SUY NIỆM CHÚA NHẬT LỄ LÁ_C

Lời Chúa: Is 50,4-7; Pl 2,6-11; Lc 22,14 – 23,56
ĐAU KHỔ VÀ VINH QUANG – + ĐTGM. Giu-se Vũ Văn Thiên
NIỀM VUI VÀ KHỔ ĐAU – Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
CHÚA GIÊSU, MỘT THIÊN CHÚA ĐÃ TRỞ NÊN TÔI TỚ – Phêrô Phạm Văn Trung
NHÌN THÁNH GIÁ ĐỂ NHÌN MÌNH – Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng
THA THỨ VÀ BAN THƯỜNG – Bông hồng nhỏ
TÂM TÌNH TUẦN THÁNH – Lm. Yuse Mai Văn Thịnh, DCCT
ĐƯỜNG THẬP GIÁ-ĐƯỜNG HY VỌNG – Jos. Vinct. Ngọc Biển
CUỘC THƯƠNG KHÓ THEO THÁNH LUCA – Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
Phụng vụ Tuần Thánh mở đầu bằng nghi thức làm phép lá và rước lá, sau đó là thánh lễ mà đỉnh cao là trình thuật về cuộc thương khó của Đức Giê-su. Các Bài đọc Kinh Thánh, nhất là Bài Thương khó, nêu bật hai khía cạnh của cuộc thương khó Đức Giê-su: Đau khổ và Vinh quang. Hai khía cạnh này hòa quyện với nhau, tạo nên nét độc đáo và làm cho cuộc tử nạn của Chúa Giê-su trên đồi Can-vê năm xưa không giống như bất kỳ vụ thi hành án nào trong lịch sử.
Bài đọc I trích sách Ngôn sứ I-sa-i-a nói với chúng ta về một nhân vật bị đánh bầm dập, thân mình mang đầy thương tích. Tuy vậy, nhân vật được trình bày lại chấp nhận đau khổ như một tự nguyện. Nhân vật ấy là Người Tôi tớ Đức Gia-vê. Vị Tôi tớ luôn trong trạng thái tỉnh thức để lắng nghe lời giáo huấn của Thiên Chúa, và niềm tin cậy phó thác đã đem lại cho Người sức mạnh trong gian nan. Dưới lăng kính Ki-tô giáo, đây chính là hình ảnh của Đức Giê-su chịu khổ hình. Cuộc thương khó vừa là một khổ hình do người Do Thái gây nên, đồng thời cũng là một hành vi tự nguyện của Chúa Giê-su, vì vâng lời Chúa Cha. Mặc dù sợ hãi đến mức toát mồ hôi máu, Đức Giê-su, người Tôi tớ Gia-vê đã tự nguyện bước vào cuộc thương khó, với niềm xác tín “có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi”. Cần lưu ý là sách ngôn sứ I-sai-a có bốn bài ca về Người Tôi tớ Đức Gia-vê. Mỗi bài diễn tả một khía cạnh, và tất cả bốn bài ca đó đã trở thành hiện thực nơi Đức Giê-su. Bài cuối cùng ở chương 52 được đọc trong Phụng vụ suy tôn Thánh giá chiều thứ Sáu tuần Thánh, với nội dung diễn tả cuộc khổ nạn đau thương của Chúa Giê-su qua biến cố thập giá.
Hai khía cạnh đau khổ và vinh quang cũng được thánh Phao-lô quảng diễn trong Bài đọc II. Đức Giê-su là Thiên Chúa tối cao. Người đã hạ mình mang lấy thân phận con người như chúng ta, chỉ ngoại trừ tội lỗi. Người đã trút bỏ vinh quang để mang thân phận nô lệ. Sự hạ mình của Ngôi Lời vừa thể hiện qua mầu nhiệm nhập thể, vừa thể hiện qua biến cố khổ nạn thập giá. Nói cách khác, sự khiêm tốn vâng lời liên lỉ của Đức Giê-su, được trải dài từ ngày Truyền tin đến đỉnh đồi Can-vê. Tuy vậy, thánh Phao-lô khẳng định, cái chết và nấm mộ không phải là tiếng nói cuối cùng của Thiên Chúa. Sau thập giá là vinh quang. Thiên Chúa Cha đã siêu tôn Đức Giê-su, và ban cho Người danh hiệu “trổi vượt trên muôn vàn danh hiệu”. Điều thánh Phao-lô viết trong thư gửi giáo dân Phi-líp-phê hôm nay đã được thực hiện: đó là hàng tỷ Ki-tô hữu trên hoàn cầu tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Cứu độ.
Trình thuật thương khó theo thánh Lu-ca như một vở kịch gồm nhiều phân cảnh, với nhiều cung bậc cảm xúc. Vở kịch này khởi đầu từ phòng tiệc ly và kết thúc trên đồi Can-vê. Chúng ta thấy mỗi khi Đức Giê-su nói về những gì đang xảy ra trong hiện tại, thì Người cũng liên hệ tới tương lai. Nếu bữa tiệc ly là lần cuối cùng Người uống chén rượu nho vật chất, thì Người cũng hứa sẽ được cùng với các môn đệ dùng rượu nho mới khi triều đại của Thiên Chúa đến. Khi bị bắt trong vườn Cây Dầu, dù bị quân lính bao quanh sát khí đằng đằng, Chúa Giê-su vẫn khảng khái nói: Đây là giờ của quyền lực tối tăm. Nhân vật Phi-la-tô được trình bày nổi bật trong cuộc thương khó của Đức Giê-su. Ông này vừa kính phục Chúa Giê-su, nhưng lại sợ người Do Thái. Thực sự ông muốn cứu Chúa Giê-su, và ông đã tìm một lối mở, đó là đưa ra trường hợp Ba-ra-ba như một lá bài để thương thuyết. Ấy vậy mà người Do Thái đồng thanh xin tha cho một kẻ giết người. Trong cuộc thương khó, giữa tiếng ồn ào của đám đông bị kích động, Con Thiên Chúa thì bị án tử, và kẻ sát nhân lại được tha! Chi tiết này đã làm cho cuộc thương khó của Chúa Giê-su thêm phần bi kịch.
Trình thuật thương khó kết thúc ở nấm mồ. Các môn đệ và những người phụ nữ trước đây đã theo Chúa Giê-su đang ở trong một tâm trạng hoang mang tột độ. Họ không biết những gì sẽ tiếp tục xảy đến. Với lòng yêu mến và kính trọng Thầy mình, các môn đệ đã hạ xác Chúa và vội vàng an táng trong mồ. Những người phụ nữ thì chuẩn bị thuốc thơm để sau ngày nghỉ lễ sẽ xức xác Chúa. Bài Thương khó kết thúc như những dấu chấm lửng, dường như muốn cho các độc giả hãy đón đọc ở phần sau, với nhiều hấp dẫn mới. Sau khi cử hành Phụng vụ Lễ Lá, Phụng vụ Tuần Thánh giúp các tín hữu tiếp tục suy tư về những gì mình đã được chứng kiến trong trình thuật hôm nay. Chúng ta sẽ dần dần từng bước cử hành những biến cố quan trọng trong những ngày cuối đời dương thế của Chúa Giê-su. Nói cách khác, trình thuật Thương khó như một dẫn nhập để đưa các tín hữu tới những nghi thức long trọng của Tuần Thánh.
Nếu đau khổ và vinh quang cùng đan xen trong biến cố khổ nạn của Chúa Giê-su, thì hôm nay, trong cuộc sống của chúng ta, đau khổ và vinh quang cũng vẫn đang cùng nhau hòa quyện. Người tín hữu nhìn thấy qua mầu nhiệm thập giá vinh quang của Thiên Chúa. Vinh quang ấy chiếu tỏa cho mọi thế hệ, để những ai đến với thập giá Chúa Ki-tô, sẽ tìm được bình an và hướng đi cho đời mình. Trong cuộc sống đầy gian nan thử thách, những ai tin cậy phó thác nơi Chúa, sẽ cảm thấy gánh cuộc đời nhẹ nhàng hơn. Chúa Giê-su đã mời gọi: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28). Chúng ta hãy tham dự nghi thức Tuần Thánh với niềm phó thác cậy trông để có thêm nghị lực bước đi trên con đường thập giá cuộc đời. mục lục
+ ĐTGM. Giu-se Vũ Văn Thiên
Chúa nhật Lễ Lá, khai mạc Tuần Thánh, trung tâm của toàn thể Năm Phụng Vụ. Với Tuần Thánh, Giáo hội bước vào trong Mầu nhiệm Vượt Qua, tưởng niệm cái chết và sự sống lại của Chúa Giê-su. Vì thế, Giáo hội cùng với con cái mình dõi theo Chúa Giê-su trên hành trình tiến lên đồi Can-vê với thập giá và sự sống lại của Người. Sống Tuần Thánh là đi vào tình thương hiến thân của Chúa Giê-su hầu mang lại sự sống cho con người.
