SUY NIỆM CHÚA NHẬT III MÙA CHAY_C

Lời Chúa: Xh 3,1-8a.13-15; 1Cr 10,1-6.10-12; Lc 13,1-9
BIẾT MÌNH và BIẾT CHÚA – + ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm thuyết giảng
THƯƠNG XÓT: CÁNH CỬA CỦA SÁM HỐI – Lm. Yuse Mai Văn Thịnh, DCCT
HỐI CẢI DẪN ĐẾN SỰ SỐNG – Phêrô Phạm Văn Trung
DÕI THỜI SỰ, HỌC THỜI ĐIỀM – Lm. Phêrô Phan Văn Lợi.
MÙA SINH HOA KẾT TRÁI – Anna Cỏ May
MÙA HOÁN CẢI – Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
“BIẾT MÌNH và BIẾT CHÚA LÀ CHA GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT”
+ ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm
THƯƠNG XÓT: CÁNH CỬA CỦA SÁM HỐI
Truyền thống của người Do Thái dưới thời Chúa Giê-su cho rằng chiến tranh, tai ương là hậu quả trực tiếp của tội lỗi cá nhân nói riêng và của cộng đồng nói chung. Vẫn biết quan niệm của người Do Thái là như thế, nhưng có một sự thật mà chúng ta không thể chối cãi, đó là lòng tham, tính hận thù, hành vi bạo lực, ích kỷ và những hành vi tác hại như thế có thể là hậu quả gián tiếp của tội lỗi! Bởi vì khi con người xa rời Thiên Chúa, họ dễ gây ra những bất công, bạo lực, chiến tranh.
Nhưng trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu bác bỏ quan niệm này và hướng con người đến sự hoán cải nội tâm. Đức Giê-su còn nhìn ra thâm ý của họ khi đến kể lại cho Người nghe biến cố mới xẩy ra cho người Ga-li-lê. Họ muốn xem thái độ và cách hành xử của Đức Giê-su trước những biến cố thời sự đang xẩy ra như thế nào?
Vì thế, việc đầu tiên mà chúng ta cần làm là hãy đặt biến cố mà chúng ta vừa nghe trong bài Tin Mừng hôm nay vào hoàn cảnh và môi trường chính trị thời Đức Giê-su đang sống. Thánh Lu-ca tường thuật là máu của họ hoà lẫn với máu của các con vật mà họ dùng để tế lễ. Chi tiết này cho chúng ta biết những người Ga-li-lê bị Phi-la-tô giết hại hôm nay là những người đang tham dự các nghi thức phụng vụ tai đền thờ.
Họ có thể là thành phần của một nhóm yêu nước muốn nổi dậy để đòi quyền tự chủ hay là những người dân vô tội đã vô tình xuất hiện ngay vào lúc có cơn càn quét các nhóm chống đối chính quyền Rô-ma. Vậy nếu Đức Giê-su binh vực họ thì Người sẽ chống lại quân lính của Phi-la-tô và khuyến khích họ đi vào những cuộc nổi dậy không lối thoát. Ngược lại, nếu đồng ý với cách cư xử tàn ác của Phi-la-tô thì Đức Giê-su xem ra lại đứng về phe của những kẻ có thế lực đang dầy xéo và tạo nên bao nhiêu cảnh lầm than cho dân chúng.
Đức Giê-su xác định rõ lập trường của Người, đó là Người đến để thi hành ý muốn của Chúa Cha là ban ơn cứu độ, giải thoát con người khỏi căn nguyên của tội lỗi. Vì thế, Người đã không để cho bất cứ một tham vọng chính trị nào ảnh hướng trên sứ vụ của Người.
Đức Giê-su đã vặn lại bằng cách hỏi họ rằng “các ông tưởng những người Ga-li-lê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Ga-li-lê khác sao?” Qua cách đặt vấn đề như thế, Đức Giê-su muốn lôi họ ra thoát khỏi quan niệm của họ khi cho rằng tai hoạ là hình phạt của Thiên Chúa giáng xuống kẻ có tội.
Thưa anh chị em,
Thật ra, không hẳn là như thế. Anh chị em còn nhớ trong phép lạ chữa người mù từ thủa mới sinh, các môn đệ đã lập luận với Thầy mình về tình trạng của người mù. Anh đã làm gì nên tội mà bị mù ngay từ lúc vừa chào đời; và nếu án phạt là hậu quả của tội lỗi thì việc anh bị mù là tội của ai? Đức Giê-su đã trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh đã phạm tội (mà anh bị mù). Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ thấy quyền năng của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh.
Theo Đức Giê-su thì tai hoạ không phải là hậu quả trực tiếp của tội lỗi; vì thế Người mới nói thêm về số phận của những người bị tháp Si-lô-ác đè chết, họ cũng không phải là những người mang tội nặng hơn những người đang cư ngụ tại Giê-ru-sa-lem đâu! Tương tự như thế, không lẽ ngày nay có ai trong chúng ta dám nói rằng những nạn nhân đã chết trong các cuộc chiến hay do thiên tai lại là những người có tội hơn chúng ta hay sao!
Sau đó, Đức Giê-su đã khuyến cáo họ, lời khuyến cáo này rất khẩn thiết và quan trọng vì trong một đoạn văn rất ngắn mà Thánh sử đã lập lại hai lần, Đức Giê-su phán rằng “Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu” có nghĩa là số phận của họ không giống như các ông nghĩ là do tội của họ mà ra. Người tiếp tục “… nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết y như vậy.”
Như vậy lời khuyến cáo của Đức Giê-su là lời mời gọi chúng ta hãy sám hối.
