SUY NIỆM LỄ CHÚA KITÔ VUA VŨ TRỤ - B

22-11-2024 268 lượt xem

[Đn 7,13-14; Kh 1,5-8; Ga 18,33b-37]

Click vào mục lục

“GÓP PHẦN LÀM CHO NƯỚC CHA TRỊ ĐẾN” - + ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm

VỊ VUA TÌNH YÊU – + ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên

CHÚA LÀ VUA – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

VUA SỰ THẬT VÀ VUA TÌNH YÊU – Phêrô Phạm Văn Trung

CHÚA GIÊSU VUA TÌNH YÊU – Lm. Yuse Mai Văn Thịnh, DCCT

GIÊSU, ĐỨC VUA TÌNH YÊU – Thiên San

SỰ THẬT VÀ VƯƠNG QUYỀN – Lm. Phêrô Phan Văn Lợi

ĐỨC GIÊSU KITÔ VUA VŨ TRỤ - Anna Têrêsa Thùy Linh

VUA GIỮA NHỮNG CUỒNG NỘ - Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng

SỰ THẬT LÀ GÌ? – Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

ĐÔI MẮT SÁNG LÀ HÀNH TINH LÓNG LÁNH – Mai Tá

CHÚA LÀ VUA KHẮP CÕI TRẦN GIAN – Trần Mỹ Duyệt

“GÓP PHẦN LÀM CHO NƯỚC CHA TRỊ ĐẾN”

 

+ ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm

VỊ VUA TÌNH YÊU

Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng vụ, Giáo hội mời gọi chúng ta chiêm ngưỡng Đức Giê-su với tước hiệu “Vua vũ trụ”. Danh xưng này thoạt nghe không mấy thiện cảm đối với chúng ta, vì trong lịch sử, các ông vua thường là gian ác, ăn chơi sa đọa và hèn nhát.

Vị Vua Giê-su không giống như thế. Vị Vua này là bạn hữu của những người nghèo, người thu thuế, những bệnh nhân, những người tù và những người bị loại trừ ra khỏi xã hội. Vị Vua Giê-su đã làm những việc khác thường, thậm chí là ngược đời: Người quỳ gối trước mặt các môn đệ để rửa chân cho họ; Người vất vả đi tìm kiếm con chiên bị lạc; Người đã khẳng định: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,13); và cuối cùng, Người đã hiến thân mình, đổ máu đào để cứu chuộc muôn người. Nhờ sự chết và sự sống lại của Người, Người đã mở một con đường đi đến thế giới mới mà Người gọi là Nước Trời.

Trước đó bảy thế kỷ, vương quyền của Đức Ki-tô đã được ngôn sứ Đa-ni-en tiên báo (Bài đọc I). Vị ngôn sứ gửi một thông điệp vui đến với những người Do Thái đang ngờ vực tình thương của Thiên Chúa, vì họ sống trong lầm than đau khổ của kiếp lưu đày. Đa-ni-en đã đem lại cho họ lòng can đảm và niềm hy vọng. Ông loan báo về một “Con Người” sẽ ngự đến, Đấng sẽ nâng họ lên và phục hồi phẩm giá của họ như xưa. Sau này, các Ki-tô hữu hiểu danh xưng “Con Người” là chính Chúa Giê-su, vì Người đã nhiều lần dùng danh xưng đó.

Bài đọc II trích sách Khải huyền của thánh Gio-an tông đồ giải thích với chúng ta rõ hơn về “Con Người” được nêu trong sách Ngôn sứ Đa-ni-en. Đó là Đức Ki-tô vinh quang, đánh bại mọi quyền lực ác thần. Người đã chiến thắng tội lỗi và thần chết. Người muốn cho chúng ta được dự phần vào chiến thắng của Người. Cùng một bối cảnh như sách ngôn sứ Đa-ni-en, sách Khải Huyền được viết cho các Ki-tô hữu đang chịu bách hại và truy sát ở cuối thế kỷ thứ nhất. Tác giả muốn khích lệ động viên các tín hữu, đồng thời giúp họ nhận ra một điều: tình yêu và lòng trung thành sẽ chiến thắng mọi sự dữ.

Thánh Gio-an trong Tin Mừng thuật lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giê-su và Phi-la-tô. Những người Do Thái tố cáo Chúa đã từng xưng mình là vua dân tộc họ, để vin vào đó kết án Người là kẻ thù của vua Xê-da. Họ cũng tố cáo Chúa đã xách động dân chúng. Trước những lời vu khống này, Chúa Giê-su không thanh minh, không lập luận, mà chỉ khẳng định: “Nước tôi không thuộc về thế gian này…tôi không có và không cần những cận vệ xung quanh tôi”. Trong cuộc đối chất này, Chúa Giê-su và Phi-la-tô không cùng một quan điểm về vương quyền và vương quốc. Đối với Chúa Giê-su, Người là đại diện của Chúa Cha ở giữa Dân Ngài. Chúa Giê-su là một vị Vua, như một mục tử cho toàn nhân loại. Người quan tâm và yêu thương hết mọi người bằng tình yêu dịu dàng trìu mến. Vương quốc của Người sẽ biến đổi những ai thiện chí muốn bước vào.

Trong xã hội của chúng ta hôm nay, còn có rất nhiều người từ chối vương quyền của Đức Ki-tô. Người ta viện nhiều lý do để biện minh cho sự dửng dưng tôn giáo. Khi đức tin vào Thiên Chúa đã mờ nhạt, người ta dễ dàng sống buông thả và không còn tôn trọng những chuẩn mực luân lý đạo đức.

Là Ki-tô hữu, chúng ta tin vào Vương quốc vĩnh cửu của Đức Giê-su. Vương quốc ấy đã khai mở ở trần gian, như lời rao giảng của Người: “Triều đại Thiên Chúa đã gần đến. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15). Ki-tô hữu là người góp phần xây dựng Vương quốc của Chúa, khi chúng ta nhiệt thành sống Tin Mừng, hăng say giới thiệu Chúa cho những người xung quanh. Vũ khí Chúa Giê-su đã dùng để chinh phục lòng người, đó tình yêu thương, thể hiện qua sự chữa lành tâm hồn và thể xác, với cánh tay giang rộng để ôm lấy toàn thể nhân loại, giúp cho các tội nhân được phục hồi, người đau khổ bất hạnh lấy lại niềm tin vào cuộc sống. Để được Thiên Chúa ngự trị nơi tâm hồn và cuộc đời, chúng ta phải lắng nghe lời mời gọi của Ngài và phải sám hối trở về. Cùng với Ngài, cuộc đời chúng ta đã sang trang và trở nên con người mới.

Như người “trộm lành” trên cây thập giá, chúng ta cùng thân thưa với Chúa Giê-su: “Lạy Chúa Giê-su, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến con”, và chắc chắn chúng ta sẽ được nghe lời yêu thương của Chúa nói với chúng ta: “Thầy bảo thật, hôm nay con sẽ được ở với Thầy trên Thiên đàng” (Lc 23,42-43). Đó là niềm hy vọng và ước nguyện sâu xa nhất của Ki-tô hữu chúng ta. mục lục

+ ĐTGM. Giu-se Vũ Văn Thiên

CHÚA LÀ VUA

Chu kỳ Năm Phụng vụ mở ra với ngày tháng dần trôi đang từ từ khép lại. Giáo hội nhắc lại cho con cái mình điều cốt yếu : Chúa là Ðấng vinh hiển quyền năng, là An-pha và Ô-mê-ga, là khởi nguyên và tận cùng, làm chủ thời gian  và muôn thế hệ. Vì thế, Giáo Hội nhắc lại giây phút vũ trụ chấm dứt hay đạt đến cùng đích là Thiên Chúa, giây phút Chúa Giêsu Kitô trở lại trong vinh quang.

Thật thích hợp trong viễn cảnh này Giáo Hội mời gọi con cái mình chiêm ngắm Chúa Giêsu Kitô là vua vũ trụ. Đấng đã nhập thể làm người trong lịch sử của một dân tộc, qua việc thiết lập Nước Thiên Chúa trong lịch sử loài người. Kể từ giây phút đó, Nước Thiên Chúa được luôn phát triển và mở rộng, cho đến mức thành toàn cuối cùng khi Chúa Giêsu Kitô ngự đến đưa tất cả về cùng Thiên Chúa Cha.

Chúa Giêsu Kitô là Vua không những vì Người đã sinh ra làm người, thuộc dòng dõi vua Đavid, mà hơn nữa vì Người là Con Thiên Chúa, mọi sự nhờ Người mà được sống và hiện hữu. Nhưng trớ trêu thay, Chúa Giêsu Kitô không thiết lập vương quốc của Người như một vương quốc thế trần và bằng những phương tiện phàm nhân. Không, nước Thiên Chúa được Chúa Giêsu thiết lập một cách diệu kỳ bằng hy sinh trên thập giá, để chứng tỏ tình yêu của Thiên Chúa đối với con người.

Chúa Giêsu Kitô là vua. Trong cuộc đời của Chúa Giêsu, biến cố thể hiện vương quyền của Chúa Giêsu là biến cố Chúa lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha trong vinh quang. "Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy" (Mt 26,18). Đó là lời quả quyết của Chúa Kitô Phục Sinh trước khi sai các Tông Đồ ra đi rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật.

Ngày nay, khi tại nhiều nơi trên thế giới, hòa bình vẫn còn vắng bóng; trật tự xã hội, chính trị và kinh tế luôn bị chao đảo; và dưới nhiều hình thức, nhiều quốc gia vẫn tiếp tục chối bỏ ánh sáng Tin Mừng. Hơn bao giờ hết, thế giới ngày nay cần chứng tá của chúng ta về Vương quyền của Chúa Kitô trên mọi thụ tạo.