Đám đông tràn ngập niềm vui
Tin Mừng mô tả, Chúa Giê-su và một số môn đệ của Người đã thực hiện chuyến đi chừng hai dặm từ Bê-ta-ni-a đến ngoài thành Giê-ru-sa-lem cùng với đám đông dân Do Thái cử hành lễ Vượt Qua theo đúng quy định được ghi trong sách Xuất hành và sách Đệ Nhị luật (x. Xh 12,1–13,6; Đnl 16,1-8).
Theo phong tục, những người hành hương đến trước sẽ ra để chào đón những nhóm đến sau; có một số người chưa từng gặp Chúa Giê-su nhưng nghe biết về các phép lạ Người thực hiện đều tiến ra chào đón Người tạo thành đám đông lớn như Tin mừng Gio-an giải thích: “Khi đám đông dân chúng… nghe tin Đức Giê-su tới Giê-ru-sa-lem, họ cầm nhành cọ ra đón Ngài và reo hò: ‘Hosanna! Hoan hô Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Chúc tụng vua Ít-ra-en!’”(Ga 12,12-13). Những người Pha-ri-sêu có mặt ở đó thấy vậy liền nói với Chúa Giêsu, “Thưa Thầy, xin hãy quở trách các môn đệ của Thầy”. Người đáp, “Ta nói với các ngươi, nếu họ mà làm thinh thì sỏi đá cũng sẽ kêu lên” (x. Lc 19,39-40).
Khổ đau bao trùm
Dân chúng đang hân hoan, tung hô, chúc tụng Chúa, tràn ngập niềm vui. Sự đấu tố, đòn vọt, vòng gai và thập giá ập tới, những lời của Tiên tri I-sai-a, bài tường thuật của thánh sử Lu-ca, và những bài đọc phụng vụ khác dẫn đưa chúng ta vào trong mầu nhiệm Thương Khó và cái chết đau thương của Chúa Giê-su. I-sai-a mô tả cho chúng ta hình ảnh của một người bị đánh đòn và chịu vả mặt nhục nhã (x. Isaia 50,6). Lời đáp ca: “Lạy Chúa tôi, lạy Chúa tôi, sao Chúa bỏ rơi tôi?” giúp chúng ta chiêm ngắm cơn hấp hối của Chúa Giê-su trên thập giá (Lc 23,44-45).
Niềm vui và đau khổ được liên kết trong ngày này, ngày Chúa nhật bắt đầu Tuần Thánh. Đây là thời gian của sự thất vọng, bối rối và mâu thuẫn. Chính đoàn dân từng hân hoan chào đón Đức Ki-tô tiến vào Giê-ru-sa-lem sáng hôm ấy, cất vang “Hosanna” cùng những lời sùng bái, nội trong một tuần, vẫn là họ, lại kêu gào “đóng đinh nó vào thập giá”. Họ sẽ đi từ chỗ tán dương Chúa Giê-su như Thái Tử nhà Đa-vít, vua Ít-ra-en đến việc đem mạng sống Người ra đổi với một tên tội phạm đã bị kết án tên là Ba-ra-ba; chính họ sẽ ca ngợi Chúa trước và rồi sau đó lại chính những người ấy nhạo báng Người. Ngay cả những người thân hữu cùng tiến vào Giê-ru-sa-lem bên cạnh Đức Giê-su cũng sẽ rời bỏ Người.
Thánh Bernard xứ Clairvaux (1090-1153) mô tả việc Chúa Ki-tô tiến vào Giê-ru-sa-lem: “Thật khác biệt biết bao những tiếng hô ‘Đem đi, đem nó đi, đóng đinh nó vào thập giá’ với ‘Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời!’. Thật khác biệt biết bao những tiếng hô lúc này gọi Người là ‘Vua Ít-ra-en’ và rồi thời điểm sau đó vài ngày lại bảo rằng ‘Chúng tôi không có vua nào khác ngoài Caesar!’. Thật tương phản giữa nhành lá xanh tươi và thập giá, giữa vòng hoa và mão gai! Trước đó, họ trải áo mình ra để Người bước đi, rồi rất nhanh sau đó họ lại lột áo Người và đem ra bốc thăm”.
Thánh Phao-lô tông đồ giúp chúng ta hiểu sâu xa hơn mầu nhiệm Vượt Qua: Chúa Giê-su, “dù là Thiên Chúa, nhưng không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, và chết trên cây thập tự” (Phil 2, 6- 8).
Sống Tuần Thánh
Nhìn vào Chúa Giê-su trong cuộc thương khó, chúng ta khám phá ra những đau khổ của nhân loại nói chung và những đau khổ của chính cá nhân mình nói riêng. Chúa Giê-su, dù vô tội, đã nhận mang lấy vào thân điều mà con người không thể chịu được như: sự bất công, sự dữ, tội lỗi, hận thù, đau khổ và cuối cùng là sự chết. Trong Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa phải chịu nhục nhã và đau khổ để chứng tỏ rằng Thiên Chúa yêu thương tất cả, tha thứ cho tất cả và mang đến cho con người ý nghĩa cuối cùng của cuộc sống. Toàn bộ những nét đối nghịch này sẽ xảy ra trong vòng một tuần bắt đầu từ Chúa nhật Lễ Lá.
Mỗi khi Tuần Thánh về, đọc lại bài Thương Khó Đức Giê-su Ki-tô Chúa chúng ta, Giáo hội muốn mỗi người chúng ta, thay vì đổ tội cho người Do thái, thì nhìn thấy trách nhiệm của mình trong cái chết của Chúa Giê-su. Chúa đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Thánh Kinh. Tội lỗi làm cho chúng ta xa lìa Thiên Chúa và tha nhân, chống lại Thiên Chúa và chống lại nhau, dẫn đến nguy cơ mất ơn cứu độ. Nên Thiên Chúa đã “vì loài người chúng ta, và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế…” chịu đóng đanh, chịu chết để chuộc tội cho chúng ta (x. Kinh Tin Kính).
Ước gì khi suy niệm về cái chết của Chúa Giê-su, mỗi người chúng ta thêm lòng tin vào Chúa, yêu mến Chúa cách mãnh liệt hơn, và đặt tất cả lòng cậy trông vào Chúa. Chúng ta tin Chúa Giê-su đã chết vì tội lỗi chúng ta, nhưng Thiên Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết. Amen. mục lục
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
CHÚA GIÊSU, MỘT THIÊN CHÚA ĐÃ TRỞ NÊN TÔI TỚ
Lòng Thương Xót của Thiên Chúa chính là trọng tâm của sách Tin Mừng theo thánh Luca. Thánh sử Luca hiểu sâu và diễn tả rõ tình yêu xót thương của Chúa Cha được thể hiện nơi Chúa Giêsu, đặc biệt là đối với người nghèo, những người đau khổ, những người bị xã hội gạt ra ngoài lề. Trình thuật hôm nay của thánh sử về cuộc Khổ nạn, việc Đóng đinh, sự Tử nạn của Chúa Giêsu vẫn giới thiệu cho chúng ta một Thiên Chúa đầy lòng thương xót, dịu dàng và tha thứ. Ngày nay, Chúa Kitô vẫn nhìn chúng ta với sự dịu dàng, và tỏ bày với chúng ta: “Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ” (Lc 22:27), như một người tôi tớ. Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta cùng bước với Chúa Kitô vào mầu nhiệm tình yêu cao cả của một Thiên Chúa hiến thân chịu khổ hình, chịu chết và Phục sinh để cứu độ nhân loại.
1. Người Tôi Trung của Thiên Chúa.
Gương mẫu lớn lao nhất về phục vụ chính là Chúa Giêsu. Ngài đã sống một cuộc đời phục vụ. Ngài đến trần gian không phải để làm hài lòng chính mình. Ngài sống để làm vui lòng Chúa Cha, và Ngài đến để phục vụ nhân loại: “Tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi. Mà ý của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6: 38-39). Khi các môn đệ của Ngài “cãi nhau sôi nổi xem ai trong nhóm được coi là người lớn nhất” thì Ngài dạy bảo các ông rằng: “Vua các dân thì dùng uy mà thống trị dân, và những ai cầm quyền thì tự xưng là ân nhân. Nhưng anh em thì không phải như thế, trái lại, ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ” (Lc 22: 25-26). Hành động phục vụ cuối cùng của Chúa Giêsu sắp xảy đến: hiến dâng mạng sống mình cho người khác, qua cuộc khổ nạn, bị đóng đinh, và chết trên thập tự giá, như đã được ngôn sứ Isaia tiên báo trong bài đọc thứ nhất: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ. Có Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng” (Is 50: 4-7).