Đây cũng không phải là điều gì mới mẻ. Ngay từ lúc khai mạc sứ vụ Đức Giê-su đã phán “hãy hối cải và Tin vào Tin Mừng.” Hối cải không chỉ là một lịnh truyền cần được nhắc đi nhắc lại từng giây từng phút trong cuộc sống của người môn đệ mà thôi; nó còn là một sự chọn lựa bộc lộ bằng hành động của mình. Muốn hối cải, con người cần trở về với chính mình để nhận ra tình thương của Chúa hoạt động trong chúng ta mãnh liệt dường bao. Và nếu chúng ta không biết hối cải thì cho dù còn sống nhưng thật ra đã chết!
Việc hối cải không chỉ là nỗ lực riêng của con người; nhưng phát sinh từ Thiên Chúa, Đấng trung tín với sự bất trung và bội tín của con người. Ngài luôn kiên tâm và chờ đợi con người như ý nghĩa trong dụ ngôn cây vả mà chúng ta nghe hôm nay. Người làm vườn đầy tình thương và chờ đợi để nó sinh hoa trái như lời ông ta năn nỉ ‘Thưa ông chủ, xin cứ để nó lại năm nay nữa.’ Còn tình thương và lòng quảng đại nào vĩ đại hơn điều chúng ta vừa nghe. Đã bao nhiêu lần ‘xin cứ để’, và bao nhiêu thời hạn ‘một năm’ đã trôi qua; Chúa vẫn lặng thinh, âm thầm và chờ đợi con người mở lòng ra để đón nhận lòng thương xót của Ngài.
Suy niệm tới đây, tôi nhớ đến một truyện ngắn đã xẩy ra trong cuộc đời của Vua Na-po-le-on, vị hoàng đế vĩ đại một thời của nước Pháp. Khi mang trách vụ Tổng chỉ huy quân đội, Đại đế Na-po-le-on đã công bố một điều luật là nếu ai vắng mặt không có phép mà bị bắt thì sẽ bị xử tử vào giờ ăn sáng của ngày hôm sau.
Có một chú lính kia, mới 17 tuổi, đã chứng kiến các bạn đồng đội bị bắn khi vi phạm khoản luật nói trên. Vì quá sợ hãi, cậu chạy trốn; không may cho cậu là trốn không thoát nên số phận của cậu cũng sẽ bị định đoạt trong bữa ăn sáng của ngày kế tiếp.
Có một sự việc xẩy ra rất tình cờ, đó là cậu này lại là con trai bà bếp của nhà vua. Bà xin gặp và van xin lòng thương xót của vua. Sau khi nghe lời van xin thống thiết của bà mẹ; Vua Napoleon vẫn giữ ý định của mình và đuổi bà ra khỏi dinh. Trước khi đuổi bà đi, Vua phán “Bà hay đi, vì con bà không xứng đáng đón nhận lòng thương xót cuả tôi.” Khi nghe như thế, người phụ nữ mới đáp lại:
“Thưa Vua, Ngài nói chí phải. Con của tôi không xứng đáng đón nhận lòng thương xót của Ngài. Bởi vì, nếu nó xứng đáng, thì Lòng Thương Xót không còn mang đặc tính của Lòng Thương xót được ban tặng nhưng không cho những ai không xứng đáng đón nhận nữa.” Nghe đến đó, nhà Vua ngồi trầm ngâm suy nghĩ…
Truyện không có đoạn kết. Đó là điều mà chúng ta cần khám phá và thực thi trong cuộc sống và trong mối tương quan của Thiên Chúa dành cho chúng ta.
Như vậy, trọng tâm của bài Tin Mừng hôm nay không chỉ cảnh báo chúng ta về hậu quả của tội lỗi, mà còn nhấn mạnh đến lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa chờ đợi con người hoán cải, như người làm vườn xin chủ nhân cho cây vả thêm một cơ hội.
Vì thế, tuy chúng ta bất xứng thế mà Chúa vẫn yêu thương, kiên tâm chờ đợi, tìm mọi cách thế để kéo chúng ta trở về nguồn suối yêu thương phát sinh từ Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Vậy còn chần chờ gì nữa, hãy trở về để đón nhận tình yêu, sự tha thứ của Thiên Chúa mà chia sẻ, thứ tha và trao cho nhau điều mà chúng ta đã nhận lĩnh. Amen! mục lục
Lm. Yuse Mai Văn Thịnh, DCCT
Bài đọc Tin Mừng hôm nay đề cập đến hai thảm kịch. Một là tổng trấn Philatô sử dụng quyền lực sai quân lính giết những người Galilê đang dâng lễ vật trong Đền thờ: “Có mấy người đến kể lại cho Chúa Giêsu nghe chuyện những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng” (Lc 13: 1). Thảm kịch thứ hai là một tai nạn đáng tiếc khi một tòa tháp ở Silôác đổ xuống và làm chết mười tám người: “Cũng như mười tám người kia bị tháp Silôác đổ xuống đè chết” (Lc 13: 4). Ngày nay cả hai loại thảm kịch này vẫn xảy ra. Mọi người tiếp tục bị giết vì sự lạm dụng quyền lực tàn bạo và nhiều người mất mạng vì những tai nạn bất ngờ. Chúa Giêsu cảnh báo những người đương thời của mình không nên nghĩ rằng những người mất mạng trong hai thảm kịch này là do tội của họ lớn hơn tội của những người khác: “Các ông tưởng mấy người Galilê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Galilê khác sao?” (Lc 13: 2). Chúa Giêsu bác bỏ cách qui kết đơn giản và sai lầm rằng ai gặp tai ương khốn khổ là vì người ấy tội lỗi: “Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu” (Lc 13:3).