Trong Thông điệp Quas Primas, gợi cho chúng ta nhớ đến lời Đức Giê-su, trước khi về trời, đã tuyên phán với các môn đệ rằng: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.” (x.Mt 26, 18). Lời tuyên phán này, có thể hiểu một cách gián tiếp rằng, “Đức Giê-su là Vua của thế giới, trị vì giữa các quốc gia”. Đức giáo hoàng Pio XI, phân tích : Sự nổi loạn của các cá nhân và quốc gia chống lại quyền bính của Đức Kitô đã tạo ra những hậu quả đáng trách… mầm mống của sự bất hòa gieo rắc khắp nơi; những thù hận cay đắng và sự kình địch giữa các quốc gia, vẫn luôn gây nhiều cản trở đến sự nghiệp hòa bình. Lòng tham vô độ thường được che giấu dưới lớp vỏ tinh thần đại chúng và lòng yêu nước, và gây ra biết bao mối bất hoà riêng rẽ; Sự ích kỷ mù quáng và thái quá, khiến con người không tìm kiếm điều gì khác ngoài sự thoải mái và lợi ích của bản thân, và đo lường mọi thứ bằng thước đo của sự ích kỷ; Thiếu sự hòa bình trong đất nước, bởi vì người dân lãng quên hoặc bỏ bê nhiệm vụ của mình; Sự hiệp nhất và bền vững của gia đình bị xói mòn; Tóm lại, xã hội, bị lung lay đến tận gốc rễ và đang trên đường hủy diệt. Tuy nhiên, chúng ta hy vọng chắc chắn rằng Lễ Chúa Kitô Vua được cử hành hàng năm, có thể đẩy nhanh sự trở lại của xã hội với Đấng Cứu độ yêu thương của chúng ta. (số 24)

Nhưng “quyền lực” của Chúa Kitô Vua hệ tại ở điều gì? Đức cố Giáo hoàng Bênêđictô XVI, trong buổi đọc Kinh Truyền tin vào ngày lễ Chúa Kitô Vua, 22 – 11 - 2009, đã giải thích:

Đó không phải là quyền lực của các vị vua chúa hoặc những người vĩ đại trên trần gian này; Đó là quyền lực thánh thiêng để ban sự sống đời đời, giải thoát khỏi sự dữ, đánh bại ách thống trị của sự chết. Đó là quyền lực của tình yêu có thể lôi kéo điều thiện từ điều ác, có thể làm tan chảy một trái tim chai đá, đem lại hòa bình giữa những xung đột gay gắt nhất và thắp lên hy vọng trong bóng tối dày đặc nhất.

Vương quốc Ân sủng này không bao giờ áp đặt nhưng luôn tôn trọng quyền tự do của chúng ta. Chúa Kitô đến “để làm chứng cho sự thật” (Ga 18, 37), như Người đã tuyên bố với Philatô: ai chấp nhận lời chứng của Người thì phục vụ dưới “ngọn cờ” của Người…. Do đó, mọi lương tâm đều phải đưa ra lựa chọn. Tôi muốn đi theo ai? Thiên Chúa hay ma quỷ? Sự thật hay sự giả dối? Việc chọn Chúa Kitô không đảm bảo thành công theo tiêu chí thế gian, nhưng đảm bảo sự bình an và niềm vui mà chỉ mình Người mới có thể ban cho chúng ta. Qua mọi thời đại, điều này được minh chứng bởi kinh nghiệm của nhiều người nam nữ, những người mà, nhân danh Chúa Kitô, nhân danh sự thật và công lý, đã có thể chống lại những cám dỗ của quyền lực trần thế bằng những chiếc mặt nạ phòng độc khác nhau, đến độ họ đã đóng ấn lòng trung thành của mình bằng sự tử đạo.

Mừng lễ Chúa Kitô Vua, chúng ta được mời gọi để một lần nữa xác tín rằng : Dù sống giữa một thế giới hơn 8 tỷ người, với sự bấp bênh trước bao cảnh đau thương của chiến tranh, hận thù, nghèo đói, thiên tai, và thế lực sự dữ tung hoành khắp nơi, chúng ta vẫn vững niềm trông cậy, vì chỉ có Chúa Giêsu là Vua. Một vị Vua không thiết lập triều đại bằng vũ khí, nhưng bằng cái chết tự hiến trên thập giá. Không cai trị bằng vũ lực, nhưng bằng tình yêu thương, phục vụ. Một vị Vua không có lãnh thổ trên bản đồ thế giới, nhưng nằm sâu trong trái tim con người mới có thể giúp cho con người tìm ra ý nghĩa, lẽ sống của đời mình, mang lại sự bình an, tự do, và hạnh phúc đích thực cho con người, dẫn dắt con người hoàn tất hành trình dương thế để đạt đến cuộc sống trên Vương quốc vĩnh cửu. mục lục

Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

Chúa Giêsu Kitô: VUA SỰ THẬT VÀ VUA TÌNH YÊU

Chúa Nhật cuối cùng của Năm Phụng Vụ hôm nay, chúng ta đặc biệt tôn vinh Chúa Giêsu Kitô là Vua Vũ Trụ. Chúa Giêsu đến như một vị Vua, nhưng không như một vị vua mặc cẩm bào vua chúa, chiếm hữu những cung điện nguy nga, và được vây quanh bởi triều đình hoàng gia. Thay vào đó, Chúa Giêsu đến như Vua của Sự Thật, giản dị và sống cùng với một nhóm người dân thường được gọi là tông đồ. Sứ mệnh của Ngài không phải là sử dụng những mưu đồ chính trị, binh hùng tướng mạnh, để chinh phục nước này nước nọ, nhưng là để Sự Thật của Thiên Chúa Cha ngự trị trong trái tim của mọi người, không chỉ người Do Thái, mà tất cả mọi người: “Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18:37). 

1. Vua Sự Thật

Hôm nay chúng ta được nghe lại một câu chuyện quan trọng trong Tin Mừng. Sau Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã không lặng lẽ trốn đi vào một sa mạc nào đó. Ngài “biết mọi việc sắp xảy đến cho mình” (Ga 18:4), nhưng Ngài vẫn: “đi ra cùng với các môn đệ, sang bên kia suối Kítrôn. Ở đó, có một thửa vườn, Ngài cùng với các môn đệ đi vào” (Ga 18: 1-2). Ngay cả “Giuđa, kẻ nộp Ngài, cũng biết nơi này, vì Ngài thường tụ họp ở đó với các môn đệ” (Ga 18:3). Chúa Giêsu bị người Do thái bắt và điệu từ nhà ông Caipha đến dinh tổng trấn Philatô (Ga 18:28). Philatô đã tra hỏi Chúa Giêsu: “Ông có phải là vua dân Do thái không?” (Ga 18:33). Câu trả lời của Chúa Giêsu rất mạnh mẽ và bí nhiệm: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này” (Ga 18:36). Bây giờ, ở đây, tại dinh Philatô, Chúa Giêsu đối mặt và trả lời những kẻ xâm lược bằng cách bộc lộ một sự thật mà không ai có thể nắm bắt được, dù Ngài biết rõ điều đó khiến tính mạng Ngài gặp nguy hiểm. Qua cuộc trao đổi giữa Chúa Giêsu và Philatô, bằng con mắt thế gian, người ta có thể dễ dàng thấy Chúa Giêsu bị đánh bại. Philatô chất vấn Ngài: “Ông có phải là vua dân Do thái không?... Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì?” (Ga 18: 33,35). Ở đây, trước kẻ thù của dân tộc, Ngài tỏ ra không có quyền năng hay thẩm quyền gì thực sự, như mấy ngày trước đây: “Đám đông dân chúng làm chứng cho Chúa Giêsu, họ là những người đã có mặt, khi Chúa Giêsu gọi anh Ladarô ra khỏi mồ và làm cho anh trỗi dậy từ cõi chết. Sở dĩ dân chúng đi đón Ngài, là vì họ nghe biết Ngài đã làm dấu lạ đó” (Ga 12: 17-18). Chắc chắn khi Chúa Giêsu đứng trước Philatô chẳng ai nghĩ Ngài là một vị vua quyền lực. Nhưng Ngài vẫn tiếp tục tuyên bố sứ mệnh lớn lao của mình: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18:37). Chiến thắng của Chúa Giêsu, vốn là điều chứng tỏ Ngài là Vua, không phải là chiến thắng “thuộc về thế gian này” vì “thật ra Nước tôi không thuộc chốn này” (Ga 18:36). Chiến thắng của Chúa Giêsu là “làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18:37). Đó là Sự Thật mà chính Chúa Giêsu đã từng nói đến trước đây: “Họ không thuộc về thế gian cũng như con đây không thuộc về thế gian. Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật. Như Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian. Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến” (Ga 17:16-19). Philatô không thể biết Sự Thật này, ông ta “nói với Chúa Giêsu: Sự thật là gì?” (Ga 18:38).

Trong thời đại của đủ các loại tin giả và nhiều sự thực bị bóp méo này, Chúa Giêsu vẫn còn long trọng tuyên bố rằng Ngài đã sinh ra và đến thế gian để làm chứng cho sự thật: “Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa” (Ga 3; 17-21). Tuy nhiên, Sự Thật này lại là điều nguy hại đối với một số người. Họ là những kẻ lạm dụng quyền lực mà họ có để đoạt lấy những quyền lợi ích kỷ cá nhân. Họ “chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa…Họ ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách.”  Vì vậy, họ đã sát hại Vua Sự Thật Giêsu để họ cảm thấy an toàn trong quyền lực của họ. Nhưng một khi Sự Thật được công bố thì không một kẻ lạm dụng quyền lực nào và không một thế lực trần gian nào có thể ngăn cản chiến thắng của Sự Thật. Ngày nay, quyền lực của Philatô ở đâu? Tham vọng vương quyền của Hêrôđê còn lại gì? Sự cai trị của Xêda và Đế chế La Mã đã đi về đâu? Tất cả đều đã biến mất. Nhưng vẫn có một Vua ngự trị trong trái tim của mọi người, nam và nữ, thuộc mọi chủng tộc, đó là Vua Giêsu, “là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14:6). 