Henri Nouwen viết: “Thiên Chúa của chúng ta là một vị Thiên Chúa trở nên tôi tớ. Thật khó để chúng ta hiểu rằng chúng ta được cứu thoát bởi một người đã trở nên không có quyền lực, chúng ta được tăng sức mạnh bởi một người đã trở nên yếu đuối, chúng ta tìm thấy hy vọng mới ở một người đã từ bỏ mọi biệt đãi, và chúng ta tìm thấy một nhà lãnh đạo ở một người đã trở thành tôi tớ” (Compassion: A Reflection of the Christian Life). Đây chính là điều thánh Phaolô nói trong bài đọc thứ hai: “Chúa Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2: 6-8).
Chúa Giêsu cho chúng ta thấy một cuộc sống phục vụ như thế này sẽ dẫn đến đâu: “Còn anh em, anh em vẫn một lòng gắn bó với Thầy, giữa những lúc Thầy gặp thử thách gian nan. Vì thế, Thầy sẽ trao Vương Quốc cho anh em, như Cha Thầy đã trao cho Thầy, để anh em được đồng bàn ăn uống với Thầy trong Vương Quốc của Thầy, và ngự toà xét xử mười hai chi tộc Israel” (Lc 22:28-30 ). Chúa Giêsu đã hứa với các môn đệ của mình rằng sự gắn bó của họ với Ngài sẽ được đền đáp trong thời đại sắp đến. Họ sẽ có được sự đền đáp đó không bằng cách nào khác ngoài sự gắn bó với Ngài trong việc phục vụ, chứ không phải tìm cách trở thành người lớn nhất.
Việc Chúa Giêsu hiến dâng mạng sống của Ngài vì chúng ta là một hình mẫu cho chúng ta noi theo: phục vụ người khác theo cùng một cách mà Ngài đã phục vụ chúng ta.
2. Chúa Giêsu là ai đối với mỗi người chúng ta?
Bài Thương khó trong Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay - còn gọi là Chúa Nhật Khổ nạn - cho thấy có nhiều nhân vật vây quanh Chúa Giêsu: các nhà chức trách tôn giáo như Caipha, các nhà cầm quyền chính trị như Philatô, Hêrôđê, các môn đệ của Chúa Giêsu như Giuđa, Phêrô, và các môn đệ khác, Simon thành Xirênê, tên trộm lành, Giuse thành Arimathia, những người phụ nữ đi theo Chúa Giêsu, viên đại đội trưởng, những người lính.
Qua đám đông những người theo Chúa Kitô hoặc chống lại Ngài, thánh Luca giới thiệu cho chúng ta một Chúa Kitô luôn đầy lòng thương xót, từ bi, nhân hậu và tha thứ, ngay cả trong những khoảnh khắc đau đớn nhất. Ngài là một Thiên Chúa đã trở nên như người phục vụ: “Kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ” (Lc 22:25-26). Thậm chí trong những khoảnh khắc đau đớn nhất, Chúa Giêsu vẫn chữa lành cho kẻ đi bắt Ngài: “Thế rồi một người trong nhóm chém tên đầy tớ của thượng tế, làm nó đứt tai bên phải. Nhưng Chúa Giêsu lên tiếng: Thôi, ngừng lại. Và Ngài sờ vào tai tên đầy tớ mà chữa lành” (Lc 22:50-51).
Trong cuộc Khổ nạn, Chúa Giêsu cho thấy Ngài vẫn luôn như vậy: Ngài an ủi các môn đệ: “Thầy sẽ trao Vương Quốc cho anh em, như Cha Thầy đã trao cho Thầy, để anh em được đồng bàn ăn uống với Thầy trong Vương Quốc của Thầy” (Lc 22:29-30), an ủi những người phụ nữ thành Giêrusalem: “Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu” (Lc 23:28), Ngài tha thứ cho những kẻ hành hình Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23:34), cũng như tên tội phạm trên thập giá: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23: 43), Ngài chết trong niềm tin tưởng vào Thiên Chúa Cha: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23:46). Chính như vậy mà khi đó viên sĩ quan ngoại giáo nhận ra rằng Ngài là một người công chính: “Thấy sự việc xảy ra như thế, viên đại đội trưởng cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa rằng: Người này đích thực là người công chính” (Lc 22:47).
Blaise Pascal đã nói: “Chúa Giêsu sẽ phải đau khổ cho đến tận thế” (Blaise Pascal, Pensées, 553) Cuộc khổ nạn của Chúa vẫn tiếp diễn cho đến ngày nay. Người ta vẫn chế nhạo Ngài và những người tin vào Ngài. Người ta vẫn cố gắng kết án tử hình Ngài, làm cho Ngài biến mất khỏi cuộc đời của họ, ra sức chứng minh rằng Ngài là kẻ bịp bợm hoặc không có thật. Suốt hơn 2000 năm qua, phiên tòa này được lặp đi lặp lại, năm này qua năm khác, thế kỷ này qua thế kỷ khác.
Câu nói trên của Pascal còn vế thế hai: “Chúng ta không được ngủ mê trong thời gian này.” Qua tất cả những nhân vật này, mỗi người chúng ta được kêu gọi tỉnh táo, tự hỏi mình là nhân vật nào trong số những nhân vật này và mỗi người chúng ta có mối tương quan nào với Chúa Giêsu. Hay chúng ta cũng đã kết án tử hình Ngài, loại bỏ Ngài ra khỏi cuộc đời của chúng ta? Liệu Ngài còn bóng dáng gì trong tâm tưởng của chúng ta không, hay đã trở thành một ký ức xa vời mờ mịt không chút liên quan gì đến nghĩ suy, diễn ngôn, hành vi và lối sống mỗi ngày của chúng ta?
Lời Chúa Giêsu nói với Phêrô khi xưa hẳn cũng là nói với mỗi người chúng ta hôm nay: “Này anh Phêrô, Thầy bảo cho anh biết, hôm nay gà chưa kịp gáy, thì đã ba lần anh chối là không biết Thầy” (Lc 22:34). Chúng ta hãy khiêm hạ xin Chúa Giêsu cầu nguyện cho chúng ta như Ngài đã cầu nguyện cho Phêrô: “Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin” (Lc 22:32). Rồi sau đó chính chúng ta, đến lượt mình, khi đã biết mình là kẻ sa ngã nhưng được Chúa Kitô xót thương vực dậy, cũng biết khiêm hạ xót thương những người khác: “Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22:32). Chính thánh Phêrô khuyên bảo: “Như những người con biết vâng phục, anh em đừng chiều theo những đam mê trước kia, lúc anh em còn mê muội. Anh em hãy sống thánh thiện trong cách ăn nết ở, để nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anh em, vì có lời Kinh Thánh chép: Hãy sống thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh” (1 Pr 1: 14-16). Thánh nhân khẳng định: “Quả thật, trước kia anh em chẳng khác nào những con chiên lạc, nhưng nay đã quay về với Vị Mục Tử, Đấng chăm sóc linh hồn anh em” (1 Pr 2:25).
3. Những lời trăn trối của một Thiên Chúa yêu thương
Trong Tin Mừng của thánh Luca, trên thập tự giá, Chúa Giêsu đã nói ba lời không được đề cập trong các sách Tin Mừng khác và cho thấy căn tính của Thiên Chúa là tình yêu.
“Lạy Cha, xin tha thứ cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 22:34)
Đây là tiếng kêu thương xót lớn nhất mà Chúa Giêsu, cũng là Thiên Chúa, dành cho mỗi người và tất cả mọi người chúng ta, những người con hoang đàng tự ý từ bỏ Người Cha nhân hậu của mình. Tiếng kêu tha thứ này vang lên giữa những lời lăng mạ và chế giễu của đám đông dân chúng, các thủ lãnh chính trị và tôn giáo, những quân lính.
Trong suốt cuộc đời mình, Chúa Kitô rao giảng về lòng thương xót và sự tha thứ. Ngài yêu cầu các môn đệ của mình tha thứ không chỉ cho bạn bè mà còn cho kẻ thù. Ngài khẳng định rằng người ta phải tha thứ luôn mãi, không tính toán, không giới hạn: “Dù nó xúc phạm đến anh một ngày đến bảy lần, rồi bảy lần trở lại nói với anh: Tôi hối hận, thì anh cũng phải tha cho nó” (Lc 17:4). Trong dụ ngôn về người con hoang đàng, Chúa cho chúng ta thấy cảnh người Cha ăn mừng vì đứa con “đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy” (Lc 15:24). Chúa Kitô, dù bị đối xử như một tội phạm công khai và bị kết án tử hình tàn khốc và bất công, bị đóng đinh giữa hai tên trộm, Ngài vẫn có tình yêu trắc ẩn và lòng xót thương để tha thứ: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 22:34).
“Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 22:43)
Trong suốt cuộc đời mình, Chúa Giêsu đã nói bằng lòng nhân từ và tình yêu thương với rất nhiều người: Maria Mađalêna, Gia kêu, những người phong hủi, người phụ nữ Samaria, những người bệnh, người phụ nữ ngoại tình, Nicôđêmô, Giuse thành Arimathia, Phêrô, v.v. Bây giờ, Ngài đón nhận tên tội phạm bị đóng đinh cùng với Ngài: “Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” Trước ngưỡng cửa cái chết, Chúa Giêsu đã mở ra cho người bất hạnh này một viễn cảnh hy vọng và sự sống. Qua nhiều thế kỷ, Chúa Kitô vẫn mang lại niềm hy vọng này cho muôn ngàn người khác. Ngài vẫn tiếp tục làm như vậy cho mỗi người chúng ta mãi đến hôm nay.
“Con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23:46)
Thánh Luca cho chúng ta biết rằng cái chết của Chúa Giêsu không phải là một sự kiện vô nghĩa: đó là một hành động yêu thương, một con đường đến với Chúa Cha. “Con xin phó thác hồn con trong tay Cha.” Chúa Kitô sống trong sự hiệp thông chặt chẽ với Cha Ngài và giờ đây, trong nỗi thống khổ ở Vườn Giệtsimani và những đau khổ của cuộc đóng đinh, Ngài tin tưởng phó thác bản thân mình trong tay Thiên Chúa Cha, Đấng biết Chúa Kitô chính là Chúa Con, và Chúa Con biết rõ Thiên Chúa ấy là Cha: “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết người Con là ai, trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết Chúa Cha là ai, trừ người Con, và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho” (Lc 10:22).
Lạy Chúa Giêsu, là Vua đích thực và khiêm hạ, dân chúng chào đón Chúa là Đấng Cứu Thế. Xin ban cho chúng con đức tin và lòng mến Chúa, để chúng con cùng bước đi với Chúa trên con đường thập giá dẫn đến cái chết đau thương của Chúa, mà Chúa đã tự nguyện đón nhận để cứu độ chúng con. Xin giúp chúng con mỗi khi chiêm ngắm Chúa trên thập giá được ơn xác tín hơn vào tình thương bao la của Chúa dành cho chúng con. Amen. mục lục
Phêrô Phạm Văn Trung
Nội dung của Is 52,4 – 53,11 (được công bố trong chiều thứ sáu Thánh) là đoạn Kinh Thánh nói về Người tôi trung đau khổ của Thiên Chúa. Trong đó sứ điệp, tiên tri Isaia diễn tả sự chịu đựng của Người tôi trung là vô cùng, là quá sức, là dữ dội đối diện với sự độc ác của "chúng ta".
Vì sự độc ác ấy mà Người tôi trung "mặt mày tan nát"; bị " ruồng rẫy"; bị "khinh khi"; bị "bỏ rơi"; bị "trút lên đầu tội lỗi chúng ta"; bị "ngược đãi, lăn nhục, ức hiếp, khai trừ...". Cuối cùng Người tôi trung ấy "bị thủ tiêu"...
Dù "chúng ta" độc ác đến tận cùng, hành hạ Người tôi trung đến mức tàn khốc, thì cuối cùng Người tôi trung sẽ chiến thắng: "Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ".
Và Thiên Chúa, dù không hề vui khi Người tôi trung phải chịu sát tế, vẫn hài lòng vì Người tôi trung đã trung thành với Ngài. Nhờ sự trung thành, Người tôi trung vô tội chấp nhận hiến tế như con chiên gánh tội nhân loại để nhân loại được tha thứ. Cũng qua công cuộc hiến tế, Người tôi trung vinh quang muôn đời.
Hội Thánh nhìn nhận Người tôi trung chính là Chúa Giêsu và đoạn Kinh Thánh nói về Người tôi trung đau khổ là sự báo trước cuộc khổ nạn mà Chúa Giêsu phải chịu.
Chúa Giêsu tự nguyện trở nên “giống thân xác tội lỗi” (Rm 8,3) và “đồng hóa mình với tội” (2 Cr 5,21. Gl 3,13) vì quá yêu chúng ta. Chính vì tình yêu, Chúa tự nguyện hạ mình mang lại ơn tha thứ và cứu độ chúng ta.
Tội có bản chất là ẩn nấp, rình rập, khó nắm bắt, giống như con rắn, nhưng dù có che dấu đến đâu, thì nơi thân xác nát tan của Chúa Giêsu, tội đã phải hiện nguyên hình là sự dữ cực độ, là sự tàn khốc đến không thể tả, là nỗi cay đắng, nát tan và đổ vỡ đến mức thảm bại, đến mức đớn đau không gì bằng của thân phận con người khi gắn mình sa đà trong tội.
Vì thế, ngay lúc này, trong những giờ phút của tuần Thánh, chúng ta được mời gọi nhìn lên hình ảnh Chúa chịu đóng đinh, để:
- Nhận ra thân thể tàn tạ vì roi vọt, kết quả của lòng ghen ghét, của lòng ham muốn, của sự phản bội, của sự bất trung, của những lời tố cáo, lên án vô cớ, của những vụ án gian dối, những nghi ngờ, những oan ức... mà chúng ta dành cho anh chị em.
- Nhận ra đầu đội mão gai của Chúa, tượng trưng những nhạo báng, diễu cợt mà chúng ta dành cho anh chị em xung quanh.
- Nhận ra Chân tay Chúa bị thủng, bị ghim vào giá gỗ, để thấy chúng ta nhiều lần đánh mất nhân tính và hành động theo sự dữ, sự xấu.
- Nhận ra cạnh sườn của Chúa bị đâm thấu đến trái tim. Đó là vì chúng ta dung dưỡng, bao che cho sự dữ, bạo lực, làm ngơ trước tất cả những hình thức hủy diệt.
Nhưng cuối cùng, tình yêu của Chúa chiến thắng. Thánh Giá đã chiến thắng. Nhờ Thánh Giá Chúa, Thiên Chúa trả lại cho loài người tình yêu, lòng thương xót, sự thiện, sự hiền lành và cả sự sống cao cả của chính Ngài.
Còn chúng ta, hãy đón nhận và hãy mang lấy thập giá đời mình để cộng tác phần mình vào ơn cứu rỗi mà Chúa thực hiện và dành cho. Sau đây là hai đề nghị giúp chúng ta sống mầu nhiệm Thánh Giá:
- Chắc chắn tuần Thánh là tuần mà không một nhà thờ nào không tổ chức ngắm Đàng Thánh giá, ngắm Sự Thương khó của Chúa. Chúng ta không tham dự như kẻ bàng quan, ngoại cuộc, không đọc, mà hãy khắc sâu hình ảnh Chúa Giêsu, Người tôi trung gục ngã đớn đau, thê thảm, ê chề.
Chúng ta chứng kiến cảnh Chúa Giêsu té ngã nhiều lần dù con đường từ dinh Philatô đến đồi Canvê không xa. Hoặc chứng kiến Chúa chịu lột áo, chịu đóng đinh, sau cùng chết tức tưởi trên thánh giá, ta càng thấm thía sức nặng tội lỗi và sự dữ của cả nhân loại, và của từng người vẫn tiếp tục đè nặng trên tấm thân đã kiệt sức của Chúa Giêsu. Bởi dù sống sau cái chết của Chúa đến 2000 năm, chúng ta đã hiện diện với đám đông lên án xử tử Chúa. Chính tội lỗi của chúng ta đã lên tiếng gào thét: "Đóng đinh nó vào Thập Giá. Đóng đinh nó vào Thập Giá".
- Tuần Thánh mời gọi mỗi người nhìn vào phía bên trong lòng mình nhằm nhận diện chính mình, để biết mình, để thấy sự cứng lòng của mình, thấy sự thoái thác, lần lựa không dứt khoát trở về cùng Chúa là một tai hại vô cùng lớn. Phải nhìn vào phía bên trong mới có thể nhận ra dấu ấn của một tình yêu vô cùng vô tận khi Chúa mang vác tội lỗi và mọi yếu hèn của chúng ta nơi chính bản thân, sự sống và cái chết của Chúa.