1. Chúng ta đều là tội nhân và cần phải ăn năn tội lỗi của mình.
Qua hai sự việc này, Chúa Giêsu muốn nhắc người ta cần suy ngẫm về sự dễ bị tổn thương và mong manh của cuộc sống con người. Cuộc sống thể lý của con người có thể bị mất đi mà không có bất cứ cảnh báo nào trước. Vì lý do này, Chúa Giêsu khuyên răn người ta cần trân trọng mỗi biến cố trong cuộc sống như một cơ may để xét lại con người mình, bỏ đi những ham muốn ích kỷ và hướng về Thiên Chúa nhiều hơn. Ngài nói với chúng ta qua tất cả những sự kiện của cuộc sống, nhất là qua những sự kiện bi thảm. Ngài khiển trách chúng ta không nhìn ra trong mọi sự kiện chính mình cũng là tội nhân, không sinh ra nhân đức nào, nhằm quyết tâm ăn năn sám hối trở về cùng Thiên Chúa là Cha đầy yêu thương nhẫn nại. Ngài muốn chúng ta tự xét chính bản thân mình, thay vì cứ để mình bị cuốn đi theo khuynh hướng xấu soi mói người khác, nhưng lại không nhận ra lòng dạ mình cũng chất chứa đầy nghĩ suy tội lỗi, như Ngài đã từng khiển trách: “Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới?” (Lc 6; 41). Hôm nay, theo trình thuật của thánh sử Luca, Chúa Giêsu không chỉ khiển trách mà còn cảnh cáo, thậm chí đến hai lần liên tục: “Không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy” (Lc 13: 3 và 5).
Không ai có thể nói rằng mình không có tội lỗi, bởi vì tất cả mọi người đều là tội nhân. Như Thánh Gioan viết: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta” (1 Ga 1: 8). Mỗi chúng ta đều biết rằng mình có tội: lương tâm chúng ta cho thấy chính mình sai lỗi và phạm tội hàng ngày. Tội lỗi, khởi đi từ tội nguyên tổ, là một phần của thân phận con người mà chúng ta nhiễm phải theo cách bị ảnh hưởng qua sự kế thừa: “Khi nghe theo Tên Cám Dỗ, ông Ađam và bà Evà đã phạm một tội cá nhân, nhưng tội đó ảnh hưởng đến bản tính nhân loại, một bản tính mà họ sẽ lưu truyền trong tình trạng đã sa ngã . Đó là một tội được lưu truyền cho toàn thể nhân loại qua việc sinh sản, nghĩa là qua việc lưu truyền một bản tính nhân loại đã mất sự thánh thiện và công chính nguyên thuỷ. Do đó, tội tổ tông được gọi là “tội” theo nghĩa loại suy: đó là một thứ tội con người bị “nhiễm” chứ không phải đã “phạm”; một tình trạng, chứ không phải một hành vi” (GLHTCG, số 404). Tuy nhiên, nhiều khi chúng ta không chấp nhận điều đó hoặc để cho những đa đoan hàng ngày che lấp nó đi. Đó là sự thật! Nếu chúng ta không hiểu điều này, sự thật sẽ không ở trong chúng ta.
Chúng ta phạm nhiều tội lỗi trong cuộc sống của mình. Khi tội lỗi xâm nhập vào tâm trí và lòng dạ của mình, chúng ta không hoàn toàn tập trung vào Thiên Chúa và vào tình yêu của Ngài dành cho chúng ta nữa. Lúc ấy chúng ta muốn rời mắt khỏi Ngài, trôi xa khỏi Ngài, bắt đầu lấp đầy cõi lòng mình bằng những thói tục của thế gian, và gánh chịu những hậu quả của chúng, như Thánh Phaolô nói trong bài đọc thứ hai “Những sự việc ấy xảy ra để làm bài học, răn dạy chúng ta đừng chiều theo những dục vọng xấu xa như cha ông chúng ta. Anh em đừng trở thành những kẻ thờ ngẫu tượng…Ta đừng gian dâm, như một số trong nhóm họ đã gian dâm: nội một ngày, hai mươi ba ngàn người đã ngã gục. Ta đừng thử thách Chúa, như một số trong nhóm họ đã thử thách Ngài và đã bị rắn cắn chết. Anh em đừng lẩm bẩm kêu trách, như một số trong nhóm họ đã lẩm bẩm kêu trách: họ đã chết bởi tay Thần Tru Diệt. Những sự việc này xảy ra cho họ để làm bài học, và đã được chép lại để răn dạy chúng ta, là những người đang sống trong thời sau hết này. Bởi vậy, ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã” (1 Cr 10: 6-12).
Chúng ta biết rằng mình đang chiến đấu với những khuynh hướng chiều theo những ham muốn của xác thịt, thế gian và ma quỷ. Nhưng thật là may mắn cho chúng ta, vì “Nếu chúng ta thú nhận tội lỗi, Thiên Chúa là Đấng trung thành và công chính sẽ tha tội cho chúng ta, và sẽ thanh tẩy chúng ta sạch mọi điều bất chính” (1 Ga 9). Vậy thì chúng ta hãy bỏ đi thói xấu cứ nghĩ người khác tội lỗi, và thay vào đó hãy thường xuyên ăn năn hối cải: “Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng và cùng anh chị em…”, trông cậy vào ơn Chúa cứu độ, như bài đọc thứ nhất cho thấy: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật” (Xh 3: 7-8).
