêu chương 24 cho biết thêm 4 dấu chỉ của ngày tận thế, đó là:

1/ Tin Mừng về Nước Thiên Chúa được loan báo cho hết mọi người (Mt 24,14);

2/ Xuất hiện những tiên tri giả và phản Kitô;

3/ Người Do Thái trở lại tin nhận Chúa Kitô;

4/ Thiên tai xảy ra.

Đó là những dấu chỉ tiên báo về ngày thế mạt.

3. Thái độ của chúng ta hôm nay

Như vậy, Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta hiểu biết về biến cố cánh chung và ý nghĩa của ngày quang lâm để chúng ta biết sống trong hiện tại nhưng luôn hướng về tương lai, luôn nhớ đến ngày phán xét chung, và phần thưởng cũng như hình phạt đời đời cho mỗi người.

Trước sự chắc chắn và bất ngờ của sự chết, của việc Chúa quang lâm, chúng ta được mời gọi hãy tỉnh thức và sẵn sàng:

“Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Mt 24,44; Lc 12,40).

Thái độ tỉnh thức và sẵn sàng ấy cần được thể hiện một cách thực tế bằng một đời sống phục vụ và yêu thương tha nhân. Bởi lẽ, vào ngày xế chiều, Thiên Chúa sẽ phát xét chúng ta dựa vào lòng bác ái của chúng ta đối với tha nhân (x. Mt 25,31-46).

Xin Chúa thức tỉnh tâm hồn chúng ta, để mỗi người biết cải biến con người mình mỗi ngày và nhận ra Chúa qua những dấu chỉ thời đại và nơi anh chị em. Nhờ đó, khi ngày của Chúa đến, chúng con vẫn luôn bình an và hy vọng, vì biết rằng Người sẽ mang lại những gì tốt lành cho những ai yêu mến và phó thác vào Người. Amen! mục lục.

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương

Với mục đích để Lời Chúa được loan truyền và thông tin Giáo hội được lan tỏa, Legio Mariæ sẵn lòng để các tổ chức và cá nhân sử dụng lại tin bài đã đăng trên báo giấy và báo mạng legiomariævn.com của mình.

Tuy nhiên, vì đức công bằng và sự bác ái, xin quý vị vui lòng ghi đầy đủ nguồn như sau: “Theo Đạo Binh Đức Mẹ, website: legiomariævn.com”.

Ngoài ra, nếu chia sẻ bài lên mạng xã hội (Facebook, Twitter…), đề nghị dùng đường dẫn gốc trên website của Đạo Binh Đức Mẹ.

Tin liên quan