Để là những môn đệ đích thực của Vua Giêsu, xưa cũng như nay, noi gương Chúa Kitô trong suốt cuộc đời mình không phải là việc tùy ý, là sở thích riêng. Giống như Chúa Giêsu đã nói với Philatô, “Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18:37), chúng ta cũng phải đứng về phía sự thật của Ngài, lắng nghe tiếng nói của Ngài, là “ánh sáng đã đến thế gian”, bất kể thế gian nói gì. Sự thật của Ngài nằm trong Kinh thánh, trong giáo huấn của Giáo hội Công giáo, và biểu lộ qua các chứng từ của những thánh nhân, nam và nữ, đã đi trước chúng ta. 

2. Vua Tình yêu

Søren Kierkegaard, nhà triết học và thần học người Đan Mạch, đã viết một câu chuyện có tựa đề “Nhà vua và thiếu nữ”. Câu chuyện kể về một vị vua vô cùng quyền lực yêu say đắm một cô gái trẻ xinh đẹp nhưng thuộc một gia đình thường dân. Điều mà nhà vua mong muốn nhất là được cô yêu lại. Theo thông lệ, các vị vua phải kết hôn với các công chúa hoàng tộc. Vậy, làm sao ông có thể thổ lộ tình yêu của mình dành cho một cô gái dân thường, và tin rằng tình yêu của cô dành cho ông, nếu có, là thực sự chân thành? Nếu ông ra lệnh đưa cô đến cung điện, mặc trang phục sang trọng và đội vương miện bằng những viên ngọc quý, cô khó có thể cưỡng lại! Nhưng liệu trong hoàn cảnh như vậy tình yêu của cô dành cho ông có chân thành, lâu dài và xuất phát từ trái tim của cô hay không? Dưới áp lực như vậy, tất nhiên cô sẽ nói rõ rằng cô yêu ông, nhưng cô có thực sự như vậy không? Nhà vua có rất nhiều câu hỏi… Ý tưởng chủ đạo của Kierkegaard là “Chỉ tình yêu mới có thể làm cho những kẻ không ngang hàng trở nên ngang hàng”. Để minh họa cho điều này, Kierkegaard viết rằng nhà vua quyết định hạ mình xuống ngang hàng với cô gái. Ông từ bỏ trang phục vua chúa và xuất hiện trước nàng như một người đàn ông bình thường trên phố. Với trái tim tràn đầy tình cảm, như một thường dân với một thường dân, ông đã bày tỏ tình yêu sâu đậm của mình dành cho nàng. Ông đã mạo hiểm tự mình đến gặp nàng, dù không biết liệu tình yêu của mình có được đón nhận hay không. Kierkegaard không cho biết câu chuyện kết thúc như thế nào, vì câu chuyện là một dụ ngôn về Vương quyền của Chúa Giêsu Kitô, Đấng vì yêu thương chúng ta nên đã đến trong thế gian: “Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Ngài, mà được cứu độ” (Ga 3:16). Thánh Phaolô cho chúng ta biết thêm: “Chúa Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Philíp 2:6).

Đứng trước quyền lực thế gian, và ở ranh giới giữa cái sống và cái chết, khi Philatô tuyên bố: “Ông không biết rằng tôi có quyền tha và cũng có quyền đóng đinh ông vào thập giá sao?” (Ga 19:10), Chúa Kitô vẫn dõng dạc trả lời, xác định quyền năng của Ngài: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài. Vì thế, kẻ nộp tôi cho ngài thì mắc tội nặng hơn” (Ga 19:11). Thiên Chúa Cha đã trao mọi quyền năng cho Chúa Giêsu: “Quả thật, Chúa Cha không xét xử một ai, nhưng đã ban cho người Con mọi quyền xét xử” (Ga 5:22) và Chúa Giêsu sẽ xét xử theo chuẩn mực yêu thương: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han” (Mt 25:35-36). Chúa Giêsu luôn ý thức về quyền năng và sứ mệnh tối thượng của Ngài: yêu thương nhân loại tới cùng: “Ngài vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Ngài yêu thương họ đến cùng” (Ga 13:1), đến độ “vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Philíp 2:8) để cứu chuộc họ theo ý muốn của Thiên Chúa Cha. Chính trên Ngai Tòa Thập Giá ấy Chúa Giêsu biểu lộ Ngài là Vua, Vua Tình Yêu. Hai ngàn năm nay, Chúa Giêsu vẫn là Vua Tình Yêu cai quản toàn thể nhân loại với lòng thương xót trắc ẩn, tha thứ và phục vụ, qua Giáo Hội, qua các chứng nhân Kitô hữu của mọi thời đại.  

Ngày nay, không ít người coi lòng thương xót trắc ẩn, tha thứ và phục vụ là những món hàng xa xỉ, không phải là chọn lựa để thành công về tiền bạc và khẳng định đẳng cấp xã hội. Não trạng kim tiền thực dụng đó biến xã hội con người thành những ốc đảo khép kín thiếu tình thương, với những kiểu sống vô tâm, xa vời lòng trắc ẩn, xót thương. 

Trong thời đại như vậy, chúng ta có còn cảm nhận được quyền năng yêu thương của Thiên Chúa không? Quyền năng yêu thương của Thiên Chúa được thể hiện khi những người nghèo đói, bị bỏ rơi, được chăm sóc đầy đủ, khi những người lao động, vốn phải gánh chịu vô số hình thức bóc lột, được tôn trọng và hưởng mức thu nhập công bằng mà họ đáng được, khi không còn ai bị phân biệt đối xử về giới tính, chủng tộc, văn hóa, giai tầng xã hội, tôn giáo…và được hưởng quyền bình đẳng trong xã hội. 

Một năm phụng vụ đã kết thúc và chuẩn bị bước vào một năm phụng vụ mới, cùng với bài đọc thứ hai, chúng ta “Xin Chúa Giêsu Kitô, là Thủ Lãnh mọi vương đế trần gian, ban cho chúng ta ân sủng và bình an. Ngài đã yêu mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta, làm cho chúng ta trở thành vương quốc và hàng tư tế để phụng sự Thiên Chúa là Cha của Ngài: kính dâng Ngài vinh quang và uy quyền đến muôn thuở muôn đời. Amen!” (Kh 1:5-6). mục lục

Phêrô Phạm Văn Trung

CHÚA GIÊ-SU VUA TÌNH YÊU

Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ, và cùng với toàn thể Giáo Hội chúng ta long trọng mừng lễ Chúa Ki-tô, Vua vũ trụ. Trong năm qua, chúng ta phải đối diện với bao nhiêu khó khăn, dẫn chúng ta có những ý nghĩ tiêu cực, như nghi nan, thiếu tự tin, hoang mang, lo sợ và mất bình an khiến chúng ta mất vui. Nhưng, chính thời gian này chúng ta cũng được chứng kiến bao điều kỳ diệu xẩy đến cho mỗi cá nhân, từng gia đình, cộng đoàn giáo xứ và toàn thế giới.

Từng biến cố xẩy đến trong năm qua dù vui hay buồn đều dẫn chúng ta đến cao điểm của ngày Lễ hôm nay, ngày mà theo ước nguyện, muôn dân muôn nước sẽ đầu phục, quì gối, bái lậy và tuyên xưng Đức Chúa là Vua, Chúa tể của mọi tạo vật, Chúa của mỗi cá nhân và của toàn thể nhân loại này.

Không giống như các chế độ quân chủ, sinh ra các vị lãnh đạo độc tài lạm dụng uy quyền đã xuất hiện và biến mất trên thế giới. Chúa Ki-tô Vua chúng ta, với khí cụ hy sinh, tình yêu và phục vụ, sẽ trị vì mãi mãi qua muôn thế hệ. Trong tâm tình đó, chúng ta dành thời gian nhìn lại ý nghĩa điều mà chúng ta tuyên xưng: Đức Giê-su Ki-tô là Vua, là Chúa của chúng ta.

Đâu là vương quốc của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. Thánh Gio-an, trong bài Tin Mừng hôm nay đã nhắc cho chúng ta nhớ rằng: sau khi Chúa bị bắt và trao nộp cho quan chức thời đó, và trong cuộc thẩm vấn, tổng trấn Phi-la-tô đã hỏi Người rằng: “Ông có phải là vua dân Do thái không?” Trong câu trả lời, dù Đức Giê-su đã không nói trực tiếp đến ngôi vị của Người, nhưng cũng hé mở cho Phi-la-tô và chúng ta biết về vương quyền và vương quốc của Người. Đó không phải là một thể chế thuộc về thế gian này. Và những người thuộc về thế gian này không có quyền gì trên Người. Ngay quyền bính mà quan tổng trấn Phi-la-tô đang hành xử cũng không thuộc về ông nếu Thiên Chúa không ban cho ông ta.

Quả thật, như Lời Chúa đã phán: “Nước Ta không thuộc về chốn này.” Toàn bộ cuộc đời của Chúa Giêsu chứng thực rằng Nước của Người chắc chắn không thuộc về thế giới này. Vương quyền của Chúa không phải là một cái bẫy quyền lực, uy nghi hay sự giàu có như các vua chúa trần gian ra sức dùng mọi cách để chiếm giữ và bảo vệ cho bằng được dù phải hy sinh những kẻ thuộc về họ. Đức Giê-su cũng kiên quyết loại bỏ mọi phương thức bạo lực và lạm dụng quyền bính như các vua chúa trần gian đã thực hiện.

Không giống như các cuộc lên ngôi của vua chúa trần gian, Đức Giê-su đã lên ngôi bằng cái chết trên Thập Giá, đó chính là đỉnh cao sứ vụ mà Đức Giê-su đem đến để bộc lộ tình yêu của Người dành cho toàn dân. Cái chết thảm thương của Đức Giê-su dưới bàn tay của những kẻ đô hộ khiến chúng ta không thể nào tin Người thuộc về dòng dõi của bậc đế vương, hậu duệ của vua Đa-vít. Ngoài ra, Đức Giê-su đã chết như một tội nhân thì làm sao Người có thể giải phóng Ít-ra-en ra khỏi ách nô lệ của đế quốc Rô-ma được.

Vậy Đức Giê-su là vua như thế nào?