Một khi được nhận diện chính bản nhân nhờ chân thành nhìn vào phía bên trong, chúng ta sẽ mạnh mẽ hơn, dễ dàng hơn cho một cuộc hoán cải nội tâm thật sự, thật nghiêm túc, thật chu đáo.
Nhìn vào phía bên trong để thống hối, sẽ là cuộc thống hối hoàn bị đưa ta đến gần ơn phục sinh của Chúa. Bởi không có những thay đổi, không có sự ăn năn thẳm sâu, không để tâm hồn mang lấy dấu ấn của thánh giá để cùng bước đi với Chúa Giêsu, sẽ không có ơn phục sinh, đúng hơn, ơn phục sinh của Chúa không thể đến trong ta. Bởi không có ai có thể phục sinh cùng Chúa, mà không có những bước đi phục sinh trong đời mình. Hoán cải từng ngày là những bước phục sinh cần thiết để được phục sinh với Chúa và trong Chúa. mục lục
Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng
Ngồi trong ngục thất chờ ngày bị hành quyết, người tử tù nhớ lại những ngày tháng tăm tối của đời mình. Anh đã chẳng làm gì hữu ích cho đời. Đời ghê tởm một tên gian phi như anh. Thế nhưng khi bị treo trên thập giá, anh lại được một ân huệ lớn lao từ lời hứa của Chúa Giêsu: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23, 43).
Quả thật, anh đã nhận lấy bản ánh dành cho tội lỗi của mình là cái chết nhục nhã trên thập giá. Anh đã vác lấy thập giá là hậu quả của tội lỗi anh phạm. Anh hứng lấy sự sỉ nhục và khinh thường mà người đời dành cho anh. Anh bước lên đồi Gôngôtha trong ánh nắng gay gắt. Thập giá đè nặng vai anh và bao tủi nhục làm anh muốn quẳng thập giá xuống nhưng lính tráng vụt roi liên tục lên người anh. Anh thấy Đức Giêsu ôm hôn thập giá. Khuôn mặt Người chẳng còn hình dạng: mão gai trên đầu, mắt người một bên sưng vù, tím lại và cả thân mình nhầy nhụa máu. Anh đã nghe danh Người khắp gần xa và mấy hôm trước anh còn nghe lính tráng kháo nhau về việc Vua Giêsu vào thành Giêrusalem. Vậy mà hôm nay, người ta kết án, người ta điệu Người đi đóng đinh. Anh biết tội lỗi của mình và anh biết tội anh đáng chết. Còn Thầy Giêsu vô tội. Tại sao Thầy lại chấp nhận một bản án bất công? Có bao người nhục mạ Thầy Giêsu mà Thầy lại thưa lên: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34). Thầy Giêsu đã cầu nguyện cho kẻ làm hại mình.
Tình thương của Thầy Giêsu, bây giờ anh hoàn toàn cảm nhận được. Nơi Thầy, anh hoàn toàn bị thu hút, hoàn toàn bị chinh phục. Nghe tên gian phi kia nhục mạ Thầy: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình và cứu chúng tôi với” (Lc 23, 39). Anh liền mắng: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa mày cũng không biết sợ! Chúng ta bị như thế này là đích đáng, là xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!” (Lc 23, 40-41). Đang khi đau đớn vì bị đóng đinh, một tử tù như anh lại có thể lên tiếng bênh vực cho người khác. Đã bao giờ chúng ta lên tiếng bảo vệ quyền lợi của người khác mà không màng đến nỗi khổ của ta chưa? Ta có tấm lòng chân thành như anh gian phi dành cho Chúa không? Vì anh đã xin: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” (Lc 23, 42). Ân huệ anh nhận được quả là lớn lao. Chúa Giêsu đã xóa bỏ tội lỗi cho anh và hứa cho anh vào Thiên Đàng. Quả là tha thứ cũng có nghĩa là ban thưởng. Anh đón nhận Chúa Giêsu là vua của mình.
Lạy Chúa Giêsu Chịu – Đóng – Đinh! Cảm tạ Chúa đã gánh lấy tội lỗi của con và nhân loại. Xin cho con được lòng ăn năn đau đớn vì tội đã phạm và luôn biết cậy trông nơi lòng thương xót vô biên của Chúa. Xin Chúa giúp con khi được Chúa xót thương cũng biết rộng lòng thương xót người khác. Amen. mục lục
Bông hồng nhỏ
Anh chị em thân mến,
Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta bước vào Tuần Thánh. Đây vừa là nền tảng vừa là cao điểm trong cuộc sống mà chúng ta cần nhắm đến. Vẫn biết rằng, chúng ta không chỉ được mời gọi để đồng hành và chia sẻ sự chết của Con Chúa mà thôi. Hơn thế nữa, với lòng xác tín, qua sự chết của chính mình, chúng ta sẽ được thông hiệp vào giây phút mà Thiên Chúa đã tôn vinh Đức Ki-tô trong Mầu Nhiệm Phục Sinh.
Trong tuần này, chúng ta sẽ cùng với Đức Giê-su hiên ngang buớc vào Tuần Thương Khó. Cùng với Đức Giê-su, chúng ta can đảm và mạnh dạn bước vào ‘thời điểm – giờ’ của Thiên Chúa. Vì chúng ta biết rằng qua đó, Thiên Chúa sẽ bộc lộ trọn vẹn mối tình của Thiên Chúa. Tất cả mọi việc Người làm đều vì yêu.
Truyện kể rằng: Có ông chồng kia thật là diễm phúc khi đuợc vợ cùng đến văn phòng bác sĩ để khám bịnh. Sau khi kiểm tra sức khỏe cho ông, bác sĩ gọi vợ ông vào văn phòng rồi báo cho bà nhà biết rằng: “Thưa bà, chồng của bà đang bị căng thẳng, tình hình rất nghiêm trọng. Nếu bà không làm những điều mà chúng tôi đề nghị sau đây, hẳn nhiên ông nhà nhất định sẽ chết.”
Nghe thấy thế, bà ta nhanh chóng nói, “Thưa bác sĩ, hãy nói cho tôi biết những việc mà tôi cần làm”. Bác sĩ trả lời, “mỗi buổi sáng, bà hãy chuẩn bị cho ông một bữa ăn sáng lành mạnh; ban trưa bà cố nấu những món gì mà ông thích và trong bữa ăn tối, bà và con cái hãy tạo cho ông cảm nhận tình yêu và sự hỗ trợ của gia đình qua bữa cơm tối. Bà hãy nhớ là đừng chất thêm gánh năng hay tạo sự căng thẳng trong cuộc sống ông. Quan trọng nhất, đừng cằn nhằn ông nhà. Nếu bà có thể làm các điều này trong khoảng thời gian từ 10 tháng đến một năm thì sức khỏe của ông sẽ hồi phục hoàn toàn.”
Trên đường về nhà, người chồng nhìn thấy vẻ mặt trầm tư và đau khổ của vợ mới hỏi “các bác sĩ đã cho em biết về tình trạng sức khỏe của anh như thế nào?” Bà nhìn chồng mình rồi nói: “Anh yêu ơi! họ nói rằng anh sẽ chết. Em và các con phải làm gì cho anh đây?”
Câu chuyện dừng lại ở đó và không có kết luận.
Như người vợ trong câu chuyện, anh chị em chúng mình sẽ làm thế nào để diễn tả tình yêu với những người đang chung chia cuộc sống với mình đây?
Yêu mà không có việc làm thì tình yêu đó cũng mai một và dẫn con người đến nấm mồ mà thôi.
Lẽ ra, trong cuộc đời và nhất là Tuần Thánh này, chúng ta cố gắng sống và trao cho nhau trọn vẹn lòng yêu mến của Đấng đã trao cho chúng ta quà tặng tình yêu đó.
Nhưng, thực tế chúng ta lại mang lấy tâm trạng của những kẻ nhút nhát và phản bội như các môn đệ: ông này chối Chúa, ông kia bán Người; lại có ông bỏ rơi Người trong giây phút Nguời cần sự đồng cảm và hỗ trợ của các ông… Rồi chúng ta cũng có thể lại đồng ý với dã tâm và lòng thâm độc của các nhà lãnh đạo tôn giáo, đã bày mưu giết Người; rồi một cách nào đó, chúng ta cũng đồng ý với các hành động tàn nhẫn của quân lính khi hành hình Chúa tôi!
Tuy nhiên, những cực hình về mặt thể xác và tinh thần mà Đức Giê-su đón nhận một cách hiên ngang và tự nguyện vì yêu thuơng sẽ nâng đỡ chúng ta suy gẫm và sống các sự kiện xẩy ra trong Tuần Thương Khó năm nay một cách tích cực hơn.