2. Bài học của cây vả không sinh trái
Đôi khi những sự kiện bi thảm tác động đến chúng ta và khiến chúng ta phải xem xét lại cuộc sống của mình. Thiên Chúa có thể đang nói chúng ta qua những sự kiện như vậy. qua những sự kiện bi thảm này, Chúa Giêsu nói dụ ngôn về cây vả không sinh hoa trái, chỉ đáng bị chặt bỏ đi, nhưng người chăm sóc cây vả ấy vẫn nhìn thấy hy vọng trong hoàn cảnh dường như vô vọng. Dụ ngôn của Chúa Giêsu khiến chúng ta phải suy nghĩ và chiêm nghiệm trong niềm hy vọng cậy trông. Trong vườn nho có một cây vả dường như đã chết. Nó đã không ra trái trong ba năm liên tiếp. Phản ứng của chủ vườn nho có vẻ khá hợp lý; hãy chặt cây vả đi vì nó chiếm không gian có thể dùng để trồng nho. Tuy nhiên, người làm công cho chủ vườn nho lại có quan điểm khác. Ông nhìn vào cây vả dường như vô dụng và thấy khả năng nó vẫn có thể ra trái. Ông có tầm nhìn rộng lượng hơn về cây vả, một tầm nhìn đầy hy vọng. Ông cảm thấy rằng mọi thứ vẫn chưa mất hết; vẫn còn thời gian để cây vả trở nên tốt đẹp.
Dụ ngôn có thể muốn nói rằng Thiên Chúa là chủ vườn nho, Chúa Giêsu là người người chăm sóc khu vườn đó, còn chúng ta chính là cây vả. Chúa Giêsu sẵn sàng xin Thiên Chúa là chủ vườn nho đừng loại bỏ con người chúng ta, vì Ngài hy vọng mỗi người chúng ta vẫn còn có thể sinh hoa kết trái cho Thiên Chúa, ngay cả lâu nay chúng ta không sinh ra trái nào. Chúa Giêsu thấy mỗi “tội nhân đều có một tương lai”. Ngài nhìn chúng ta bằng đôi mắt hy vọng. Đây là cách Chúa Giêsu nhìn chúng ta. Khi nhìn chúng ta, Chúa Giêsu không chỉ nhìn thấy những gì chúng ta đã không làm được trong quá khứ mà còn nhìn thấy những gì chúng ta có khả năng làm được trong tương lai. Ngài nhìn chúng ta bằng đôi mắt rộng lượng và đầy hy vọng.
Đó là cách chúng ta thực sự nên có khi nhìn nhau, cần phải nhìn vào mọi hoàn cảnh của từng người trong cuộc sống. Giống như người làm vườn nho, chúng ta cần phải kiên nhẫn, sẵn sàng chờ đợi và có khả năng nhìn thấy những dấu hiệu dù mờ nhạt của sự sống mới ẩn chứa bên dưới bề mặt không mấy hứa hẹn. Người làm vườn nho đã dành mọi cơ hội có thể cho cây vả, không chỉ thời gian, mà còn cả sự chăm sóc yêu thương dịu dàng: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó” (Lc 13: 8).
Đó là cách Chúa Giêsu đối xử với chúng ta. Ngài không vội vã từ bỏ chúng ta ngay cả khi chúng ta đã có những dấu hiệu không hứa hẹn gì. Ngài tiếp tục đổ ân sủng của Ngài vào cuộc sống của chúng ta. Ngài sẽ làm mọi sự có thể để đảm bảo rằng cuộc sống của chúng ta đơm hoa kết trái phong phú của Chúa Thánh Thần. Chúng ta có một phần cần góp phần vào; Chúa không thể làm gì trong cuộc sống của chúng ta nếu không có sự đồng ý của chúng ta. Dụ ngôn đảm bảo với chúng ta rằng khi chúng ta cố gắng thì những gì Chúa giơ tay giúp chúng ta thực hiện sẽ luôn vượt xa bất cứ nỗ lực nào của chúng ta. Như thánh Phaolô nói: “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5:20).
Chúa Giêsu đối xử với tất cả chúng ta y như thế. Người tiếp tục hy vọng và đổ công sức vào chúng ta, đặc biệt là vào những lúc chúng ta bị cám dỗ bỏ cuộc. Chúa Giêsu không bao giờ từ bỏ chúng ta và tất cả những gì Ngài cần là chúng ta mở lòng một chút để công khó của Ngài nơi chúng ta sinh hoa trái dồi dào. Chúng ta cứ nghĩ tự bản thân mình phải đổ công sức ra để được cứu độ. Tuy nhiên Thánh Phaolô có cách nhìn khác: “Họ không nhận biết rằng chính Thiên Chúa làm cho người ta nên công chính, và họ tìm cách nên công chính tự sức mình. Như vậy là họ không tuân theo đường lối Thiên Chúa làm cho người ta nên công chính” (Rm 10: 1-3).
Chúng ta đang sống trong thời đại có phần thiếu kiên nhẫn. Nhưng Chúa Giêsu luôn kiên nhẫn với những người đang chiến đấu, giống như cây trong dụ ngôn. Ngài kiên nhẫn với chúng ta trong sự yếu đuối của mình; Ngài cho chúng ta thời gian. Ngài hy vọng rằng chúng ta sẽ tận dụng được thời gian và cơ hội mà sự kiên nhẫn của Ngài dành cho chúng ta.