Các tín hữu tiên khởi đã nhìn nhận và gọi Đức Giê-su là vua, là Chúa của họ và tin rằng vương quốc mà Người đã thiết lập hoàn toàn khác với các thể chế của trần gian. Đó là sự hoàn thành lời hứa của Thiên Chúa với Đa-vít. Chúa Giê-su là vua, là người lãnh đạo và duy nhất chỉ mình Người mới biết cách chỉ cho họ con đường đến và về với Chúa Cha. Đức Giê-su đã không dùng các giải pháp chính trị hay quân sự như vua Đa-vít để thống nhất đất nước, mà là tình yêu và sự chết.

Tình yêu của Vua Giê-su được diễn tả qua việc hiến dâng trên Thập Giá là đích điểm của các lời dậy bảo của Chúa, đã được chia sẻ trong các bài giảng của Người, đó là sự rộng lượng, tấm lòng quảng đại, ơn tha thứ, lòng quan tâm chăm sóc người nghèo, chữa lành bệnh tật cho kẻ bị đau ốm và kêu gọi những người tội lỗi ăn năn.

Người không chỉ ban một học thuyết, cho dù học thuyết về tình yêu; nhưng Người đã khai mở con đường yêu thương. Con đường hay lối sống yêu thương này đã xuất phát từ kinh nghiệm mà Đức Giê-su đã trải nghiệm với Cha của Người, và bất cứ ai tin và sống theo Tin Mừng của Đức Giê-su đã rao giảng đều có một trải nghiệm giống như thế.

Đây là điều khiến nhiều Kitô hữu sơ khai tin rằng Chúa Giê-su thực sự là vị vua được mong đợi từ lâu của họ. Chúa Giê-su, vua chiến thắng đã dẫn chúng ta, không đi đến một chiến thắng trần thế thoáng qua mà là vinh quang của cuộc sống vĩnh cửu.

Chúa Giê-su chết để nói lên tinh thần vâng phục của Người đối với Chúa Cha.

Đây cũng là lúc Người làm chứng cho nhân loại biết rằng Người yêu thương và tín nhiệm Cha đến dường nào. Người ta lầm tưởng là Chúa đã thua cuộc; nhưng ngược lại, qua mầu nhiệm Thập Giá, Đức Giê-su đã bộc lộ lòng tín thác tuyệt đối vào Thiên Chúa khi dám hứa ban Nước của Người cho người kẻ trộm có lòng hối cải đang chịu đóng đinh chung với Người.

Đức Giê-su đã không chịu lùi bước, Người đã chiến đấu. Và qua sự vâng phục Thiên Chúa đã siêu tôn Người. Đức Giê-su đã được Chúa Cha tôn vinh là Vua, là Chúa của muôn dân muôn nuớc. Qua tấm lòng hiếu kính và vâng phục, Người đã sửa lại những lỗi lầm để ban ơn cứu độ, không chỉ cho tên gian phi, mà cho toàn thể nhân loại, trong đó có anh, có chị và mỗi người chúng ta.

Như vậy, khi chúng ta tuyên xưng Đức Giê-su Ki-tô là Vua, là Chúa là lúc chúng ta đầu phục Người, trao cuộc sống vào tay Người. Vì thế, hãy chọn Đức Kitô là Vua, là Chúa và bước đi theo Người, vì chỉ nhờ Người, với Người và trong Người chúng ta mới tìm được sự sống viên mãn.

Muốn được như vậy, chúng ta cần tựa vào Chúa. Người chính là nguồn năng lực duy nhất giúp chúng ta tiếp tục sống và làm chứng cho thế giới nhận ra Chúa là Vua trên hết các vua, là Chúa trên hết các chúa. Amen! mục lục

Lm. Yuse Mai Văn Thịnh, DCCT

GIÊSU, ĐỨC VUA TÌNH YÊU

Cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và tổng trấn Philatô mời gọi chúng ta nhìn về vương quốc của Đức Giêsu, đức vua tình yêu. Quả thực, Ngài là vua nhưng vương quốc của Ngài không thuộc về thế gian này. “Nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18, 36). Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta biết rằng: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật.” Sự thật mà Đức Giêsu muốn nói đến ở đây là gì? Sự thật đó chính là tình yêu cao cả của một Thiên Chúa làm người, từ bỏ địa vị cao sang để mặc lấy thân nô lệ, sống như phàm nhân (x. Pl 2, 6-11). Sự thật ấy chẳng phải là một Thiên Chúa vì yêu đã chấp nhận cái chết nhục nhã trên cây thánh giá để cứu độ muôn người sao? Tất cả những ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng của vua Giêsu.

“Phần ta, ta không tìm thấy lý do nào để kết tội ông ấy” (Ga 18, 38). Dường như Philatô mới chỉ nói được một chút ít về sự thật mà ông nhận thấy: Đức Giêsu vô tội. Đức Giêsu hoàn toàn vô tội. Đó là sự thật. Nhưng còn có một sự thật lớn lao hơn thế nữa mà Philatô đã chưa thể nhận ra: đó là Đức Giêsu hoàn toàn tự nguyện hiến mạng sống mình trên thánh giá để cứu chuộc loài người. Trên thánh giá, Ngài đã chết vì yêu. Nhân loại hôm qua, hôm nay và mai này vẫn còn đó những con người cứng lòng không chịu tin nhận sự thật ấy. Tình yêu của Thiên Chúa qua Đức Giêsu dành hết cho nhân loại. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3, 16-17).

Đức Giêsu, vua tình yêu vẫn ngày ngày ở bên chúng ta như lời đã hứa: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Người vẫn tiếp tục trao ban tình yêu ấy cho nhân loại, đặc biệt là qua bí tích Thánh Thể. Vua trần gian chỉ trị vì trong một thời gian và dùng quyền mà cai quản, thống trị. Vua Giêsu trao ban tình yêu của mình cho nhân loại, vương quyền và triều đại của Người vô cùng vô tận. Bởi đó, “khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giê-su Kitô là Chúa” (Pl 2, 10-11). Vậy chúng ta có đang đón nhận tình yêu của Ngài và sống trong vương quốc của Ngài hay không?

“Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18,37). Thiết nghĩ đó là cách để chúng ta có thể ở trong vương quốc của Ngài. Tiếng của Thiên Chúa được nói trong sự thật. Sự thật lớn lao nhất đó là Thiên Chúa qua Đức Giêsu đã trao ban hết thảy tình yêu của Ngài cho nhân loại. Chúng ta có thể hiểu, đứng về phía sự thật nghĩa là đón nhận tình yêu của Thiên Chúa đã trao ban, tin nhận Đức Giêsu là Chúa và sống theo mọi giới răn của Người. Khi tin tưởng và đón nhận tình yêu cao cả của vua Giêsu, chúng ta được mời gọi diễn tả, hay nói cách khác là thông chuyển tình yêu ấy đến với mọi người. Đứng về phía sự thật là yêu thương như Đấng là Sự Thật.

Lạy Chúa! Chúng con cảm tạ Chúa vì tình yêu lớn lao Chúa dành cho chúng con. Xin cho chúng con ngày ngày biết tìm đến ẩn thân bên Đức Vua tình yêu là Chúa Giêsu Kitô, Con Một yêu dấu của Ngài. Xin Chúa giúp chúng con biết sống giới răn yêu thương như Chúa mời gọi. Amen. mục lục

Thiên San

SỰ THẬT VÀ VƯƠNG QUYỀN

Trong ngôn ngữ Tây phương, có một trò chơi trí tuệ gọi là “từ đảo chữ” (anagram, anagramme). Trong trò chơi này, người ta xáo các mẫu tự của một từ hay một cụm từ rồi sắp lại thành một từ hay một cụm từ khác có ý nghĩa. Nếu từ hay cụm từ mới này có ý nghĩa tương ứng với từ hay cụm từ cũ thì càng tuyệt. Người ta được biết có hai trường hợp đảo chữ rất thời danh. Trước hết là cụm từ “French revolution” (Cách mạng Pháp). Nó đã được xáo lại thành “Violence, run forth” (Hỡi bạo lực, hãy tung hoành!) Ai từng biết toàn bộ cuộc đại biến kể từ năm 1789 này, cuộc đại biến đã dìm toàn thể nước Pháp trong máu lửa thì mới thấy tất cả ý vị của từ mới sáng tạo do đảo chữ. Trường hợp thứ hai là cụm từ “Quid est veritas?” (tiếng La-tinh: Sự thật là gì? Câu Phi-la-tô hỏi Đức Giê-su ở Ga 18,38 ngay sau đoạn Tin Mừng hôm nay). Nó đã được xáo lại thành “Est vir qui adest” (Là người đang đứng [đang có mặt] đây!) Quả là ý vị phải không các bạn?

Vương Quyền Trong Dạng Nghịch Lý

Câu hỏi đó của Phi-la-tô cũng như câu trả lời của Đức Giê-su chính là trọng tâm của bài Tin Mừng ta đang suy niệm. Bài Tin Mừng này nằm trong một trình thuật dài mô tả lại cuộc Thương khó (hay cuộc Khổ nạn) của Đức Giê-su.

Được nhìn với đôi mắt của Gio-an, cuộc Thương khó ấy là một trận chiến Đức Giê-su tung ra với tất cả uy quyền. Nhìn bên ngoài, Người như thể là một nạn nhân, một tội nhân, một bị cáo. Thế nhưng Người thật sự làm chủ các biến cố và ngay cả “lèo lái” các nhân vật khác quanh mình. Bị trói, bị vả, bị đóng đinh, Người vẫn chế ngự các quan tòa và các đao phủ, duy trì sáng kiến cho tới phút chót: “Người nói: ‘Thế là đã hoàn tất!’ Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí” (Ga 19,30). 

Cho chúng ta, những kẻ đến dưới chân thập giá, Người đặt cùng câu hỏi đã đặt cho toán lính tới bắt mình: “Các anh tìm ai?” (18,4) Không phải tìm một con người đáng thương nhưng là một Cứu Chúa mạnh mẽ, “biết” tới cùng những gì mình đã chấp nhận.