Vào tối thứ Năm, Chúa đã quỳ xuống và với đôi bàn tay, Người đã rửa và lau sạch mọi thứ bụi trần còn dính vào đôi chân của những kẻ theo Người. Việc làm này không chỉ nhấn mạnh đến tinh thần phục vụ như một người tôi tớ; nhưng qua nghĩa cử yêu thuơng hạ mình thâm sâu đó, Người muốn phá tan mọi hàng rào ngăn cách giữa thầy và trò, chủ và tôi tớ, người với người.
Rồi sang ngày thứ Sáu, Đức Giê-su đã dâng hiến tinh thần, thân xác và sứ vụ của Người như lễ vật hy sinh vào tay Chúa Cha. Người mở tay ra để trao phó, còn đôi bàn tay của Thiên Chúa, Cha Người cũng mở ra để đón nhận. Một giao uớc được ký kết, giao ước Tình Yêu nói lên đích điểm của việc trao ban và đón nhận. Giao Uớc này thay thế cho mọi giao ước trước. Vì thế, ngày thứ Sáu sẽ không còn là ngày buồn thảm và tang thương như một số người chủ truơng.
Nhưng đó là “Good Friday – Ngày Thứ Sáu Tốt-Đẹp.” Trong ‘ngày và giờ’ đó, tình yêu của Chúa được thể hiện một cách thật trọn vẹn qua con đuờng Người đã đi.
Sự thinh lặng trong ngày thứ Bẩy Tuần Thánh nhắc cho chúng ta biết về thân phân ‘bó tay’ của mình: không còn đường nào để đi, không còn lối nào để thoát. Nhưng, chính vào lúc đó Thiên Chúa lại ra tay làm việc và can thiệp vào tình trạng ‘bó tay’ của nhân loại và của riêng mỗi người chúng ta.
Vì thế, các nghi thức phụng vụ mà chúng ta cử hành trong những ngày này, cách xử thế trong cuộc đời và lối sống đạo của chúng ta rất cần đuợc dẫn dắt bởi mối tình cao cả mà Con Thiên Chúa đã thực hiện.
Vẫn biết đó là lối sống đạo đích thật. Nhưng trở về đối diện với thực tế, tôi tự hỏi mình rằng: đã bao lần tham dự các nghi thức trong Tuần Thánh, đã bao lần suy niệm về con đuờng Thập Tự của Đức Giê-su; thế mà các biến cố đã xẩy ra trên con đuờng Thương Khó của Chúa, nhất là sự chết của Người đã có ảnh hưởng gì trên hành trình niềm tin và lối sống đạo của tôi?
Rồi lại, nếu nay mai có người hỏi tôi rằng: anh hay chị đã yêu Chúa như Chúa yêu chưa? Có lẽ, chẳng có mấy người trong chúng ta dám mạnh dạn trả lời ‘có’. Giả như có một số người thật dũng cảm khi trả lời có thì câu trả lời ‘có’ đó cũng chỉ là từ ngữ; bởi vì, sau đó khi được yêu cầu liệt ra các việc làm cụ thể của yêu thương thì chúng ta lại ấp úng, rồi cười xoà cho xong.
Nhưng nếu nói về việc phê phán hay nhận định về lối sống của người khác thì chúng ta giỏi lắm. Và còn một số người thường ‘suy bụng ta ra bụng người’ nên đã bỏ lỡ nhiều cơ hội để tìm ra ý nghĩa sâu sắc của viêc làm nào đó của tha nhân!
Hãy nhớ lại. Maria, chị của Lazarô, người đã dùng dầu thơm hảo hạng để xức chân Đức Giêsu; thế mà cũng có người phê phán hành động của Maria thật là hòai của và lãng phí. Tại sao chị lại không dùng tiền đó mà cho người nghèo? Với Chúa thì khác, Người nhìn thấy tấm lòng của chị ta. Chúa xác định một cách thật chắc chắn rằng, hãy để chị ta làm việc của chị ấy. Việc làm của chị thật tuyệt diệu; qua hành vi này Maria đã bộc lộ tấm lòng quí mến của chị dành cho Thầy.
Chúng ta nên đến với nhau bằng tấm lòng độ luơng và đôi tay mở ra, chứ đừng hoài nghi hay phê phán các việc tốt của người khác đã và đang làm. Trái lại, chúng ta cũng không nên quá cẩn thận và e dè khi cần làm một điều thiện cho tha nhân. Tất cả đều đuợc đánh giá bằng lòng yêu mến.
Hành vi của lòng nhân hậu phát sinh bởi ý ngay lành đều là những hành vi Thánh Thiện. Những gì càng nhỏ bé và dấu kín và một khi được bộc lộ thì giá trị càng cao. Sự thánh thiện đích thật thường được giấu trong cái vỏ bình thường bên ngòai. Và với lòng yêu mến, việc phục vụ tha nhân chính là phụng sự Thiên Chúa vậy.
Với tâm tình như thế, cầu chúc anh chị em buớc vào Tuần Thánh với tấm lòng yêu mến để múc thêm năng luợng mà phục vụ và trở thành của lễ cho Thiên Chúa và sinh nhiều ích lợi cho nhau. Amen! mục lục
Lm. Yuse Mai Văn Thịnh, DCCT
Kính thưa cộng đoàn,
Trong Năm Thánh này, khi mỗi bước chân trên hành trình đức tin hướng về nguồn mạch cứu độ, tâm trí chúng ta không thể không dừng lại chiêm nghiệm con đường đặc biệt mà Đức Giêsu Kitô đã đi qua. Đó không chỉ là một trình thuật lịch sử về những đau khổ tột cùng, mà còn là một bản giao hưởng thiêng liêng, vang vọng những nốt trầm hùng của sự vâng phục, những giai điệu bi tráng của hy sinh, và cuối cùng, khúc ca khải hoàn của ơn cứu độ. Con đường ấy, khởi đầu bằng sự kiện Ngài tiến vào Giêrusalem, hé lộ những nghịch lý sâu sắc, những "điều lạ" soi chiếu vào tận cùng trái tim chúng ta, khơi gợi những bài học thiết yếu cho hành trình hy vọng của cộng đoàn hôm nay.
Bước chân của Đức Giêsu vào thành thánh trên lưng một con lừa, một hình ảnh đầy tính biểu tượng, không phải là một cuộc diễu binh của quyền lực thế gian, mà là sự tự nguyện hạ mình của Đấng Thiên Sai. Con lừa, một phương tiện của sự phục vụ và khiêm nhường, đã trở thành "ngai vàng" cho vị Vua Tình Yêu. Lời Ngài: "Chúa có việc cần dùng" (Lc 19,34), một câu nói ngắn gọn nhưng chứa đựng quyền năng và sự tự do tuyệt đối, cho thấy một sự thật căn bản, ấy là: mọi sự đều nằm trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, và ngay cả những điều tầm thường nhất cũng có thể trở thành khí cụ cho vinh quang của Ngài. Hành động này, xét trong bối cảnh những ngày thương khó sắp tới, cho thấy Đức Giêsu không phải là một nạn nhân thụ động, mà là chủ thể của tình yêu tự hiến, chủ động bước vào con đường đau khổ vì lòng thương xót vô bờ bến dành cho nhân loại.
Sự tương phản giữa tiếng reo hò tung hô của đám đông và sự nhíu mày khó chịu của những người Pharisêu hé lộ một bi kịch muôn thuở, đó là: sự mù quáng trước sự thật và lòng chai đá trước tình yêu. Lời Đức Giêsu phán: "Tôi bảo các ông: họ mà làm thinh, thì sỏi đá cũng sẽ kêu lên!" (Lc 19,40) không chỉ là một lời khẳng định về sự hiển nhiên của chân lý, mà còn là một lời cảnh báo về sự nguy hiểm của việc khép lòng trước những dấu chỉ của Thiên Chúa. Trong thế giới đầy những ồn ào và dối trá hôm nay, người Kitô hữu được mời gọi lắng nghe tiếng nói đích thực, tiếng nói của tình yêu và sự thật, dù nó có thể không được số đông chấp nhận.
Đỉnh điểm của sự thấu hiểu về con đường của Đức Giêsu, và có lẽ là điều chạm đến sâu thẳm tâm can nhất, chính là giọt nước mắt mà Ngài đã tuôn rơi khi nhìn về Giêrusalem. Không chỉ là nỗi buồn trước những đau khổ Ngài sắp phải gánh chịu, mà đó còn là nỗi xót xa cho sự mù quáng của một thành phố đã không nhận ra thời điểm ân sủng, thời điểm Thiên Chúa viếng thăm. Lời than thở: "Phải chi ngày hôm nay ngươi nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi!" (Lc 19,42) vang vọng như một lời tiên tri buồn bã, nhưng đồng thời cũng là một lời mời gọi tha thiết đến sự tỉnh thức của chúng ta hôm nay!