Chúa Giêsu mong chờ chúng ta mau mắn ăn năn, nghĩa là quay lưng lại với bất cứ những gì là tội lỗi. Vậy thì giống như người làm vườn, chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta thêm một chút thời gian để sinh hoa trái, nghĩa là ngày càng tiến xa hơn vào thế giới của lòng tốt và tình yêu, của ánh sáng và chân lý của Thiên Chúa. Rồi thì chúng ta có thể chung lời với bài đáp ca hôm nay rằng: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi ân huệ của Ngài. Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi… Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Ngài chậm giận và giàu tình thương” (Tv 103:2-3, 8). mục lục
Phêrô Phạm Văn Trung
Trong bộ sưu tập về các vị ẩn tu cổ thời Ki-tô giáo, người ta đọc được câu chuyện này: Có hai tội nhân quyết tâm vào sa mạc để ăn chay đền tội. Nhiều tháng trời ròng rã, ai nấy giam mình trong một túp lều, ngày đêm đánh tội, ăn năn và cầu nguyện. Ngày ngày các tu sĩ của một cộng đoàn ẩn tu mang thức ăn nước uống đến tận căn lều của mỗi người. Sau đúng một năm thử thách, các tu sĩ nhận thấy có sự khác biệt giữa hai bên. Một người thì khỏe mạnh vui tươi, một người thì ốm o phiền não. Cả hai đến trình diện trước bề trên cộng đoàn để chờ đợi sự phán quyết của ngài, theo đó họ có xứng đáng gia nhập cộng đoàn hay không. Khi được hỏi trong suốt một năm qua, họ đã suy niệm những gì, con người ốm o phiền não lên tiếng đáp : “Suốt một năm qua, ngày ngày tôi nhớ lại những tội mình đã phạm. Từng giây từng phút tôi nghĩ đến hình phạt mình sẽ gánh chịu sau khi chết và tôi sợ hãi đến mất ăn mất ngủ.” Tới lượt mình, con người vui tươi khỏe mạnh trình bày như sau : “Suốt một năm qua, từng giây từng phút tôi hằng nhớ lại những ơn lành Thiên Chúa đã ban xuống cho tôi, tôi nghĩ đến tình thương của Người và những cơ hội mà Người sẽ lại ban tặng để tôi có thể sinh quả phúc đức, cải thiện cuộc sống.” Các tu sĩ cộng đoàn rất cảm kích về chứng từ của con người khỏe mạnh vui tươi, vì lòng sám hối của anh đã biến thành lời ca tụng, tri ân đối với tình yêu Thiên Chúa. Nhưng con người ốm o buồn sầu kia cũng được đón nhận vào cộng đoàn.
1. Khẩn cấp hoán cải trước thảm họa con người chịu
Nghĩ đến quá khứ tội lỗi để thống hối trước khi chết và quyết tâm sinh quả phúc đức để đền bù trong tương lai, đó chính là hai bài học của đoạn Tin Mừng hôm nay, hai bài học được Đức Giê-su dạy qua một biến cố thời sự và qua một dụ ngôn ngắn ngủi.
Đức Giê-su thường theo dõi thời sự. Vừa nghe những kẻ đến nói với mình cái tin nhiều cư dân Ga-li-lê bị Phi-la-tô tàn sát, Người liền tung ta một sự kiện khác nữa : tháp Si-lô-ác đổ sập gây nên 18 nạn nhân. Và như đoán được suy nghĩ của những kẻ đưa tin lẫn kẻ nghe tin, Đức Giê-su đã chặn lại tức thì : “Các ông tưởng mấy kẻ phải chịu số phận thê thảm đó vì họ tội lỗi hơn những người khác sao ?” Thông thường là thế : đứng trước bất hạnh của người khác, ta tự nhiên tìm xem đâu là lỗi lầm của nạn nhân. Họ đã chết như thế có lẽ là do Chúa phạt ! Nếu nạn nhân đó không may là kẻ thù của ta, có thể ta còn độc địa buột miệng : “Nó đã đền tội rồi !” Và ta tự cho mình là công chính vì đã tai qua nạn khỏi. Lý luận kiểu đó thì hỏi còn ai có thể sống sót ? Bạn và tôi, liệu chúng ta còn có dịp nhìn thấy mặt trời lên mỗi ngày nữa không ? Và nếu như Thiên Chúa là quan tòa nghiêm khắc đến thế, liệu Người có còn là Thiên Chúa tình yêu nữa chăng ?
Từ khước thành kiến thông thường, đảo lộn cung cách suy nghĩ bình dân ấy (thảm họa là dấu chỉ Trời phạt), Đức Giê-su, rất thực tế, khuyên chúng ta tốt hơn hãy năng nhận biết mình tội lỗi và mau mắn hoán cải. Hai kiểu chết khốc liệt nói trên phải là lời cảnh báo cho những ai không mau mắn thay đổi đời sống, chẳng xét lại ý kiến và những hoài vọng lầm lạc của mình. Mọi người đều là tội nhân và cần hoán cải trước khi ra tòa Chúa phán xét.
Thành thử ở đây Đức Giê-su không nói với chúng ta về thái độ của Thiên Chúa đối với các tội nhân. Người chỉ muốn chúng ta suy nghĩ về chính mình : tất cả anh em đều có thể chết bất đắc kỳ tử. Nhưng cái chết đó không tai hại bằng cái chết trong tình trạng phạm tội. Anh em là những kẻ có tội. Vậy hãy coi chừng cái chết đang rình rập anh em. Không phải cái chết phá hủy thân xác, song là cái chết tàn phá phần đẹp nhất trong tâm hồn mình, cái chết khô cạn nguồn suối sự sống, cái chết có thể khiến anh em đánh mất hạnh phúc vĩnh cửu. Vậy, điều khẩn cấp là anh em phải thay đổi, phải hồi tâm, phải quay về với Thiên Chúa !
Các biến cố thời sự có thể năng khiến ta nghĩ tới điều đó : nếu chuyện rủi ro ấy xảy đến cho tôi thì sao ? Cái cách đưa mình về lại cuộc sống mình như thế là bài học của việc theo dõi thời sự. Ta có nguy cơ chỉ trở thành những kẻ tiêu thụ vô độ (nhất là trong thời đại internet này) những tin tức chẳng làm ta lay chuyển, đang lúc chúng có thể là những lời liên tục kêu gọi hãy sống khôn ngoan và sắp sẵn theo kiểu Tin Mừng.
Nếu biết đọc các biến cố ở một mức độ chú ý và mức độ đức tin thật sâu, lời kêu gọi hoán cải hôm nay còn nhằm rất xa : đó là thay đổi sâu xa não trạng, và cuối cùng là luyện được những phản ứng kiểu Tin Mừng trước mọi sự việc và trong mọi hoàn cảnh.