Chúng ta sắp nghe ba lần từ “biết” ấy, biết trong ý thức sáng suốt và tự do hoàn toàn. Trước đó, cuộc Khổ nạn mở màn với một cái nhìn quả quyết về cuộc vượt qua đầy gian khổ: “Biết đã đến giờ Người phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha, nhưng vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, Đức Giê-su yêu thương họ cho đến cùng” (Ga 13,1). Khi mọi sự sắp diễn ra, thì chính Người đặt và sẽ không ngừng đặt các câu hỏi: “Biết mọi việc sắp xảy đến cho mình, Người tiến ra và hỏi: các anh tìm ai?” (Ga 18,4). Trong giây phút cuối cùng, Người vẫn giữ sự sáng suốt tích cực đó: “Biết là mọi sự đã hoàn tất và để ứng nghiệm lời Kinh Thánh, Người nói: Tôi khát” (Ga 19,28).

Ngay từ cuộc đụng độ ban đầu, phong cách của Đức Giê-su đã được xác định: ba lần câu “Chính tôi đây!” (Ga 18,5.6.8) thực sự là một cuộc thần hiển: “Họ lùi lại và ngã xuống đất.” Và khi Đức Giê-su mạnh mẽ lấy lại hình ảnh chén đắng: “Chén mà Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống?” ta không thể không nghĩ đến con người ủ rũ và cầu khẩn tại vườn Ghết-sê-ma-ni: “Lạy Cha, xin cất chén này xa con!” (Lc 22,42). Nhưng thay vì là một mâu thuẫn, có thể coi đó như một sự tiến triển nên gương mẫu và gieo hy vọng cho chúng ta: không xấu hổ vì đã cảm thấy bị đè bẹp, trái lại luôn biết xin chính sức mạnh của Đấng Cứu Thế để vác thập giá của mình tốt hơn.

Và cũng với sự tự chủ như vậy, Đức Giê-su đã lợi dụng các câu hỏi của thượng tế để mô tả sứ mạng căn bản của mình là làm Đấng Mạc khải: “Tôi đã nói, đã giảng dạy ở những nơi thiên hạ giảng dạy. Điều tôi đã nói, xin cứ hỏi những người đã nghe tôi!” (Ga 18,20-21). Cái tát của tên cận vệ tượng trưng thái độ phũ phàng từ khước Mạc khải này, nhưng ở đây cũng thế, Đức Giê-su vẫn là người điều khiển tất cả: “Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?” (18,23). Chính Sự Thật tối cao đang phán xét nơi đây mọi kiểu hung hăng mà chúng ta vẫn bày tỏ khi bị một sự thật quấy rầy. Suốt cuộc Khổ nạn này, Đức Giêsu-Sự Thật chất vấn chúng ta.

Sự Thật Đảo Ngược Các Vai Trò

Và nhất là trong cảnh tượng vương quyền thuần túy và cao cả của Sự thật đảo ngược các vai trò. Phi-la-tô chỉ là một con rối thảm hại trước bị cáo quá vĩ đại như vậy: “Nhưng ông là ai? Ông thật là vua sao? Ông từ đâu đến?” (x. 18,37; 19,9).

Đó là nơi Gio-an đã muốn đặt chúng ta ngay từ đầu trình thuật Khổ nạn của ông: trước câu hỏi về các nguồn gốc: “Ông từ đâu đến?” (19,9). Một con người sắp chết trên thập giá. Nhưng ai chết? Làm sao con người ấy lại có thể làm chủ đến mức đó cái chết của mình và làm chủ mọi quyền lực mà Người chỉ cần dùng một từ là “Sự thật” thì đủ quét sạch? Các quyền bính tôn giáo, đám đông cuồng loạn, đế quốc Rô-ma, chẳng có chi đứng vững trước lời khẳng định bình thản: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Vương quyền của tôi là thế” (18,37).

Việc đi từ sự thật sang vương quyền này gây chưng hửng, nhưng Sự thật ở đây, chính là những gì loài người có thể biết về Thiên Chúa và về thân phận nhân loại. Ai có quyền trên sự thật này là kẻ mạnh nhất. Người đó là Vua trên hết các vua, là Chúa ở tận đáy các tâm hồn.

Đức Giê-su có quyền trên Sự thật “sinh tử” này. Người đã đến để làm chứng, nghĩa là mạc khải, xác nhận rằng Thiên Chúa yêu thương ta và cho thấy rằng tất cả đổi thay ngay khi ta đi vào trong ánh sáng ấy. Nói cách khác, “Thiên Chúa là Tình Yêu” chính là Sự thật bao trùm mọi sự thật. Và Đức Giê-su không chỉ là kẻ nói sự thật, mà còn là sự thật, vì chính Người là bằng chứng sống động của tình yêu Thiên Chúa, là chính tình yêu ấy đã hóa nên hữu hình. Ai biết chiêm ngưỡng Đức Giê-su sẽ hiểu được tất cả: Thiên Chúa yêu thương chúng ta thế nào và làm sao chúng ta phải bước đi trong ánh mặt trời đó, nghĩa là sống thật: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống của anh em” (Ga 14,6).

Và “ai thuộc về sự thật thì nghe tiếng tôi.” Thuộc sự thật là gì? Đó là sẵn sàng đón tiếp thực tại thần linh mà Đức Giê-su đem đến cho loài người. Trong thực tế chúng ta hôm nay, điều này hệ tại thành thật đối với Thiên Chúa, Đấng phán bảo qua Thánh Kinh và Giáo Hội, sống phù hợp với những gì Thiên Chúa mạc khải cho và theo Đức Giê-su mà ta gặp thấy trong Tin Mừng, trong Giáo Hội, trong các nhiệm tích, trong anh chị em; hệ tại việc làm chứng cho sự thật về Thiên Chúa và sự thật về con người cách bất khuất, can đảm trong một xã hội đang gieo rắc những điều dối trá, đang bịt miệng những ai nói thẳng, đang tuyên truyền lắm lý thuyết sai lạc, đang chà đạp những giá trị thiêng liêng và nhân bản. Vương quyền của Đức Giê-su không giống chút nào với cách thống trị của nhân thế, nhưng nó trở nên hữu hiệu khi con người cá nhân và tập thể, trong cuộc sống thực sự, hiểu rằng mình đến từ Thiên Chúa và đi về cùng Thiên Chúa, cho nên hết sức ra công để nhân loại nhận biết sự thật nhờ những nét đẹp nhất của khuôn mặt nó, là những nét của Tình Yêu. 

Phải chăng đây là một suy niệm về cuộc Thương Khó? Vâng, một suy niệm kiểu Gio-an. Tất cả đã là sự thật trong cuộc sống Đức Giê-su, tất cả đang là sự thật trong cái chết của Người, tất cả là sự thật cho chúng ta. Cho dẫu nhiều chuyện vẫn còn ẩn giấu đối với chúng ta về cái chết ấy, chúng ta chắc chắn rằng cái chết ấy cứu chúng ta, trong toàn bộ cũng như trong từng chi tiết của nó. Việc chiêm ngắm nó sẽ không bao giờ cạn kiệt. Chính sự thật ấy giải cứu chúng ta, vì ở đấy, tất cả đều là tình yêu, như người ta từng nói: “Tất cả đều là ân sủng”. mục lục

Lm. Phêrô Phan Văn Lợi

ĐỨC GIÊSU KITÔ VUA VŨ TRỤ

Toàn dân hỡi! Vang tung hô vạn tuế
Khắp đất trời muôn thế hệ vinh danh
Đức Kitô, Ngôi Thánh Tử cao quang
Yêu nhân thế gánh mang muôn lỗi tội.
Treo Thập Giá khai nguồn ơn cứu rỗi
Thánh Tâm Người tuôn giòng máu xót thương
Mở toang lòng cho nhân thế náu nương
Trút hơi thở vẫn thiết tha: “Ta khát!“
Khát nhân loại bao tháng năm lầm lạc
Sống ơ thờ đời vô cảm giá băng
Trong buông tuồng đêm sa đắm tối tăm
Ban Thần Khí, Lời Tin Mừng soi dẫn.
Lời Sự Thật, Lời là Đường tươi sáng
Hướng thế nhân sống nhân ái công bình
Thắp tin yêu, Chân Thiện Mỹ quang minh
Luôn thành sự, khắp đất trời, Thiên Ý.
Vạn vạn tuế! Đức Ky Tô hiển trị
Vua Thái Bình, Đấng vinh dự uy quyền
Triều đại Người mãi vĩnh cửu thiên niên
Mọi vua chúa phải bái thờ quy phục.
Người siêu việt trên muôn dân muôn nước
Vinh quang Người vượt cao thẳm cửu trùng
Đã đoái nhìn, thương nhân thế lao lung
Người quy tụ, mọi sắc dân ngôn ngữ.
Thành vương quốc duy nhất luôn tế tự
Kính tôn Người, Thiên Chúa của chúng con
Mãi thiên thu lòng thành tín sắt son
Phúc viên mãn cõi vĩnh hằng Thiên Quốc.
Vạn vạn tuế! Khắp đất trời vinh chúc
Vua Vũ Trụ, Chúa muôn chúa muôn vua. mục lục

Anna Têrêsa Thùy Linh

VUA GIỮA NHỮNG CUỒNG NỘ

Ngay tại tòa án của chính mình, Philatô hỏi Chúa Giêsu: “Ông là vua sao?”. Còn Chúa Giêsu, người đang bị bắt, bị đưa đến từ hết tòa án của thượng hội đồng Dothái đến tòa án Philatô, và bây giờ đang bị chính Philatô thẩm vấn. Sau những màn gọi là "thẩm vấn" ấy, Philatô sẽ luận tội, sẽ ra phán quyết bằng một bản án và áp đặt bản án ấy lên Chúa.

Giữa tình cảnh đen tối và hết cách "chạy trốn" ấy, Chúa Giêsu có quyền tự bảo vệ. Chúa có thể chối từ vương vị "Vua" mà Philatô vừa hỏi. Chúa cũng có thể "dàn xếp" để đi đến thỏa hiệp với Philatô nhằm thoát án của ông ta.