Lời than thở ấy, hơn bao giờ hết, mang một âm hưởng thời đại sâu sắc khi chúng ta chứng kiến những đổ vỡ và khổ đau trong thế giới những ngày qua. Sau những cuộc chiến đẫm máu, thảm khốc và nhất là qua trận động đất kinh hoàng ở Myanmar, biết bao gia đình đã mất đi người thân, nhà cửa, và cả niềm hy vọng. Nhưng nỗi đau không chỉ dừng lại ở những thảm họa lớn lao ấy, nhưng nó còn hiện hữu ngay trong những vết thương âm thầm của đời sống thường nhật, như: sự phản bội trong hôn nhân, sự rạn nứt trong gia đình, sự cô đơn giữa những mối quan hệ hời hợt, gánh nặng bệnh tật và nghèo đói, cảm giác bị bỏ rơi và chìm trong tuyệt vọng. Những"Giêrusalem" của riêng mỗi người, mỗi gia đình, mỗi cộng đoàn đang đứng trước nguy cơ sụp đổ.
Trong những khoảnh khắc đen tối ấy, câu hỏi "Thiên Chúa ở đâu?", “nếu có Thiên Chúa thật, liệu Ngài có còn xót thương nhân loại nữa không?”, “Ngài có còn nghe thấu nỗi đau tột cùng của những nạn nhân đau khổ đang ngày đêm kêu thấu đến tận trời cao hay không?”! Những lời ai thán đó có lẽ vang lên như một tiếng nấc nghẹn ngào trong lòng những nạn nhân đau khổ và trong lòng mỗi chúng ta. Nhưng chính trong những vực sâu của khổ đau, cộng đoàn được mời gọi nhìn lại con đường mà Đức Giêsu đã đi qua. Ngài đã không né tránh khổ đau, Ngài đã không chọn một lối thoát dễ dàng. Ngài đã chấp nhận vâng phục thánh ý Chúa Cha đến cùng, mang lấy mọi gánh nặng của tội lỗi và khổ đau nhân loại trên vai. Chính trên con đường vâng phục tuyệt đối ấy, tình yêu và lòng thương xót vô bờ bến của Thiên Chúa đã được tỏ lộ một cách trọn vẹn nhất, khai mở nguồn hy vọng và ơn cứu độ cho tất cả những ai tin vào Ngài.
Con đường thập giá, con đường của sự từ bỏ và hy sinh tột độ, không phải là một ngõ cụt của tuyệt vọng, mà là một hành trình dẫn đến vinh quang phục sinh. Sự vâng phục của Đức Giêsu, ngay cả khi phải đối diện với cái chết, đã phá tan xiềng xích của tội lỗi và mở ra cánh cửa của sự sống vĩnh cửu. Chính trong sự vâng phục ấy, chúng ta tìm thấy sức mạnh để đối diện với những "Giêrusalem" đang sụp đổ trong cuộc đời mình, để không đánh mất niềm tin vào tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa.
Lời than thở của Đức Giêsu không chỉ là một lời ai oán cho một thành phố vật chất, mà còn là lời cảnh tỉnh cho mỗi tâm hồn trong cộng đoàn. Chúng ta có nhận ra "thời điểm Thiên Chúa viếng thăm" trong những biến cố của cuộc đời mình không? Mỗi người có mở lòng đón nhận tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa giữa những khổ đau và mất mát không? Chỉ khi nhận ra và tin tưởng vào tình yêu ấy, chúng ta mới có thể tìm thấy bình an đích thực, một bình an không đến từ sự vắng bóng của khổ đau, mà đến từ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa những thử thách.
Trong Năm Thánh này, hành trình hy vọng của mỗi người được định hình bởi chính con đường vâng phục của Đức Giêsu. Chúng ta được mời gọi học lấy sự khiêm nhường, sự phục vụ, sự lắng nghe và lòng trắc ẩn của Ngài. Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người đang chìm trong khổ đau, cho những "Giêrusalem" đang sụp đổ trên khắp thế giới, để họ nhận ra rằng, ngay trong bóng tối, ánh sáng của hy vọng vẫn luôn chiếu soi qua con đường thập giá dẫn đến phục sinh. Và trên hết, chúng ta hãy cầu nguyện cho những người có trách nhiệm trong các xã hội trần thế, biết nhạy bén và nhận ra những dấu chỉ thời đại, qua đó, biết quy phục Thiên Chúa và hành động theo tiếng lương tâm mách bảo, ngõ hầu mang lại cho con người được hạnh phúc và bình an.
Cuối cùng, chúng ta hãy để cho tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa chữa lành những vết thương trong tâm hồn mình, để mỗi người có thể trở thành những người hành hương đích thực của hy vọng, mang bình an và niềm tin đến cho những người xung quanh. Amen. mục lục
Jos. Vinct. Ngọc Biển.
CUỘC THƯƠNG KHÓ THEO THÁNH LU-CA
Cả 4 tác giả Tin Mừng đều có bài tường thuật cuộc Thương khó cùa Chúa, dài nhất trong mọi bài tường thuật. Và tùy theo nhãn giới thần học của mình, mỗi tác giả đều có những đặc nét riêng, nhiều sự kiện riêng. Năm nay chúng ta đọc bài Thương khó theo thánh Lu-ca, thiết tưởng trước hết cũng nên đối chiếu với một trong 3 tác giả còn lại, Mác-cô chẳng hạn. Tiếp đó chọn vài câu tiêu biểu nhất trong trình thuật của ông để cùng nhau suy niệm.
1- Vài nét văn chương
Trong Tin Mừng Lu-ca, vắng mặt nhiều giai thoại có trong Tin Mừng Mác-cô. Đặc biệt, đó là cuộc xức dầu thơm tại Bê-ta-ni-a (Mc 14,3-9; x. Lc 7,36-50; 23,56 ?) ; lời tiên tri về gương xấu và sự tán loạn của mọi môn đệ (Mc 14,27-28) cũng như việc nó hoàn tất (Mc 14,50-52) ; sự hiện diện của các chứng nhân giả nêu lại một lời nói của Đức Giê-su về Đền thờ (Mc 14,55-60) ; việc binh lính Rô-ma lăng nhục Vua Giê-su (Mc 15,16-20) ; thức uống : rượu pha một dược (Mc 15,23) ; tiếng kêu của Tv 22 do Đức Giê-su hấp hối thốt lên và lối chơi chữ trên tên của Ê-li-a ngôn sứ (Mc 15,34-36).
Ngược lại, Lu-ca có nhiều giai thoại đáng lưu ý thuộc riêng mình. Đức Ki-tô đưa ra một giáo huấn khai triển dài dòng trước khi lập phép Thánh Thể (22,15-16, với chén rượu đầu tiên ở c. 17) nhưng nhất là sau đó (22,24-30 - với nhiều đoạn song song nơi Mác-cô và Mát-thêu bên ngoài cuộc Thương khó ; 22,31-32.35-38). Thiên sứ và mồ hôi máu trong cơn hấp hối/cuộc chiến đấu (22,43-44), lệnh ngưng kháng cự và việc chữa lành tai bị chém (22,51), cái nhìn của Chúa trên Phê-rô (22,61a), tất cả đều là những ghi chú rất quen thuộc với độc giả ; nhưng cũng ý nghĩa không kém là những ghi chú về cớ buộc tội từ phía Do-thái (23,2.5), bị Phi-la-tô đáp trả bằng 3 lần tuyên bố Chúa vô tội (23,4.14.22 ; x. thêm Ga 18,38; 19,4.6). Việc Đức Giê-su ra trước tòa Hê-rô-đê (23,6-12) và phán quyết đầu tiên của Phi-la-tô (22,13-16) là hai khối đáng nể, y như việc gặp các phụ nữ Giê-ru-sa-lem trên đường thánh giá (23,27-32) và cuộc đối thoại với tên trộm lành (23,40-43). Người ta cũng tìm thấy 2 lời ngắn hơn, lời của Đấng Chịu đóng đinh về ơn tha thứ (23,34) và tiếng kêu cùa kẻ hấp hối trích dẫn Tv 31 (23,46b). Cuối cùng, đó là 50 câu -hơn 20 trong số đó được đặt trên miệng Đức Ki-tô- mà Lu-ca có riêng, trên tổng số 127 câu.