2. Mau chóng sinh quả như tâm lòng Thiên Chúa muốn
Và như để làm dịu lại những lời lẽ nghiêm khắc của mình, đồng thời đề ra những điều tích cực, Đức Giê-su kể lại dụ ngôn cây vả không trái.
Người làm vườn mà dụ ngôn trình bày cho ta luôn hy vọng rằng cây vả của ông, dù vẫn chưa ra trái, sẽ có ngày sinh quả. Ông thuyết phục chủ vườn hãy hoãn lại quyết định đốn cái cây ăn hại đất ấy và nó đã nhận được một án treo.
Thiên Chúa chúng ta là như thế. Người tha thiết mong ta hoán cải nhanh chóng và đem tình yêu đáp lại tình yêu bước trước của Người. Người nhẫn nại vô biên đối với kẻ tội lỗi. Khi ta vừa nhắm mắt, trút linh hồn (y học gọi là chết lâm sàng), thì chưa phải ra ngay trước tòa Chúa, mà còn trải qua giai đoạn chết tương đối (thông thường vài ngày, với ý thức vẫn tồn tại) để ta có cơ hội ăn năn sám hối trước khi tiến vào giai đoạn chết tuyệt đối, đi hẳn vào vĩnh cửu. Thiên Chúa chấp thuận cho kẻ tội lỗi một sự trì hoãn ân huệ. Người chẳng tuyệt vọng với bất kỳ ai. Chẳng có ai là đồ bỏ đối với Người. “Với Chúa chẳng có ai quá xa xôi. Với Chúa chẳng có gì hư hỏng. Với Chúa chẳng có chuyện chấm dứt. Với Chúa chẳng có đứa con hoang đàng nào không được tha thứ”, một bài ca đã hát lên như vậy.
Nếu giờ phán xét chưa đến ngay, đó là vì Thiên Chúa ban cho ta một ân huệ sau cùng để ta hoán cải, chứ chẳng phải Người đã chấp thuận các hành vi của ta. Cây vả không trái chưa bị nhổ ngay là do lòng nhân hậu khôn tả, tuy nhiên nó vẫn còn bị đe dọa phải chết nếu năm sau vẫn không ra trái. Lời khiển trách cây vả là lời cảnh báo cho thính giả của Đức Giê-su : họ không được trì hoãn việc chính yếu cho đến ngày mai và phải quyết định sinh hoa kết quả cho Chúa ngay liền.
Vậy phải làm gì ? Một cuộc xưng tội tổng quát đầu mùa Chay (hay cho cả một năm) sẽ có thể là một cách để chúng ta sửa lại lòng mình, nhưng một tháng sau chúng ta sẽ ra sao : các khuynh hướng và các lầm lỗi sẽ trở lại. Đó không phải là giải pháp chân thực, triệt để ! Chắc ta đã có lần tấn công những cây cỏ cú xâm lăng một khoảnh vườn, đã dùng liềm để cắt sạch tất cả, nhưng rồi chúng lại mọc lên còn hung tợn hơn bao giờ hết. Một tay làm vườn chuyên nghiệp sẽ khuyên chúng ta : “Nhổ cỏ thì phải nhổ cả rễ !”
Đức Giê-su gọi đó là “ra công sám hối.” Mùa Chay là mùa giúp chúng ta có suy niệm kỹ, là mùa được ban mỗi năm để ta hoàn tất việc hoán cải, lời mời gọi đầu tiên của Tin Mừng : “Hãy sinh những hoa quả xứng với lòng sám hối” (Lc 3,8). Có thể coi việc sám hối đó vừa như một sự dừng lại, một sự đổi hướng và một sự sinh quả. Một con người không thể tiến tới cách nào cũng được, phát sinh cái tốt lẫn cái xấu. Phải biết thình lình dừng lại và tự hỏi : “Tôi đang sống cho cái gì đây ? Cái đó dẫn tôi đến chỗ nào ?” Nếu tất cả xảy ra tốt đẹp, đương sự sẽ bắt đầu cầu nguyện để thấy rõ và để có thể tìm được can đảm chọn một hướng mới : Tin Mừng. Bản chất của lòng hoán cải, đó là quyết định sống từ nay theo Tin Mừng. Và bắt đầu việc đó ngay lập tức !
Nhưng chọn lựa Tin Mừng và thực sự sinh ra những hành vi kiểu Tin Mừng cũng là công việc của một tập thể cộng đoàn, một tập thể Giáo hội. Trong một xã hội đang bị thống trị bởi chính thể độc tài, bởi đường lối bóc lột đàn áp, bởi phương cách trấn áp kẻ đối lập, bởi chủ trương công cụ hóa các tôn giáo, thì hoa trái Ki-tô hữu chúng ta cần sinh ra chẳng phải là tranh đấu cho những kẻ thấp cổ bé miệng, giành lại quyền tối tượng cho Thiên Chúa, khôi phục tự do cho các tôn giáo hay sao ? Để từ đó khôi phục mọi quyền cho con người và thăng tiến xã hội thực sự! mục lục
Lm. Phêrô Phan Văn Lợi.
Trên các phương tiện truyền thông và các trang mạng, người ta không ngừng đăng lên các bài viết về những tội phạm nguy hại đến tính mạng con người, thiệt hại đến tài sản… Những người này đang được mời gọi ra đầu thú để hưởng khoan hồng, được giảm án, để có cơ hội trở về với gia đình.