Nhưng Chúa Giêsu không chạy trốn chân lý, công lý và quyền năng từ trời mà mình vinh dự lãnh nhận từ Chúa Cha. Chúa khẳng khái trả lời: "Ta là vua". Không những trực tiếp và mạnh mẽ khẳng định, Chúa Giêsu còn có đến hai lần giải thích: 

- "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Dothái, nhưng mà nước tôi không thuộc chốn này".

- "Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Tôi".

Bằng hai câu trả lời dứt khoát, rõ ràng và khẳng khái, Chúa Giêsu cho biết: Chúa không làm vua theo cách nghĩ của thế gian: Quyền uy đến nỗi "hô mưa gọi gió", áo mũ xênh xang, bắt thần dân phải chết hay cho sống mới được sống... 

Chúa không đến để thống trị nhưng để phục vụ. Chúa không đến để ra oai như chỉ có mình là sức mạnh tuyệt đối. Chúa mang lấy thánh giá để đồng phận với người đau khổ, người bị loại trừ, người cô đơn, mất mát... 

Chúa mặc lấy sự trần trụi trên thánh giá để nên một với người bị tước mất quyền làm người, quyền được sống, quyền có giá trị và nhân phẩm như một con người giữa những con người...

Chúa là Vua không như những loại vua trần thế: thủ lợi, ích kỷ, vun quén, quyền hành, danh vọng, tiếng tăm, giàu sang, hưởng thụ... cho bản thân. Ngược lại, chính trên thánh giá mà Chúa làm Vua. Hàng chữ ghi trên đỉnh thánh giá xác định một người chết thê thảm ấy là "Vua", nói lên quyền làm Vua, đồng thời rao báo cho mọi người ở mọi thời sự chọn lựa làm Vua của Chúa. 

Chúa làm Vua nhưng là Vua cho những người khác, vì người khác. Chúa là Vua khi đối diện với tòa án Philatô. Chúa là Vua giữa lúc đám đông cuồng nộ chống lại Chúa, một mực đòi giết Chúa. Chúa là Vua đang khi bị tước sạch nhân phẩm, giá trị làm người, sự sống, mạng sống, quyền được sống, quyền tự biện hộ mình, quyền có tiếng nói...

Chúa là Vua trong thế gian nhưng không theo và không thuộc về thế gian, nhưng là Vua theo thánh ý Thiên Chúa, thuộc về trời cao và chỉ nhằm đưa dẫn mọi người vào sự sống trong Nước Thiên Chúa.

Vương quyền của Chúa Giêsu đến từ Thiên Chúa nhằm gánh lấy tội lỗi của thế gian, giải thoát con người khỏi tội lỗi và sự chết. Nói đúng hơn, Chúa Kitô làm Vua chẳng phải là cai trị, nhưng trở thành Nguồn Yêu Thương rót đầy nơi chúng ta và nơi cả thế giới này lòng yêu thương chan chứa, để mãi muôn đời ta có Chúa, có đầy dư hạnh phúc, có sự sống vĩnh cửu và sung mãn tràn ngập.

Còn chúng ta, một khi tùng phục vương quyền của Chúa Giêsu, chúng ta không mất mát, không bao giờ bị thiệt thòi, không bao giờ giảm sút giá trị, nhưng sẽ càng phong phú, càng giàu có, càng mạnh mẽ, càng sung mãn tình yêu, sự sống và sức sống.

Bởi khi theo Chúa, Chúa giải thoát chúng ta khỏi mọi tối tăm, khỏi cảnh nô lệ tội lỗi, khỏi muôn điều ác hại. Chúa giải thoát và trao cho chúng ta mọi ân ban của tự do đích thực. Vì dù đứng trên đỉnh mọi quyền lực, Vương quyền của Chúa không áp bức chúng ta. 

Chúa không muốn chúng ta theo Chúa như một bầy nô lệ, không cho phép chúng ta phụng sự Chúa như những kẻ thấp hèn không giá trị, không nhân phẩm. Nhưng chúng ta là con Thiên Chúa, đồng phận với chính Chúa, đồng chia sẻ gia nghiệp trong nhà Thiên Chúa với Chúa.

Vậy chúng ta không chỉ nhìn nhận vương quyền của Chúa Giêsu, không chỉ đi theo Chúa Giêsu, nhưng hãy trung thành với Ngài qua tất cả mọi thời gian sống của chúng ta.

Hãy để cho Vua Giêsu chiếm trọn tất cả con người, từ tư tưởng lời nói cho đến việc làm. 

Hãy nhìn lên thánh giá và thưa với Chúa bằng chính lời cầu nguyện của người trộm năm xưa: "Lạy Chúa Giêsu, xin nhớ đến con khi Chúa vào vương quốc của Chúa". 

Bất cứ khi nào, thấy mình yếu đuối, thấy mình chỉ là tội nhân, thấy mình bị cám dỗ đè bẹp..., hãy cầu xin Chúa: "Xin đừng quên con. Xin dẫn con vào Vương quốc của Chúa". mục lục

Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng

 

SỰ THẬT LÀ GÌ?

Vào Chúa Nhật cuối cùng của năm Phụng vụ, lễ suy tôn Chúa Kitô là Vua vũ trụ, Giáo hội cho chúng ta nghe trích đọc bài Tin mừng tường thuật cuộc đối đáp ngắn giữa Chúa Giêsu và quan Philatô. Khi nghe Chúa Giêsu khẳng định rõ ràng: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”, Philatô đã hỏi lại: “Sự thật là gì?” (x. Ga 18,37-38). Tin mừng không tường thuật câu trả lời của Chúa Giêsu mà ngưng ở đó. Sự thật là gì? Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau về sự thật nhưng vẫn có nét tương đồng căn bản. Sự thật là sự tương hợp hay sự đồng nhất giữa nội dung với hình thức, giữa cái bên trong và cái bên ngoài. Trên bình diện hữu thể thì sự thật là sự đồng nhất giữa thực tại với cái biểu hiện và sự thật chính là sự duy nhất, bất biến và thường tồn của thực tại.

1. Sự thật về Đức Kitô:

Theo viễn kiến này thì duy chỉ có Thiên Chúa là sự thật đúng nghĩa. Người không chỉ là “Đấng có sao, có vậy” (x. Xh 3,14) mà người còn là Đấng là An-Pha và Omêga nghĩa là có từ nguyên thủy và tồn tại đến vạn đại thiên thu (x.Kh 1,8). Chúa Kitô đã từng khẳng định Người là sự thật (x. Ga 14,6). Người là Đấng có sao, có vậy, là nguyên thủy và là cùng đích (x. Ga 8,24; 27; 57). Khi nói với Philatô rằng mình đến thế gian là để làm chứng cho sự thật thì Chúa Kitô muốn minh chứng rằng chính Người là căn nguyên và cùng đích của mọi hiện hữu.

Vũ trụ vạn vật và con người bởi đâu mà ra và rồi sẽ đi về đâu, một câu hỏi đã trở thành vấn nạn khó giải cho nhiều học giả, nhiều triết gia…mọi thời, nay đã có câu trả lời. Các hiện hữu ở đời này, sự hiện hữu của chúng ta trong cõi đời này có nguồn gốc và đích đến là chính Chúa Kitô. Đây chính là một nội hàm của chân lý Chúa Kitô là Vua vũ trụ mà Giáo Hội long trọng tuyên xưng vào Chúa Nhật cuối cùng của năm Phụng vụ. Tuyên xưng Chúa Kitô là vua có nghĩa là tuyên xưng sự lệ thuộc, sự suy phục của mình vào Chúa Kitô. Vì tất cả mọi loài mọi vật “đều do Thiên Chúa tạo dựng, nhờ Người và cho Người” (Cl 1,16).

2. Sự thật về con người:

Được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa (x. St 1,27), con người cũng là sự thật khi nên một với Chúa Kitô. Đấng là hình ảnh Thiên Chúa vô hình khi vào trần gian đã tự xưng là Con Người. Thánh Tông đồ dân ngoại đã mạnh mẽ khẳng định chân lý này: “Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo, vì trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng duới đất hữu hình với vô hình” (Cl 1,15). Vì là sự thật nên con người phải được yêu quý và tôn trọng cũng như bảo vệ. Dù là một bệnh nhân, dù là một người nghèo khổ, một người thấp cổ, bé phận, dù là một bào thai dị tật… tất thảy đều đáng phải được kính trọng, yêu mến và bảo vệ hơn tất cả những thể chế, luật lệ, nghi thức hay truyền thống… “Ngày Sabat có ra là vì con người, chứ không phải con người có ra là vì ngày Sabat” (Mc 2,27).

Là loài thọ tạo có vẻ mỏng manh và đầy yếu đuối nhưng con người lại được Thiên Chúa đặt lên làm chủ tể mọi loài trên trời dưới đất (x. St 1,26). Con người là chi mà Chúa nhớ đến, loài người là gì mà Ngài phải bận tâm? (Tv 8,5). Tất cả chỉ vì Thiên Chúa đã đoái nhận loài người làm dưỡng tử trong Con Một dấu yêu của Người là Đức Giêsu Kitô (x. Ep 1,5). Mặc dù có điểm khởi đầu, có kinh qua cánh cửa sự chết, nhưng hiện hữu của con người là bất tận, vì “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết nhưng là của kẻ sống” (Mt 22,32).

3. Sự thật về hạnh phúc:

Con người đã được dựng nên là tồn tại mãi mãi. Thế nhưng số phận đời đời của mỗi người là được hạnh phúc viên mãn hay phải trầm luân vĩnh viễn còn tùy thái độ sống của mỗi người khi còn tại thế. Con người chỉ có hạnh phúc đích thật khi là chính mình như thuở ban đầu cuộc sáng tạo đó là trở nên hình ảnh của Thiên Chúa. Chúng ta thực sự là chính mình khi nên một với Đức Kitô, làm môn đệ của Người. Và Chúa Kitô đã khẳng định khi chúng ta yêu mến nhau như Người đã yêu mến chúng ta thì chúng ta sẽ ở trong tình yêu của Người và đích thực là môn đệ của Người (x. Ga 13,35; 14,9-11).