2- Vài câu suy niệm
Không đi vào việc phân tích trọn vẹn cuộc Thương khó theo thánh Lu-ca, chúng ta chỉ cần suy niệm trong năm này vài câu nói của Đức Giê-su mà chỉ riêng Lu-ca ghi lại. Như đối với các trình thuật thời thơ ấu -cũng thuộc riêng Lu-ca- chúng ta chẳng có ở đó các “kỷ niệm cá nhân” của Đức Ma-ri-a, “được lưu giữ trong lòng” mãi đến ngày Người chuyển lại cho tác giả Tin Mừng sao ?
“Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi chịu đau khổ” (22,15).
Đức Ma-ri-a từng biết rõ con mình.... như nhiều bà mẹ khác ! Và Lu-ca khẩn thiết nhắc ta nhớ Đức Giê-su có khả năng “chịu đau khổ đề đi vào trong Vinh quang của mình.” Người sẽ nói lại điều này với hai lữ khách làng Em-mau (24,26). Vâng, trước cả bao thánh nhân lẫn chứng nhân tử đạo, và vượt hơn tất cả họ, Đức Giê-su đã đi đến cái chết của mình với một tính khí kiên định, cả quyết, can đảm. Toàn bộ Tin Mừng Lu-ca được xây dựng trên chủ đề “cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem” vốn khởi sự bằng công thức chắc nịch : “Khi đã tới ngày Đức Giê-su được cất khỏi thế gian này, Người cương quyết lên đường đi Giê-ru-sa-lem” (9,51). Và xa hơn, với nhiều sức mạnh, Đức Giê-su lấy lại chủ đề này của đời mình : “Thầy có một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất !” (12,50). Người ta sai lầm một cách quá đáng -và đó là sai lầm kinh khủng của đạo diễn Martin Scorcese trong phim “Cơn cám dỗ cuối cùng của Đức Ki-tô” -khi giản lược Người thành một kẻ khốn khổ, đu đưa và yếu đuối như chúng ta hết thảy. Cũng còn một câu riêng của Lu-ca là chi tiết sau đây trong cuộc Biến hình : “Ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra rạng ngời vinh quang, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem” (9,30-31). Vâng, chúng ta nên nhớ rằng Đức Giê-su đã tiến tới cái chết của mình cách hoàn toàn tự do… biết mình đang đi tới “nơi đâu” như thánh Gio-an sẽ xác định : “Thầy đi đến cùng Chúa Cha” (Ga 14,12). Đây là một ánh sáng lớn lao cho đức tin chúng ta, trước sự ra đi của thân nhân quá cố, và trước sự ra đi gần kề của chính mình.
“Kìa Xa-tan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo” (22,31).
Trong cuộc Thương khó theo thánh Lu-ca, Xa-tan được nhắc tới 3 lần. Trước hết như kẻ gợi hứng cho âm mưu của tay môn đồ quản lý : “Xa-tan đã nhập vào Giu-đa” (22,3). Âm mưu này chính là giả bộ bán Thầy, khiến Thầy bị bắt, để mong khi bị dồn đến chân tường, Thầy sẽ dùng quyền lực để tự cứu và khai mào cuộc nổi dậy mới chống quân xâm lược Rô-ma. Rồi như kẻ cám dỗ Phê-rô trước khi ông trở thành “người canh giữ chân lý để củng cố anh em mình” : “Si-môn, Si-môn ơi, kìa Xa-tan đã xin được sàng anh” (22,31). Cuối cùng, như thần dữ của những tư tế quyết định bắt Đức Giê-su : “Đây là giờ của các ông, là thời của quyền lực tối tăm” (22,53). Qua 3 phen nhắc tới “tác nhân” vô hình này, thảm kịch Thương khó đạt được một chiều kích không ngờ đối với những ai chỉ đọc các biến cố ở mức độ con người thôi. Đây chẳng phải là một “chuyện vặt” đầy dẫy trên báo chí chúng ta, song là cuộc chiến cánh chung vĩ đại, siêu việt. Đây là lời loan báo chiến thắng của Thiên Chúa trước Địch Thủ -nghĩa của chữ Xa-tan trong tiếng Hip-ri. Ta hiểu tại sao khi hắn từ giã Đức Giê-su ngay đầu sứ vụ của Người, sau 3 cuộc cám dỗ trong hoang địa, Lu-ca có nói : “Quỷ dữ lìa bỏ Người, chờ đợi thời cơ” (4,13). Chớ bao giờ quên rằng chúng ta được liên kết vào cuộc chiến đáng sợ đó. “Xa-tan đã đòi được sàng chúng ta…” và Đức Giê-su nhấn mạnh như thế 2 lần trong Lu-ca : “Anh em hãy cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ” (22,40.46).
“Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (23,34).
Hơn mọi lời trong cuộc Thương khó, câu này xuất hiện như một “kỷ niệm” của Đức Ma-ri-a. Bà lúc ấy đứng nơi chân thập giá. Bà đã nghe con yêu dấu tha thứ cho các lý hình/đao phủ của mình. Có lẽ bà đã nhận ra trong trái tim mình tư tưởng ấy của con yêu, sau Người và với Người. Ta hiểu rằng Ma-ri-a đã tha thiết chuyển lại cho Lu-ca câu nói mà các tác giả Tin Mừng khác xem ra quên bẵng. Và Lu-ca, vốn rất ưu tư nêu bật chủ đề nổi tiếng là lòng thương xót, đã nắm lấy cơ hội chuyển lại cho chúng ta một trong những hạt ngọc của Tin Mừng : Thiên Chúa yêu mến các tội nhân ! Thiên Chúa thương xót các tội nhân ! Đừng nghe bài Thương khó trong Chúa nhật Lễ lá này mà chẳng nghĩ đến các tội lỗi của riêng mình.
“Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (23,43).
Vâng, đó là cách khác để lặp lại với ta Đức Giê-su đã nhìn cái chết của mình ra sao : một cuộc tiến vào Vinh quang… một sự “khai mạc Vương quốc của Người” (23,42). Kẻ bị án tử ấy, nghịch lý thần linh, đang sắp xếp, chuẩn bị nhiều chỗ trên “lạc viên” của Thiên Chúa ! như Người từng loan báo với môn đệ : “Thầy trao Vương quốc cho anh em, như Cha Thầy đã trao cho Thầy” (22,29). Vương quyền của Người có bị phần lớn thế nhân bóp méo, từ chối cũng vô ích, Đức Giê-su ý thức mình là vua rất rõ. Và các lời xỉ mắng khiêu khích của những kẻ tra tấn Người chẳng làm gì được : “Nếu ông là vua dân Do-thái thì cứu lấy mình đi” (23,37). Thứ Sáu Thánh, chúng ta sẽ sốt sắng đến hôn kính và thờ lạy Thánh giá ấy, biểu tượng vương quyền, chìa khóa thiên đàng, nơi trở về ngay cả những tội phạm biết nói lên với lòng thống hối : “Xin Ngài nhớ đến tôi khi vào Nước của Ngài” (23,42).
“Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (23,46),
Trong thánh Lu-ca, đây là câu nói cuối cùng của Đức Giê-su trên thập giá, lấy từ Thánh vịnh 31,6. Phải chăng nên cùng với Đức Ma-ri-a, tín hữu tiên khởi và tấm gương Hội thánh, chiêm ngắm nơi Đức Giê-su khuôn mẫu của kẻ tin : vâng, Người biết rằng khi hấp hối, mình chẳng rơi vào hư vô, như tư tưởng vô thần muốn khiến chúng ta tin như vậy. Khi giã từ cõi thế, Đức Giê-su ngả vào “đôi tay Cha mình.”
Không, cuộc Thương khó không chỉ là một “bài phóng sự.” Đó là chính nguồn suối của đức tin chúng ta. Lạy Chúa Giê-su, xin cảm tạ Ngài. Chúng con tin vào Ngài, và như Ngài, vào mọi điều tuyệt diệu của Thiên Chúa.
Viết theo Claude Tassin và Noël Quesson. mục lục
Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
Với mục đích để Lời Chúa được loan truyền và thông tin Giáo hội được lan tỏa, Legio Mariæ sẵn lòng để các tổ chức và cá nhân sử dụng lại tin bài đã đăng trên báo giấy và báo mạng legiomariævn.com của mình.
Tuy nhiên, vì đức công bằng và sự bác ái, xin quý vị vui lòng ghi đầy đủ nguồn như sau: “Theo Đạo Binh Đức Mẹ, website: legiomariævn.com”.
Ngoài ra, nếu chia sẻ bài lên mạng xã hội (Facebook, Twitter…), đề nghị dùng đường dẫn gốc trên website của Đạo Binh Đức Mẹ.