Hôm nay Đức Giêsu cũng mời gọi hết mọi người hãy sám hối, kể cả người mắc tội nhẹ. Ngài nói: “Các ông tưởng mấy người Galilê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Galilê khác sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu, nhưng nếu các ông không sám hối thì các ông sẽ chết hết y như vậy” (Lc 13, 2-3). Sau đó, Ngài cũng dùng dụ ngôn cây vả để truyền cho chúng ta biết rằng: Con người sống phải ra hoa kết trái bằng chính đời sống của mình, phải có sự trở về. Người chủ đến thăm vườn, thấy cây vả không kết trái, ông nói: “Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt đi, để làm gì cho hại đất?” (Lc 13,7). Lời của ông có vẻ lạnh lung, không gắn bó với những thành quả công sức mình và mọi người thợ đã bỏ ra để vun trồng, chăm sóc. Nhưng khi xét lại theo chuyên ngành thì lời ông nói cũng có lý vì để lại một cây không có trái thì chỉ hại đất, tốn phân, tốn công. Người thợ đã can thiệp, nài nỉ: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi” (Lc 13, 8-9). Và ông chủ vườn đã để cây vả lại, điều này chứng tỏ lòng thương xót và kiên nhẫn của Thiên Chúa được biểu lộ nơi hình ảnh ông chủ vườn. Ông vẫn chờ đợi để cây vả ra trái.
Với phép ẩn dụ, Đức Giêsu là người thợ, cây vả là chúng ta. Đức Giêsu luôn chờ đợi sự trở lại của những tâm hồn khiếm khuyết, tâm hồn đang thất vọng, khô khan và những tâm hồn đang mang ách nặng nề của thế gian. Bởi vậy, Ngài không ngừng cuốc xới, nhổ cỏ và bón phân cho ta qua Lời Chúa, lời giảng dạy và nhất là chính con người của Ngài nơi bí tích Thánh Thể. Cây muốn ra trái, trước hết phải được chăm sóc, vun xới, làm sạch cỏ dại, cây cỏ dại bên cạnh cây vả đang chiếm đất, hay cỏ dại đang leo lên thân cây. Tuy cỏ dại nhỏ bé nhưng là tác hại gây cho sức sống của cây, khiến cây không thể ra hoa kết trái. Có những cây ở trong tình trạng an toàn, lá xanh mơn mởn nhưng vẫn không sinh trái nên phải chặt nó đi. Thế nên, việc sám hối không dừng lại ở sự trở về hay chỉ sửa chữa những tội lỗi của mình, nhưng là tô điểm cho mình bằng những hành động yêu thương, chia sẻ với mọi người xung quanh. Đó là những hành động bắt đầu lại cuộc sống mới, cuộc sống yêu thương. Chúa không đến để nhìn một cái cây được quét trơn bóng bởi những vẻ đẹp thế gian, Ngài đến để tìm hoa quả chính là lối sống tốt đẹp với Thiên Chúa và tha nhân.
Mùa Chay, mùa hối thúc chúng ta khiêm nhường thú nhận tội lỗi đã phạm mà ăn năn trở về với Chúa. Trở về để hưởng sự tha thứ. Con tim trở về là con tim đã nhổ bỏ những cỏ dại để được chăm sóc và sinh hoa kết trái.
Lạy Chúa, Chúa hằng kiên nhẫn chờ đợi chúng con trở về. Xin cho chúng con đang trên đường tội lỗi biết dừng lại cảm nghiệm tình yêu Chúa, nghe được tiếng thổn thức của Chúa gọi mà trở về nơi suối nguồn yêu thương của Chúa. Amen. mục lục
Anna Cỏ May
Mùa Chay, mùa tập luyện chiến đấu thiêng liêng, mùa biến đổi và cũng là mùa hoán cải. Chúng ta đã đi vào giữa Mùa Chay. Phụng vụ hối thúc chúng ta phải làm công việc quan trọng nhất trong mùa này, là thống hối ăn năn tội lỗi và trở về với Chúa. Tin Mừng và bài Thánh Thư chú trọng đến đề tài "hoán cải" với lời kêu gọi cảnh tỉnh. Lời cầu nguyện của các Giáo phụ dạy chúng ta thưa : "Lạy Chúa, xin thương con, vì con là kẻ có tội !"
Sau hai tuần sám hối, ý thức mình là kẻ tội lỗi, chúng ta lấy những lời trên làm của mình, và can đảm cùng với Chúa Giêsu bước vào trong sa mạc của Mùa Chay Thánh, "hướng cặp mắt" lên Chúa là Đấng giầu lòng thương xót, và thưa: "Mắt tôi hướng nhìn Chúa không biết mỏi, vì chính Người sẽ gỡ chân tôi khỏi dò lưới. Lạy Chúa, xin đoái nhìn và xót thương con, vì thân này bơ vơ cùng khổ" (Ca nhập lễ), Chúa sẽ cứu giúp chúng ta.
Tin vào lòng Chúa thương xót không phải là dễ, vì khi có biết bao chuyện buồn đẫm lệ trước mắt chúng ta : các thảm kịch về thiên tai như bão tố, lũ lụt, bao nhiêu người mất tích và chết. Những vụ tai nạn hàng không, khủng bố giết người giã man hơn … Chúng ta vẫn hát với niềm tin rằng : "Chúa nhân từ và thương xót". Có người hỏi, lòng nhân từ và tình thương xót của Chúa ở đâu, khi trái tim con người bị tan nát bởi những cái chết đau thương của người thân, của anh em đồng loại... thật khó để chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa yêu thương và muốn điều tốt cho nhân loại.
Vấn nạn giả thiết rằng, sự bất hạnh xảy đến với con người là đáng. Vì vậy, khi chúng ta chứng kiến những người bị bệnh nan y hoặc chết đột ngột, người đời hỏi :"Họ đã làm gì sai chăng? " Hay có sự trừng phạt tức khắc mà họ phải hứng chịu? Đây không phải là điều Chúa Giêsu nói trong Tin Mừng.