Chính con tim, tấm lòng của chúng ta dành cho tha nhân, nhất là cho những người bé mọn sẽ quyết định về số phận đời đời của chúng ta (x. Mt 25,31-46). Thánh Gioan Tông Đồ đã nói: “Ai yêu thương thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa vì Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4,7-8).

Năm Phụng Vụ sắp kết thúc nhắc nhủ cho chúng ta sự thật này: cái chung cục mới thật quan trọng. Đảm nhận chức vụ này hay ở địa vị kia, sống bậc sống này hay bậc sống nọ, tất thảy đều hướng đến mục đích cuối cùng là được cứu độ, được hạnh phúc viên mãn. Để có hạnh phúc thật, chắc chắn phải đón nhận Sự Thật là Đức Kitô, vì không một ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Người (x. Ga 14,6). Và dưới gầm trời này chỉ có một Danh mang ơn cứu độ là Giêsu Kitô. Khi đã đón nhận sự thật là Chúa Kitô thì chúng ta cũng sẽ biết được sự thật về con người cũng như con đường để đạt được hạnh phúc muôn đời. mục lục

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột

 lúc sương mù, ai thở để sương tan.”

(Dẫn từ thơ Nguyên Sa)

Mắt rực sáng, là ánh nhìn của Đức Chúa, Vua vũ trụ. Vua, là tước hiệu mà thánh sử đã gọi Chúa, như trình thuật hôm nay còn dẫn chứng.

Trình thuật hôm nay, kể về Vua Vũ trụ, một danh xưng bị người đời phản bác, khó chấp nhận. Thời của Chúa cũng thế, danh xưng này cũng bị mọi người nghịch chống, cũng không kém. Bởi, chính Đức Kitô cũng chưa đạt thành tựu với danh xưng này. Ngài tuy đã chữa lành rất nhiều người, nhưng những người được Ngài chữa, sau này cũng lại ốm đau, âu sầu đến nỗi chết.

Ngài vực cho Lazarô trỗi dậy từ cõi chết, nhưng sau đó, chính ông cũng chết và được an táng. Xác phàm của ông cũng rữa tan, như mọi người. Đức Kitô nuôi sống hằng hà sa số những người đi theo Ngài, bằng những cá và bánh. Nhưng, ăn no rồi, chúng dân sau đó lại cũng đói, chẳng còn cá và bánh hoặc thứ gì để hôm sau còn ăn. Chúa xua đuổi người buôn tiền khỏi đền thờ, nhưng sau đó, họ cũng trở về chứng nào vẫn tật nấy.

Dù sao đi nữa, Chúa đã có cơ hội thực hiện kế hoạch cứu độ Cha giao, ngày Lễ Lá. Cưỡi lừa vào thành thánh của vua quan người phàm, Ngài được quần chúng tuyên dương chúc tụng như Vua cha để biến đổi trần thế. Lễ Vượt Qua hôm ấy, ra như có cuộc nổi dậy đòi dân chủ, rất lớn lao. Ngài đạt số lượng người theo chân sủng ái. Đạt, cả tính chất thực thi uy quyền do Ngài tạo. Lịch sử Ngài làm, cũng sáng rực mười phương nếu Ngài chấp nhận quyền uy phàm trần, do con người đề xuất để trị vì Giêrusalem, Giuđêa và Galilê nữa. Nếu chấp nhận, Ngài sẽ được coi như Vua Do thái.

Tuy thế, Ngài vẫn khước từ mọi thứ do người phàm đề nghị; để rồi, thần dân Do thái lại trở mặt bắt giữ, kết tội rồi còn ra án, hành hình và đóng đinh Ngài vào thập giá như tội phạm. Tổng trấn Philatô là người có tiếng nói cuối cùng để tha tội hoặc ra lệnh đóng đinh Ngài vào thập tự. Chính Chúa đã cam kết với đám quân binh rằng: Ngài là kẻ mà họ kiếm tìm để đưa ra toà. Và, trước mặt Thượng tế cùng chúng dân, Ngài chẳng hề run sợ, cũng chẳng giấu diếm hành tung Ngài xử sự như khi trước. Không chống tội. Chẳng biện bạch. Ngài giáp mặt quyền lực trong tư thế đồng đều, và  hơn cả vua quan lãnh chúa ở trần gian nữa.

Nhìn kỷ lục Ngài đạt về mọi địa hạt, thì Vua vũ trụ còn hơn vua quan lãnh chúa cũng rất nhiều.

Về sức khoẻ, Ngài cổ võ chế độ ăn kiêng có qui củ. Khuyến khích mọi người luyện tập đều đặn bằng động thái quân bình, rất đúng cách. Ngài thường xuyên thăm viếng các bệnh nhân hiểm nghèo và khuyên mọi người trị thuốc, ăn kiêng chứ đừng chờ phép lạ.

Về sự sống, Ngài hứa hẹn một cuộc sống không đớn đau, nhưng sẽ vui sống suốt đời. Và tuổi thọ của người biết lắng nghe và giữ Lời Ngài, không kéo dài như người đời vẫn tự hào, nhưng tuyệt đối không thua kém chất lượng hoặc phải ngồi xe lăn, để sự chết đem đến nhiều doạ dẫm.

Về sự thật, Ngài minh định mọi sự sẽ được đưa lên mái nhà, để mọi người còn biết. Thành ra, các dữ kiện, nhu cầu cùng tranh luận có bằng chứng và xác suất để thắng mọi cuộc tranh tụng trước toà mà chẳng ngại ngần sợ gì nhóm đối lập vẫn cãi tranh. Nhưng ngày nay, người người vẫn cần ý kiến lẫn lời tư vấn từ những người mệnh danh là cố vấn mọi sự mà chẳng có gì bảo đảm mình có thể thắng kiện.

Thành thử, trong mọi chuyện vẫn luôn cần sự thật, và lặng thinh vẫn không hẳn là tình đã thuận. Về công bằng, Ngài vẫn muốn mọi người được san sẻ đồng đều dù không chắc. Không chắc rằng mình có thể tiến về phiá trước hoặc sẽ tụt lại phía đằng sau. Hoặc, cả những người vận động tiền bạc hoặc tìm cách sắp xếp để được phục vụ. Nhưng Chúa lại vẫn khác. Ngài chủ trương công bằng chính trực theo nghĩa: cứ cho hết những gì mình có, dù kết cuộc có thể dẫn mình về chốn nghèo nàn/tồi tệ, trong khi người khôn lanh lại cứ trổi vượt để giành phần nổi bật và dìm người xấu số xuống vực sâu.

Về lịch sử, Ngài thay đổi cả lịch sử, như ta biết. Lịch sử Ngài đem đến, là biết xây dựng công lý, tự do và an bình cho mọi người, dù phải hy sinh. Dù, người khác vẫn hưởng lợi ngay trước mũi. Dù, thấy mình thất bại hoặc trở thành nạn nhân với đôi chân trần, bẩn nhơ, bại trận.

Về quyền lực, Người không mấy thích thú với quyền bính thế trần có quyền sinh quyền sát quyết cho ai ở tù, ai tự do. Người no đủ, người ốm o, thiếu thốn. Ai bị hành quyết, ai được tuyên dương. Ngài vẫn chủ trương yêu thương, chữa lành mà không quyền bính thế trần nào dám đem đến cho mọi người, để tất cả lại ra sẽ đi trong tự do ngõ hầu sinh sống có phúc hạnh, mừng vui, êm ấm.

Về tư cách của vua quan/lãnh chúa, Đức Kitô Vua vẫn muốn mọi người vui hưởng sức khoẻ, tự do, có công lý và sự thật, rất lịch sử. Có quyền bính tư riêng để mình có thể tự định đoạt cho cuộc đời của mình theo cung cách Chúa từng dạy. Vua Vũ trụ, nay chủ trương khác với vua quan ở đời về mọi sự.

Chủ trương của Ngài, luôn đặt nặng phần san sẻ tình thương-yêu, giùm giúp hết mọi người, chứ không chỉ vun xới quyền bính thu về chỉ một người, dù người ấy có tài ba/lỗi lạc cũng thế thôi. Rõ ràng là, chính trị cũng như ý-thức hệ của Ngài, khác những gì vua quan ở đời chủ trương. Ý thức hệ và chính trị của Vua Vũ trụ lại chỉ đặt nặng vào thực tại cuộc sống đích thực, như Ngài vẫn thực hành.

Sự thực mà Vua Vũ trụ tặng cho mọi người lại là chính Ngài. Vua Cha đích thực chẳng cần vương trượng, hoặc triều thiên vàng ánh những kim cương. Sự thực mà Vua Cha đặt nơi Ngài, chỉ gồm mỗi triều thiên gai, gậy gỗ, long bào cũng chỉ mỗi áo thụng sắc mầu tím ngắt/sầu buồn, nhiều bách hại. Chứ nào mũ áo, long bào lóng lánh vàng bạc hoặc trân châu đắt giá.

Đọc tiểu sử của Chúa, người người thấy Ngài chẳng giống vua quan lãnh chúa ở đời. Vẫn lạ thường, nghịch lý, nhưng lại theo cung cách rất mới mẻ. Cung cách của bậc vua cha cả trời đất rất vũ trụ chỉ đem lại lối sống rất mới mẻ, mà thôi. Ngài là Vua Cha theo cung cách rất mới. Cung cách của các đấng cam chịu khổ ải, bức bách, chứ không đòi tên tuổi, danh xưng, lẫn tiếng tăm.

Danh xưng làm Vua Do thái, như người La Mã đã ban cho Hêrôđê, vào thời đó. Trong khi đó, vua quan phàm trần như Hêrôđê lại chỉ biết xây đền đài hầu thờ bái thần linh rất phàm trần. Đền thờ của vua quan trần thế, là chốn đông lạnh nhằm chôn cất đấng bậc trên cao rồi tôn làm hoàng đế, để rồi sẽ đưa lên bàn thờ mà sùng bái. Chốn bái thờ lạnh tanh ấy, là câu lạc bộ đủ mọi thú vui để hưởng lạc có vườn rộng, đồi cao. Có cả sân khấu để vui chơi, cộng với sảnh đường nghênh tiếp bậc vĩ nhân, hoặc đấng bậc vị vọng chốn quan quyền.