Vậy, làm thế nào để có thể chấp nhận và sống sự khác biệt giữa lòng thương xót của Thiên Chúa và sự bất hạnh của con người? Chúng ta còn nhớ việc Thiên Chúa giải thoát dân Ngài ra khỏi Ai Cập và cho họ đi qua Biển Đỏ ráo chân không? Liệu còn nhớ Thiên Chúa dẫn dắt dân Ngài qua sa mạc, nuôi dân bằng bánh bởi trời, và uống nước từ tảng đá vọt lên để dân đi đến tận Đất Hứa không? Chỉ cần nhớ lại những hành động Thiên Chúa trợ giúp con người, Như thư I Côrintô, Thánh Phaolô tiên báo trước đời sống Kitô hữu, những người đã được rửa tội trong Chúa Kitô là Đá tảng tuôn trào mạch nước sự sống và nuôi dưỡng bằng bánh bởi trời. Nhưng làm thế nào để chúng ta tin vào lòng trung thành của Thiên Chúa và giúp chúng ta tin vào tình yêu Chúa khi bất hạnh tấn công con người?
Thánh Luca kể lại cho chúng ta bình luận của Chúa Giêsu về hai biến cố thời sự lúc đó. Biến cố thứ nhất là cuộc nổi loạn của vài người Galilê bị quan Philatô đàn áp giết chết; biến cố thứ hai là ngọn tháp tại Giêrusalem bị sụp đổ làm cho 18 người thiệt mạng; hai biến cố bi thảm này khác nhau, một do con người tạo ra, và một do tai nạn. Người đương thời Chúa Giêsu thường có tâm thức nghĩ rằng, tai nạn đã đổ xuống trên các nạn nhân, bởi vì họ đã phạm lỗi trầm trọng. Trái lại, Chúa Giêsu nói : "Các người cho rằng những nạn nhân người Galilêa kia là những kẻ tội lỗi hơn tất cả mọi người Galilêa ư?... Hoặc 18 nạn nhân kia là những kẻ lỗi phạm hơn tất cả mọi người dân Giêrusalem chăng?" (Lc13,2.4). Thay vì kết luận đơn giản coi sự dữ như là hình phạt của Thiên Chúa, Chúa Giêsu hồi phục lại hình ảnh chân thực của Thiên Chúa là Ðấng tốt lành, không muốn sự dữ; Người còn yêu cầu đừng coi những tai hoạ đó như là kết quả trực tiếp của tội lỗi cá nhân. Người nói: "Các ông tưởng rằng những người Galilê ấy là những kẻ tội lỗi nhất ở xứ Galilê cho nên mới đáng hình phạt như vậy ư?" Và Chúa Giêsu kết luận cho cả hai trường hợp như sau: "Không phải thế. Tôi nói cho các người biết, nếu các người không ăn năn hối cải, các người cũng sẽ phải chết như vậy" (Lc 13,3.5). Chúa Giêsu muốn dẫn những kẻ lắng nghe Người đến kết luận về sự cần thiết phải ăn năn trở lại.
Khi cái chết tấn công chúng ta, đức tin không cho chúng ta những lời giải thích hoặc an ủi chúng ta yên tâm, nhưng đức tin hỏi chúng ta: chúng ta đã làm gì trong cuộc đời khi đang phải đối diện với cái chết vây quanh ta, bất hạnh và đau khổ tấn công và chạm đến ta?
Để làm rõ lời kêu gọi hoán cải, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn cây vả. Đã ba năm nay, cây không sinh quả. Như chúng ta, những người đã được hưởng lợi quá lâu từ ân sủng của Thiên Chúa mà không đáp trả cách hào phóng. Chủ vườn nói với chúng ta rằng, điều này đã quá đủ. Và bây giờ người làm vườn chưa ưng nhận sự phán xét của Thầy nên trả lời: "Thưa ông, xin để cho nó một năm nay nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân; may ra nó có quả chăng, bằng không năm tới ông sẽ chặt nó đi" (Lc 13, 9), đúng là năm án treo, một năm hồng ân. Trong hội đường Nazareth, chính Chúa Giêsu với sứ mạng được ủy thác đến công bố năm hồng ân. Năm chúng ta đang sống đây là Năm Thánh Lệ Thường 2025, một năm chúng ta được Chúa thi ân giáng phúc.
Sự chết không tấn công một cách mù quáng, nhưng là lời mời gọi chúng ta hoán cải đời sống. Đó là lý do tại sao phụng vụ cung cấp cho chúng ta bài suy niệm này ở trung tâm của Mùa Chay, khi chúng ta tiếp tục cuộc hành trình 40 để hướng tới việc cử hành lễ Vượt Qua, và mời chúng ta đi tiếp để Chúa nhật tới canh tân phép rửa của chúng ta, nguồn nước hằng sống trào dâng từ trái tim của Chúa Giêsu.
Vâng, lạy Chúa, khi con nhìn thấy những gì xảy ra trên thế giới, các tai nạn gây đau đớn cho nhân loại và đau khổ đến anh em của con, con nghe thấy giọng nói của Chúa nói với con: "Hãy sám hối ngay ngày hôm nay. Tận dụng Năm Thánh này, Năm Hồng Ân, năm Ta chăm sóc con để con có thể sinh trái". Amen. mục lục
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
Với mục đích để Lời Chúa được loan truyền và thông tin Giáo hội được lan tỏa, Legio Mariæ sẵn lòng để các tổ chức và cá nhân sử dụng lại tin bài đã đăng trên báo giấy và báo mạng legiomariævn.com của mình.
Tuy nhiên, vì đức công bằng và sự bác ái, xin quý vị vui lòng ghi đầy đủ nguồn như sau: “Theo Đạo Binh Đức Mẹ, website: legiomariævn.com”.
Ngoài ra, nếu chia sẻ bài lên mạng xã hội (Facebook, Twitter…), đề nghị dùng đường dẫn gốc trên website của Đạo Binh Đức Mẹ.