Đức Giêsu Kitô là Vua Cha, lại rất khác. Ngài cũng ở chốn cao sang, nhưng là đồi Calvary giống hệt hộp sọ, được thuê từ kẻ vô danh tiểu tốt, chốn hành hình. Núi “Sọ” Ngài trị vì khi sống đã chẳng rềnh rang, lúc chết lại cũng âm thầm, thật bạc bẽo. Vua quan ngoài đời khi chết còn có quan tài dát vàng chạm trổ đặt ở trên bệ để mọi người xì sụp cúng kiến. Vua Cha Vũ trụ chẳng có đến áo quan, vẫn trơ trụi treo mình trên thập giá, ở rất xa đền đài vua quan, nhiều khoảng cách.

Tuy là thế, duy nhất chỉ một vị vua mới có khả năng trỗi dậy từ cõi chết. Vị vua đó, không là vua quan chốn phàm trần, hoặc ai đó. Chỉ mỗi Vua Cha cả vũ trụ, tuyệt đối không giống vua quan phàm trần, ở điểm: khi sống, Ngài không có chốn gối đầu; và lúc chết, Ngài cũng chẳng có quan tài tử tế để chôn cất. Nhưng Ngài ngự trị cùng khắp vũ trụ và ở lòng người. Vũ trụ của Đức Kitô Vua, nay ngự trị mãi chốn vĩnh hằng, chẳng ai sánh tày, ganh đua, giành giựt.

Hiểu rõ tình của Vua Cha là như thế rồi, ta lại sẽ hát lên lời ca vang còn đó rất thi tứ:

                        “Đôi mắt sáng, là hành tinh lóng lánh.
                        Lúc sương mù, ai thở để sương tan.
Ai cầm tay cho đỏ má hồng em,
Ai thở nhẹ, cho mây vào trong tóc.” (Nguyên Sa – Cần Thiết)

Cần thiết, quyết rất cần để hành tinh lóng lánh đôi mắt sáng. Sáng cả vào lúc sương mù, khi người người ngợi ca Vua vũ trụ. Vua, của hồn người ta “cầm tay nhau cho đó má hồng”, rồi “thở nhẹ cho mây luồn vào trong tóc, chốn tâm can của mọi người. Trong đời. mục lục

Lm. Kevin O'Shea, DCCT biên soạn
Mai Tá lược dịch.

CHÚA LÀ VUA KHẮP CÕI TRẦN GIAN

Ôi Giêsu! Chúa Giêsu là Vua. Chúa muôn thuở là Vua.

Ôi Giêsu! Khi nghe tên Thánh Chúa Giêsu, các tầng trời bừng sáng, các tà thần chạy trốn, khắp trái đất khiếp run.

Ôi Giêsu! Nơi thiên cung tiếng hát vang hô, nơi dương gian gối uốn lạy thờ, thờ lạy Chúa Giêsu, Nguời là Chúa các chúa.

Những lời trong bài thánh ca “Giêsu Vua” của Lm. Huyền Linh trên đã phản ảnh câu trả lời của Chúa Giêsu với tổng trấn Philatô: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.” (Gioan 18:37) Nhưng dường như Philatô tỏ ra không quan tâm đến câu trả lời của Ngài. Ông cũng không muốn biết: “Sự thật là gì?” (Gioan 18:38) Điều ông muốn biết là Chúa Giêsu có thật sự là vua Do Thái, đối đầu với Caesar không? Vì vậy, ông đã hỏi lại Chúa: “Vậy ông là vua sao?” (Gioan 18:37)

Theo kinh nghiệm, Philatô đoán biết Ngài là người có tầm ảnh hưởng lớn đối với vụ án, dù chưa dám khẳng định Ngài là ai. Nhưng chính Chúa Giêsu đã làm cho sự nghi ngờ của ông trở thành sự thật: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do Thái. Nhưng thật ra nước tôi không thuộc chốn này.” (18:36) Câu trả lời xác nhận rõ ràng Ngài là vua, có điều vương quốc của Ngài vẫn còn là một cái gì khó hiểu đối với Philatô cũng như nhiều người trong chúng ta hôm nay.

Là vua, nhưng là “vua sự thật”. Nước Ngài không thuộc về trần gian – nước Do Thái. Đúng ra Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa, là vua trên muôn vua nếu chúng ta nhớ lại những câu nói trùng khớp của Ngài đã nói thay câu trả lời hôm nay, khi nói về vai trò làm vua và vương quốc của Ngài: “Ta là đường, là sự thật, và là sự sống.” (Gioan 14:16) Và: “Sự thật sẽ giải thoát anh em.” (Gioan 8:32)

“Sự thật sẽ giải thoát.” Suy niệm một cách sâu xa hơn chúng ta mới nhận ra rằng, người có khả năng giải thoát chúng ta không ai khác hơn là Chúa Giêsu - sự thật đời đời. Khi nhớ lại lời Ngài: “Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”, chúng ta đều cảm thấy kinh nghiệm này mỗi khi nói sự thật mà không ai tin. Trong những lúc như vậy, chúng ta chỉ mong có ai làm chứng và giải thoát chúng ta khỏi sự nghi ngờ của người khác. Nhưng người đời cũng như Philatô lại rất sợ sự thật, vì sự thật sẽ phơi bày tội lỗi và khuyết điểm của họ. Kết quả là nhiều người đã bị nghi ngờ, bị bắt, bị tra khảo, bị tù đày, và bị giết vì sự thật. Và chính vì thế, chúng ta mới tìm được ý nghĩa của một đất nước khác, một vương quốc khác nơi đó Chúa Giêsu là Vua, vua sự thật.

Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu khi được chị em hỏi rằng, thánh nữ sẽ làm gì khi bị hiểu lầm, chị đã tươi cười và trả lời: “Trên thiên đàng sẽ có câu trả lời”. Đau khổ, hiểu lầm, bị đối xử bất công là hệ quả của thế gian, của tội lỗi. Nhưng chúng cũng giúp chúng ta đặt niềm tin, và sự cậy trông nơi Thiên Chúa, hướng về quê trời, ở đó Chúa Giêsu là vua chúng ta, Ngài sẽ giải thoát cho chúng ta, và sẽ trả lại công bằng cho chúng ta, nếu chúng ta đã sống và đã đứng về phía Ngài.

Theo Thánh Josemaria Escriva, linh mục và sáng lập Opus Dei, Đức Giêsu Kitô, vua công chính, vua tình yêu và vua hòa bình. Chúng ta tất cả đều cảm nghiệm niềm vui lớn lao trong tâm hồn khi nghĩ về nhân tính thánh thiện của Chúa chúng ta. Ngài là vua với trái tim thịt mềm giống như chúng ta, Ngài là chủ tể vũ trụ và mọi loài tạo vật, nhưng Ngài không đặt ách thống trị trên chúng ta. Ngài còn xin chúng ta cho Ngài một chút tình yêu, khi âm thầm cho thấy Ngài qua các thương tích nơi những anh em hèn mọn, yếu đuối, nhỏ bé của Ngài quanh chúng ta.

Thế thì tại sao nhiều người đã không biết Ngài? Tại sao còn muốn nghe lời từ chối này được lặp lại trong thời đại của chúng ta: “Chúng tôi không muốn người này làm vua chúng tôi.” (Luca 19:14)

Ngày nay trên thế giới có hàng triệu triệu người từ chối Chúa Giêsu bằng cách này, hoặc bằng cách khác khi chối bỏ, coi thường những lề luật của Ngài. Họ đã không nhận ra khuôn mặt nhân từ của Ngài, và họ cũng không nhận ra lời giảng dạy của Ngài đáng giá biết bao. Nhiều người trong họ còn muốn chấp nhận sự cai trị của Satan, sẵn sàng chống lại Ngài bằng hàng ngàn, vạn cách thức khác nhau: trong khi đối diện với những hoàn cảnh sống, trong những tiếp cận với xã hội chung quanh, trong lối sống vô luân, trong những lý luận của khoa học và nghệ thuật. Một số khác lại chối bỏ danh Giêsu, vì sợ rằng danh này khiến họ nhớ đến vương quyền của Ngài, và ảnh hưởng đến đường lối, suy nghĩ chính trị của họ.

Từ chối Chúa Giêsu là vua. Điều này xảy ra ngay cả trong Giáo Hội. Thánh Augustine mặc dù không ám chỉ một cách rõ ràng. Theo ngài: “Đối với những kẻ vô lại, chúng xúc phạm đến Chúa Kitô bằng lời nói của chúng. Còn có nhiều người khác xúc phạm đến Ngài qua hành động của họ.”

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã muốn quy tụ muôn loài dưới quyền lãnh đạo của Ðức Kitô là người Con Chúa hằng ưu ái, và là Vua toàn thể vũ trụ. Xin cho hết mọi loài thọ sinh đã được cứu khỏi vòng nô lệ tội lỗi biết phụng thờ Chúa là Ðấng cao cả uy linh và không ngớt lời ngợi khen chúc tụng. mục lục

Trần Mỹ Duyệt

Lễ Chúa Kitô Vua, 24 tháng 11 năm 2024

Với mục đích để Lời Chúa được loan truyền và thông tin Giáo hội được lan tỏa, Legio Mariæ sẵn lòng để các tổ chức và cá nhân sử dụng lại tin bài đã đăng trên báo giấy và báo mạng legiomariævn.com của mình.

Tuy nhiên, vì đức công bằng và sự bác ái, xin quý vị vui lòng ghi đầy đủ nguồn như sau: “Theo Đạo Binh Đức Mẹ, website: legiomariævn.com”.

Ngoài ra, nếu chia sẻ bài lên mạng xã hội (Facebook, Twitter…), đề nghị dùng đường dẫn gốc trên website của Đạo Binh Đức Mẹ.